13.03.2016
Cho đến mới đây thôi, kể từ khi đặt chân lên đất
Mỹ, tôi không biết buồn là gì. Thế mà tôi đã không khỏi lặng người khi
được tin Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đột ngột từ trần ở tuổi 79 vì trụy tim
vào ngày 2/3 vừa qua khi đang cùng hiền thê của ông, Tiến sĩ Đào Thị Hợi,
bay đến Manila, Phillipines, để tham dự một hội nghị quốc tế chống Trung Quốc
xâm lược ở Biển Đông và một cuộc họp đấu tranh cho Dân chủ và Nhân quyền ở Việt
Nam.
Lần đầu tiên tôi xuất hiện trước công chúng
tại Hoa Kỳ cũng chính là lần đầu tiên tôi gặp con người ấy.
Ngày 6/5/2014, tròn một tháng sau khi tôi rời
nhà tù Việt Nam sang Mỹ theo lời mời của Chính phủ Mỹ để làm việc cho
Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam cũng như cho quan hệ tương lai giữa hai nước,
tôi đã cùng vợ tôi là Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đến trụ sở Quốc
hội Mỹ để họp báo về việc tôi có mặt ở Mỹ cho dù bản án 7 năm tù về
“Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” vẫn còn một
nửa. Gần như ngay khi tôi xuất hiện, một người đàn ông có tuổi, thấp
người, tóc bạc trắng, tươi cười cùng một phụ nữ tiến đến. Vợ tôi
giới thiệu: “Đây là Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích và chị Hợi, vợ anh
Bích. Tháng 7 năm ngoái, khi em đến Mỹ thì được anh chị Bích đón tiếp
rất chu đáo”. Thế là người đàn ông ấy rút từ túi xách tay một quyển
sách viết về nhà triết học Trần Đức Thảo, ký tặng tôi rồi nói đặc
giọng Hà Nội: “Tôi có viết bài giới thiệu cho cuốn sách này, trong
đó có thuật lại lời Hà kể về việc Vũ đã chăm sóc Giáo sư Trần
Đức Thảo trong quãng cuối đời của Giáo sư tại Paris như thế nào”.
Chân tình, trí thức, đó chính là những ấn
tượng đầu tiên của tôi về Nguyễn Ngọc Bích.
Thế rồi ông mời vợ chồng tôi lại thăm nhà ông
bà tại Springfield, Virginia, kề sát Thủ đô Washington. Trên đường đi, ông bà
không ngớt gọi nhau “Bố à”, “Bé ơi” đầy âu yếm, ấn tượng đến mức tôi chẳng đừng
đưa ra nhận xét: “Anh chị cứ như đôi chim cu ấy nhỉ. Ríu rít suốt ngày”. Cũng
may là nhờ cái sự “vô duyên” ấy của tôi mà chúng tôi mới biết được “love story
– chuyện tình” của ông bà khi là sinh viên đồng môn trên đất Mỹ này vào nửa cuối
thập niên 50 của thế kỷ trước.
Bước chân vào nhà thì trời ơi, cơ man là sách,
không chỉ trên giá, mà còn cả trên bàn, trên sàn, làm “con mọt sách” trong tôi
phát thèm, nhất là từ nhà tù ra đi tôi chỉ có hai bàn tay trắng. Rồi thấy trên
tường có treo ảnh một vị đội mũ cánh chuồn, hỏi ra thì được Nguyễn Ngọc Bích
cho biết đấy là thân phụ ông, Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn Trọng Tấn. Nguyễn Ngọc
Linh, anh ruột ông mà sau này tôi gặp, cho biết thêm: “Các cụ quê ở Bắc Ninh, đến
khi vào quan trường mới định cư ở Hà Nội, phố Sinh Từ, để các con có trường tốt
(Lycée Albert Sarraut cho con trai, Félix Faure cho con gái). Bích sinh ở Hà Nội.
