Kenneth
Rogoff, Project
Syndicate
Biên
dịch: Nguyễn Lương Sỹ | Hiệu đính: Lê Hồng
Hiệp
Posted on 30/08/2017 by The Observer
Với sự đắc cử của một Tổng thống trung dung có tư tưởng
cải cách ở Pháp và nhiều khả năng là sự tái đắc cử của Thủ tướng Đức Angela
Merkel, liệu có hy vọng nào cho dự án đồng tiền chung đang bị bế tắc ở châu Âu?
Có thể, nhưng thêm một thập niên nữa tăng trưởng chậm, bị ngắt quãng bởi các biến
động chu kỳ liên quan đến nợ vẫn nhiều khả năng xảy ra. Bằng một động thái kiên
quyết hướng tới sự hội nhập về tài khóa lẫn ngân hàng, mọi thứ có thể sẽ tốt
hơn nhiều. Nhưng với việc thiếu đi các chính sách tăng cường sự ổn định và bền
vững, những nguy cơ sụp đổ sau cùng vẫn lớn hơn.
Đúng vậy, trong ngắn hạn, có nhiều lý do để lạc
quan. Năm vừa qua, khu vực đồng Euro đang trải qua một sự phục hồi vững chắc
theo chu kỳ, vượt quá mong đợi hơn bất kỳ nền kinh tế lớn nào khác. Và không
nghi ngờ gì nữa: sự đắc cử của Emmanuel Macron là một sự kiện cột mốc, làm gia
tăng hy vọng rằng nước Pháp sẽ tái thúc đẩy nền kinh tế của họ một cách hiệu quả
để trở thành một đối tác hoàn chỉnh và bình đẳng với nước Đức trong việc quản
lý khu vực đồng Euro.
Macron và đội ngũ kinh tế của mình tràn đầy các ý tưởng
hứa hẹn, và ông sẽ nắm đa số ghế trong Hạ viện để thực thi chúng (mặc dù sẽ là
hữu ích nếu nước Đức cho ông không gian giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách để
đổi lấy cải cách). Tại Tây Ban Nha cũng vậy, cải cách kinh tế đang mang lại sự
tăng trưởng dài hạn mạnh mẽ hơn.
Nhưng không phải mọi thứ đều ổn. Hy Lạp vẫn gần như
không tăng trưởng, sau khi trải qua một trong những cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất
trong lịch sử, mặc dù những người đổ lỗi việc này cho chính sách thắt lưng buộc
bụng của nước Đức rõ ràng không hề nhìn vào các con số: với sự khuyến khích từ
các nhà kinh tế học cánh tả Hoa Kỳ, Hy Lạp đã yếu kém trong việc quản lý gói cứu
trợ có lẽ là với các điều kiện đi kèm dễ dàng nhất trong lịch sử hiện đại. Nước
Ý làm tốt hơn Hy Lạp rất nhiều, nhưng đó là một lời mỉa mai; thu nhập thực tế của
nước này đang thực sự thấp hơn một thập niên trước đó (mặc dù khó biết được một
cách chắc chắn do nền kinh tế ngầm rất lớn của nước này). Đối với Nam Âu nói
chung, đồng tiền chung đã tỏ ra là một cái lồng bằng vàng, buộc các nước này thực
hiện kỷ luật về tiền tệ và tài khóa nhưng lại triệt tiêu cơ chế tỷ giá hối đoái
vốn là một tấm nệm quan trọng chống lại các cú sốc bất ngờ.
VIDEO :
How Long Can the Eurozone Survive
without Greater Integration?
Thực ra, một phần lý do giúp nền kinh tế Vương quốc
Anh vẫn được duy trì khá tốt kể từ cuộc trưng cầu dân ý Brexit năm ngoái đó là
vì đồng bảng Anh trượt giá mạnh, làm gia tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nước
này. Dĩ nhiên, nước Anh nối tiếng (và khôn ngoan) vì lựa chọn không tham gia
khu vực đồng tiền chung, mặc dù bây giờ họ đang có động thái (không quá khôn
ngoan) khi rút hoàn toàn khỏi Liên minh châu Âu và toàn bộ thị trường chung.
Hiện nay, rõ ràng là đồng euro không còn cần thiết
cho sự thành công của EU, và thay vào đó còn cho thấy là một chướng ngại lớn
như nhiều nhà kinh tế học châu Âu đã dự đoán. Các quan chức của Cộng đồng châu
Âu từ lâu đã ví sự hội nhập ở châu Âu như là hành động đạp xe đạp: người ta phải
di chuyển liên tục về phía trước nếu không sẽ bị ngã. Nếu vậy, việc áp dụng đồng
tiền chung quá sớm cũng giống như đánh lái xe đi vòng qua một con đường xi măng
dày và chưa khô.
