samedi
5 mars 2016
Thế nào
là "thoát Trung" ? Nếu là để thoát khỏi "ảnh hưởng" của
Trung Quốc thì, theo tôi, không hẳn chỉ là các vấn đề thuộc về văn hóa, kinh tế
hay "lời nguyền địa lý" như nhiều học giả VN đã và đang bàn luận.
Thử lấy
thí dụ Nhật Bản, Đài Loan và Đại Hàn. Văn hóa (nếu không nói là văn minh) của
ba nước này, trên nhiều mặt của xã hội hiện nay vẫn thể hiện sâu đậm màu sắc của
văn hóa Khổng giáo. Về chữ viết đã đành. Thử xem một vài phim tình cảm xã hội của
Đại Hàn, Đài Loan hay Nhật sản xuất. Ta thấy sao mà quen thuộc quá. Nếu bỏ qua
những đường nét, khung cảnh hiện đại của những thành phố tiên tiến trong một quốc
gia phát triển, thì ta tưởng đó là phim xã hội VN. Khung cảnh trong gia đình của
một người Đài Loan, Đại Hàn, thậm chí Nhật, đều giống nhau, như Việt Nam (nhứt
là VNCH trước kia). Đó là mô hình của một xã hội ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh.
Dĩ nhiên là văn hóa này đã giảm thiểu nồng độ cực đoan, đến từ việc du nhập văn
hóa bao dung và tự do của Tây phương. Ta không còn thấy cảnh thân phận người phụ
nữ bị bó rọ trong "tam tòng, tứ đức", cũng không thấy người đàn ông với
những tín điều cứng nhắc "tam cương, ngũ thường"...
Câu hỏi
đặt ra, nếp sống gia đình ở Nhật, ở Đài Loan, ở Hàn quốc, có tốt hơn nếp
sống gia đình ở VN hay TQ hiện nay, ảnh hưởng chủ thuyết duy vật của Mác Lê Nin
hay không ?
Câu hỏi
tiếp theo, là các nước Nhật, Hàn quốc, Đài Loan... về phương diện địa lý, cũng
có "lời nguyền" về "địa chính trị" không khác lắm với Việt
Nam. Vậy sao họ "cách biệt", nếu không nói là "thoát và vượt
Trung" hàng thế hệ về tiến bộ văn hóa, khoa học kỹ thuật ?
Còn về
vấn đề kinh tế, liên thuộc kinh tế giữa Trung Quốc với các nước Nhật, Hàn, và
Đài Loan hết sức là gắn bó keo son. TQ đã, đang và sẽ mãi là đối tác quan trọng
hàng đầu của ba nước này. TQ nhờ tư bản và kỹ thuật các nước này đầu tư nên mà
kế hoạch "hiện đại hóa" thành công. Các nước này nhờ TQ mà kinh tế
tăng trưởng đều đặng. Vậy họ có cần "thoát" lẫn nhau không ?
Các nước
trên, về phương diện chữ viết, cũng như VN trước thời Pháp thuộc, đến hôm nay
cũng vẫn giữ nguyên tắc cơ bản chữ Hán. Nhưng VN, có lẽ vì muốn "khác người",
nhứt là phải khác (và vượt trội) VNCH, do đó có khuynh hướng xóa bỏ các từ Việt
gốc Hán. Một số kinh nghiệm sau 1975 với các ngôn từ ngây ngô, như từ "xưởng
đẻ" để thay thế cho "nhà hộ sinh". Bệnh viện Từ Dũ ở Sài Gòn có
lúc đổi tên là như vậy. Lại còn các từ như "máy bay lên thẳng",
"lính thủy đánh bộ", "giặc lái"...
Việc sử
dụng từ gốc Hán không có gì phải mặc cảm. Người Nhật, người Hàn... xem ra còn lệ
thuộc vào chữ Hán còn hơn VN. Bên Châu Âu cũng vậy, chữ viết các xứ này đều bắt
nguồn từ Latin, Grec... Những từ khoa học các nước Âu Mỹ hầu hết đều có gốc
Latin hay Grec. Các nước này đâu thấy ai lên tiếng than phiền là lệ thuộc, tỏ ý
muốn "thoát Trung" hay "thoát Grec (hay Latin)" đâu ?