Sau khi cụ ông mất vào năm 1947 và VIệt Minh kiểm soát miền Bắc, anh thứ hai là
Nguyễn Ngọc Chác vào Sài Gòn làm ăn, mang theo mấy em nhỏ trong đó có Bích để
nuôi dạy. Sau này Bích học Lycée (Trường trung học Pháp ngữ) Chasseloup
Laubat”. Vậy là Nguyễn Ngọc Bích mới 10 tuổi đầu đã xa đất Thăng Long nhưng kỳ
lạ thay, sau 7 thập niên giọng của ông vẫn nguyên bản Hà Nội, không một chút
pha. Làm sao có thể lý giải được hiện tượng ngôn ngữ này nếu không phải bằng cội
nguồn dân tộc! Trong đầu tôi chợt vang lên những vần thơ bất tử trong thi phẩm
“Nhớ Bắc”của Huỳnh Văn Nghệ, một người Việt miền Nam chưa một lần đặt chân lên
đất Bắc:
Ai về Bắc, ta theo
với,
Thăm lại non sông
giống Lạc Hồng.
Từ thuở mang gươm
đi mở cõi,
Trời Nam thương nhớ
đất Thăng Long.
Nguyễn Ngọc Bích đã sớm đến với tôi như một người bạn
vong niên, tận tình giúp tôi trong nhiều công việc hẳn là nhờ điểm chung “Người
Hà Nội” ấy.
Mấy tháng đầu, do “Mỹ ngữ” của tôi có thể
nói là “zero” nên Nguyễn Ngọc Bích đã mất khá nhiều thời gian để
“thông ngôn” cho tôi trong các cuộc gặp với các tổ chức và chính giới
Mỹ. Thế rồi khi các bài báo bằng tiếng Việt của tôi được đăng, ông lại
giúp tôi chuyển ngữ sang tiếng Anh. Đến khi tôi đã có thể tự viết đôi
chút bằng tiếng Anh thì cũng chính ông là người hiệu đính cho tôi.
Đến tháng 12 năm 2014, tức 8 tháng sau khi tôi đặt chân đến đất Mỹ, tôi
phải thuyết trình bằng tiếng Anh về dân chủ hóa Việt Nam trong khuôn
khổ nghiên cứu tại Viện Quốc Gia Yểm Trợ Dân chủ của Mỹ (National
Endownment for Democracy - NED), tôi lại nhờ ông đi với tôi để phòng khi
tôi không nói hết được ý của mình thì đã có ông giúp. May mắn là
tôi đã thuyết trình trót lọt, rồi trả lời các câu hỏi của cử tọa
cũng trót lọt mặc dù ông Carl Gershman, chủ tịch NED giữ vai trò điều
phối buổi thuyết trình trước đó đã gợi ý là tôi có thể nói tiếng
Việt để Nguyễn Ngọc Bích dịch. Thành thử ông…”thất nghiệp” và ”ngủ” tại
chỗ theo đúng nghĩa đen của từ này.
Một con người hồn nhiên như vậy ấy thế lại là một
con người chính trị, hơn nữa, có đẳng cấp.
Nguyễn Ngọc Bích từng là Cục trưởng Cục Thông
Tin Quốc Ngoại của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Tổng giám đốc Việt Tấn Xã thời
Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa - chức vụ mà người anh trai Nguyễn Ngọc
Linh cũng đã đảm nhiệm. Thế rồi gần đây ông là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo
Lâm Thời Việt Nam Cộng Hòa, một tổ chức dân sự tự đặt ra nhiệm vụ
vận động thế giới phục hồi Hiệp định Paris 1973... Không những thế,
Nguyễn Ngọc Bích còn là người vận động thành lập Đài Á Châu Tự Do
(Radio Free Asia) có chức năng thúc đẩy chuyển đổi sang dân chủ ở các
nước cộng sản và độc tài khác ở châu Á và trở thành Giám đốc đầu
tiên của Ban Việt Ngữ Đài này.
Nghĩa là nếu chỉ nghe những chức danh của ông cả
trước lẫn sau 30/4/1975 thì người ta rất dễ hình dung ra một Nguyễn Ngọc
Bích “Việt Nam Cộng Hòa đến cùng”. Thế nhưng trên thực tế lại không phải vậy.