Trớ trêu thay, cho đến nay, lý do chính khiến việc
chấp thuận đồng euro ban đầu rất được ủng hộ ở Nam Âu là việc vào những thập
niên 1980 và 1990, người dân bình thường đều mong mỏi có được sự bình ổn giá cả
như cách người Đức được hưởng với đồng Mác Đức. Nhưng, trong khi đồng euro dẫn
tới việc lạm phát giảm mạnh khắp khu vực eurozone, thì phần lớn các quốc gia
khác cũng đã giảm lạm phát thành công mà không cần đến nó.
Điều quan trọng hơn đối với thành tựu bình ổn giá đó
là sự ra đời của ngân hàng trung ương độc lập hiện đại, một công cụ gúp giảm
đáng kể mức độ lạm phát trên toàn thế giới. Đúng vậy, ở một vài nơi như
Venezuela vẫn tồn tại lạm phát ở mức ba con số, nhưng những nơi như vậy nay rất
hiếm. Rất có khả năng, thay vì tham gia vào đồng euro, nếu Ý và Tây Ban Nha đơn
thuần trao cho ngân hàng trung ương của họ nhiều quyền hạn hơn thì họ sẽ có mức
lạm phát thấp hơn hiện nay. Hy Lạp được xem là một trường hợp ít rõ ràng hơn;
nhưng nếu xét việc nhiều nước nghèo châu Phi vẫn giữ được lạm phát ở mức một
con số, ta có thể giả định rằng Hy Lạp cũng có thể làm được như vậy. Thực ra, nếu
các quốc gia Nam Âu vẫn giữ đồng tiền riêng của mình, họ có thể sẽ không bao giờ
lâm vào cảnh nợ nần nặng nề như vậy, và sẽ có thêm lựa chọn “quỵt nợ một phần”
thông qua lạm phát.
Câu hỏi đặt ra hiện nay là làm thế nào để dẫn dắt EU
thoát khỏi con đường xi măng còn ướt. Mặc dù nhiều chính trị gia châu Âu không
muốn thừa nhận điều này, nhưng việc giữ nguyên hiện trạng có lẽ là không bền vững;
sau cùng, hoặc là cần phải hợp nhất ngân sách lớn hơn đáng kể hoặc là đổ vỡ hỗn
độn. Thật vô cùng ngây thơ nếu nghĩ đồng euro sẽ không phải đối mặt với các thử
thách căng thẳng mới trong 5 – 10 năm tiếp theo, nếu không muốn nói là sớm hơn.
Nếu hiện trạng bây giờ rốt cuộc sẽ không bền vững, vậy
tại sao thị trường vẫn hết sức bình ổn như vậy, với việc trái phiếu chính phủ
thời hạn 10 năm ở Ý có lãi suất cao hơn trái phiếu của Đức chỉ chưa tới 2%?
Có lẽ sự chênh lệch lãi suất nhỏ đó phản ánh niềm
tin của các nhà đầu tư rằng các khoản cứu trợ trực tiếp rốt cuộc cũng sẽ được
thực hiện, bất chấp việc các chính trị gia Đức có quả quyết phản đối đến mức
nào. Việc Ngân hàng Trung ương châu Âu mua lại nợ của các quốc gia ngoại vi đã
thiết lập nên một khoản trợ cấp ngầm, và tranh luận về Trái phiếu châu Âu
(Eurobonds) đang được hâm nóng với chiến thắng của Macron.
Hoặc có lẽ các nhà đầu tư đang đánh cược rằng Nam Âu
đã lún quá sâu vào vũng xi măng đến mức khó có thể thoát ra được. Nước Đức sẽ
chỉ tiếp tục thắt chặt ngân sách của họ để bảo đảm rằng các ngân hàng nước này
sẽ thu hồi được nợ.
Dù là cách nào đi nữa thì các nhà lãnh đạo khu vực đồng
tiền chung tốt hơn hết là nên hành động ngay từ bây giờ, thay vì chờ đợi cuộc khủng
hoảng tiếp theo của đồng tiền chung. Việc sự lạc quan của ngày hôm nay sẽ kéo
dài trong bao lâu là do Macron và Merkel định đoạt.
*
Kenneth Rogoff, Giáo sư Kinh tế học và Chính sách
công tại Đại học Harvard và là chủ nhân giải Deutsche Bank về Kinh tế tài chính
năm 2011, là Kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế giai đoạn 2001 – 2003. Cuốn
sách mới nhất của ông, The Curse of Cash, được xuất bản tháng 8 năm 2016.
Copyright:
Project Syndicate 2017 – The
Eurozone Must Reform or Die
Nguồn: Kenneth
Rogoff, “The Eurozone Must
Reform or Die”, Project Syndicate, 14/06/2017.
No comments:
Post a Comment