Lệ thuộc
hay không là do mình. Ta thấy một lượng lớn từ ngữ chuyên môn (học thuật hay
khoa học) Hán Việt bắt nguồn từ Nhật, do các học giả Nhật phát minh ra. Chỉ số
chất lượng về đời sống, về văn hóa, về kinh tế... trên mỗi con người của Nhật,
Hàn, Đài Loan hơn xa Trung quốc. Trong khi thành quả các tiến bộ về văn hóa,
khoa học, kỹ thuật... Trung Quốc cũng bị các nước Nhật, Hàn... đã bỏ xa hàng
vài thập niên. Như thế, ta thấy việc ảnh hưởng văn hóa Hán (chữ viết) không hề ảnh
hưởng lên việc phát triển quốc gia.
Về kinh
tế cũng vậy, sự liên thuộc về kinh tế giữa hai nước Nhật, Hàn và Đài loan với
Trung Quốc không chừng còn quan trọng hơn quan hệ giữa TQ với Hoa Kỳ và UE cộng
lại. Trong các quan hệ này, ta dùng từ "liên thuộc" chứ không phải
"lệ thuộc". Nếu chỉ tính từ thập niên 80, TQ luôn nhập siêu từ Hàn quốc
và Nhật. TQ cần các mặt hàng có tính khoa học kỹ thuật cao của hai nước này để
phát triển đất nước. Trong khi Nhật và Đại Hàn cũng cần đến TQ để phát triển
kinh tế. Cho dầu Nhật và TQ có những mâu thuẫn sâu sắc về chủ quyền quần đảo
Senkaku (Điếu Ngư), nhưng TQ chưa hề dám đe dọa dùng vũ khí kinh tế đối với Nhật.
Như vậy,
dựa trên hai yếu tố văn hóa và kinh tế để "thoát Trung", (như các học
giả VN đã và đang hô hào) rõ ràng Nhật và Đại Hàn đang có khuynh hướng ngược lại :
"nhập Trung" thay vì "thoát Trung".
Nhưng
quan hệ kinh tế hai bên Việt-Trung, số kim ngạch trao đổi hai bên cán cân luôn
thặng dư về phía TQ. Việc thâm thủng này ngày mỗi tăng. Điều quan trọng là quan
hệ kinh tế giữa VN và TQ, trong chừng mực, là quan hệ "thực dân – thuộc địa
về kinh tế". Nếu đọc lại các bản tuyên bố chung của hai bên được công bố gần
đây, ta thấy VN đã nhượng cho TQ quá nhiều đặc quyền, đến đỗi các việc này có
thể đe dọa nền độc lập của quốc gia. Không nói quá, mọi huyết mạch của kinh tế
VN hiện nay đều do TQ kiểm soát.
Điều
này đến từ các quyết định chính trị chứ không phải là những lựa chọn bắt buộc.
Tức là VN vẫn có thể thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế nếu lãnh đạo có can
đảm về chính trị.
Vì vậy,
theo tôi, thoát Trung hay không là một vấn đề "chiến lược" chứ
không hẵn là kinh tế hay văn hóa.
Một lý
do thường thấy nhiều người VN nại ra, ngại khi quay lưng lại với Trung quốc,
là vấn đề "địa chiến lược", nước xa không cứu được lửa gần.
Ta thấy
các nước như Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Phi… (nếu không nói Đài Loan) đều ở kế
"vách" với TQ, nhưng họ đâu sợ TQ. Các nước này, phần lớn, là các nước
dân chủ, thịnh vượng.
Để xóa
bỏ nỗi ám ảnh (chính đáng) "nước xa không cứu được lửa gần" của một số
người VN hiện nay, ta cần nhắc lại một số điều cơ bản của các lý thuyết về địa
chiến lược (mà lãnh đạo TQ bị ảnh hưởng).
Theo
tôi, lý thuyết "Địa Chiến lược – Không gian sinh tồn" của
Friedrich Ratzel (xuất bản năm 1902) có ảnh hưởng sâu sắc lên các lớp lãnh đạo
(then chốt) của TQ, làm thay đổi bộ mặt của nước này, đó là : Tưởng Giới
Thạch, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.
Bảy định
luật của thuyết này là :
1.
Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của
dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn
minh hơn.
2. Lãnh
thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ
thương buôn của quốc gia cũng như chủ thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng
vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện.
3. Việc
bành trướng của cường quốc được thực hiện qua phương cách "hấp thụ và tiêu
hóa" các nước nhỏ.
4. Đường
biên giới quốc gia không xác định (biên giới linh động - frontière vivante).
Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn
bành trướng.
5.
Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ (bây giờ là biển) là mục tiêu chiếm hữu.
6. Các
quốc gia yếu kém ở kế cận là mục tiêu bành trướng. Sự bành trướng của cường quốc
không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc.
7. Hiện
tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các
quốc gia.
Bảy định
luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày
hôm nay.
Định luật
1 : Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc
dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ
có một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung
quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở
Trung Quốc.
Định luật
2 : Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế,
cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những hành vi khẳng định chủ quyền của
TQ ở biển Đông, hay lên tiếng tranh chấp với Nhật ở quần đảo Senkaku, cho thấy
ý chí của nước này.
Định luật
3 : Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới
lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và
tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được
thực hiện ráo riết tại Tây Tạng.
Định luật
5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu chinh phục Biển Đông (Hoàng Sa
và Trường Sa) đồng thời dành lại quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Nhưng định luật
này cần cập nhật thêm, vì chủ đích của việc chinh phục là vùng biển, qua hai mặt:
chiếm hữu và xây dựng các đảo nhỏ ở HS và TS thành một "bức trường
thành" nhằm mục đích phòng vệ lục địa, sau đó là tài nguyên.
Định luật
6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi,
hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một
Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của
Trung Quốc. TQ đã sử dụng nhuần nhuyễn "quyền lực mềm" để kiểm soát
VN, qua các mặt: ý thức hệ chính trị, văn hóa và kinh tế. Ta thấy trên thực tế,
đảng CSVN là một bộ phận của đảng CSTQ. Về văn hóa, phim ảnh, sách vở... của TQ
thống lĩnh trên các chương trình truyền hình VN. Người VN thuộc sử TQ hơn cả
người TQ. Còn về kinh tế, hàng hóa TQ tràn ngập thị trường. Hàng hóa TQ len lõi
nhập lậu vào VN, khiến nền công kỹ nghệ tư nhân VN chết đứng. Ngoài ra, các
công trình xây dựng ở VN hiện nay hầu hết đều do nhà thầu TQ phụ trách. Nhìn
thành quả đường xe điện ở Hà Nội, với đường rầy uống lượn nhấp nhô như "rồng",
ta thấy ngay sự buông thả, vô trách nhiệm của lãnh đạo VN. Đó cũng là cách áp dụng
uyển chuyển của lý thuyết "không gian sinh tồn", biến VN thành một
chư hầu kinh tế.
Từ định
luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở
thành đại cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).
Định luật
7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu
tranh chấp mà là việc tranh dành vùng biển, tranh dành thị trường, vùng ảnh hưởng.
Ngoài ra là những xung đột giữa các nền văn minh (Thiên chúa - Hồi giáo) như hiện
nay (theo thuyết của Samuel P. Huntington).
Theo
tôi, quan trọng nhất trong các định luật trên là định luật 6. "Thoát
Trung" là thoát lệ thuộc chính trị, thoát u mê ý thức hệ, thoát mù
quáng tình đồng chí anh em, thoát cám dỗ "4 tốt 16 chữ vàng"...
Thoát
ra được hay không là do lãnh đạo VN có bản lĩnh chính trị, lòng yêu nước, tính
can đảm và ý chí dám hy sinh (quyền lợi bản thân và đảng phái) hay không.
Ta thấy
định luật 6 chứng nghiệm cho các nước Nam Mỹ. Do gần với nước Mỹ, vì lý do
"sinh tồn" của nước Mỹ, các nước này phải là là những nước nghèo (hay
chỉ mới phát triển). (Ngoại trừ Canada, vì có cùng văn hóa và lý tưởng với Mỹ).
Trong
khi những nước Nhật, Đại Hàn, Đài loan... là những nước kế cận TQ, mà TQ là địch
thủ tiềm tàng của Mỹ, do đó bằng mọi cách Mỹ phải giúp các nước này để họ luôn
giàu và mạnh hơn TQ (để không ngả về TQ). Điều này cũng đúng cho các nước Tây
Âu trong thời chiến tranh lạnh, để các nước này có khả năng chống lại Liên Xô.
Vì thế,
ở kế cận TQ không hẳn là điều xấu. Cũng như ở kế cận nước Mỹ chưa chắc là điều
tốt. Nếu Nhật, Đại Hàn, Đài Loan... do nhờ ở kế cận TQ mà được Mỹ giúp phát triển
đất nước giàu có, hùng mạnh, thì VN cũng có thể trở nên giàu và mạnh như vậy.
Thoát
Trung do đó là vấn đề thuộc phạm vi lựa chọn: lựa chọn đồng minh, lựa chọn
"ý thức hệ chính trị". Đó cũng là tầm nhìn "chiến lược" của
lãnh đạo, chứ không phải là văn hóa hay kinh tế.
Publié
par Nhan Tuan Truong à 06:19
No comments:
Post a Comment