Có lần Nguyễn Ngọc Bích mời tôi đến nói
chuyện về quan hệ Việt - Mỹ với Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt Tại Hoa Kỳ
(National Congress of Vietnamese Americans) mà ông là chủ tịch. Quan điểm
của ông là cộng sản đã cưỡng chiếm “quốc gia” Việt Nam Cộng Hòa. Tôi
thì ngược lại, khẳng định ở Việt Nam chỉ có một quốc gia duy nhất
nhưng có hai chính thể đối kháng nhau là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa
theo cộng sản và Việt Nam Cộng hòa chống cộng trong bối cảnh “chiến tranh
lạnh” giữa một bên là khối các nước chống cộng do Mỹ lãnh đạo và bên
kia là khối các nước cộng sản do Liên Xô và Trung Quốc đứng đầu. Nói
cách khác, vẫn theo quan điểm của tôi, chiến tranh Việt Nam diễn ra trong hai
thập niên, từ 1955 đến 1975, là một cuộc nội chiến giữa những người
Việt. Khi tôi kết thúc bài nói chuyện, Nguyễn Ngọc Bích hướng về cử
tọa hồ hởi: “Quý vị đến đây là không có uổng tý nào. Một quan điểm
mà mọi người ở đây rất ít được nghe với một phân tích chính xác và
rõ ràng đến như vậy”.
Lý giải thế nào về “cầu thị chính trị” đáng ngạc
nhiên này của Nguyễn Ngọc Bích? Là bởi ngự trị nơi ông là một tấm lòng yêu nước
nồng nàn. Vả lại cũng chỉ trên có sở ái quốc ấy mới có thể lý giải vì sao là
Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Việt Nam Cộng Hòa nhưng Nguyễn Ngọc
Bích lại không chủ trương khôi phục chính thể “Việt Nam Cộng Hòa” như
ông đã hơn một lần khẳng định.
Thực vậy, với tâm thế “Quốc gia hưng vong, thất phu
hữu trách”, Nguyễn Ngọc Bích bươn bả tìm cách để bảo vệ cho được các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam trước xâm lược Trung Quốc. Và cái cách cứu
nước của ông là vận động trở lại Việt Nam Cộng Hòa trên danh nghĩa để có cơ
sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Ông viết: “Hiệp-định Geneva vào tháng Bảy 1954, một hội nghị với sự đồng chủ-tịch
của Anh và Liên-Xô đã chia đôi Việt Nam thành hai miền ở vĩ-tuyến
17. Hoàng Sa và Trường Sa, vì là ở dưới vĩ tuyến 17, nên thuộc về chính
quyền miền Nam, tức Việt Nam Cộng Hòa sau này. Chính dựa vào căn bản pháp
lý đó mà Việt Nam Cộng Hòa đã cai quản hai quần đảo đó, đặc biệt là Quần đảo
Hoàng Sa đến tháng Giêng 1974 khi Trung Quốc dùng vũ lực để cưỡng chiếm, và Quần
đảo Trường Sa đến tận cuối Chiến tranh Việt Nam (tháng Tư 1975)”. Ông
cũng nói rõ: “Trong hoàn cảnh đất nước bị cưỡng chiếm (Trường Sa, Hoàng Sa),
chúng tôi thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Việt Nam Cộng Hòa để làm việc dựa
trên những hồ sơ có thể thành công về phương diện pháp lý, để tranh đấu”. Tóm
lại với Nguyễn Ngọc Bích, “Việt Nam Cộng Hòa” đơn thuần là phương
tiện để bảo vệ lãnh thổ của tiền nhân trên Biển Đông trước bành trướng Đại
Hán.
Lòng yêu nước của Nguyễn Ngọc Bích còn thể
hiện qua chính phân tích của ông thế nào là “người yêu nước”. Trong một bài viết có tiểu mục “Người
yêu nước là người có viễn kiến”, ông khẳng định: “Người thiếu
hiểu biết thường cho những người yêu nước là những người “dại dột,” bỏ cái êm ấm
của nhà cao cửa rộng, của vợ đẹp con khôn để đi làm chuyện chưa chắc đã thành
công. Song chính thật, người yêu nước phải là người có viễn-kiến, nhìn được
xa, trông được rộng, ít nhất là quá được cái mũi của mình, quá được quyền lợi
cá nhân và gia đình làng xã của mình, và xa đôi khi đến cả hàng trăm năm, hàng
ngàn năm như cuộc tranh đấu của dân Lạc-Việt (Hai Bà v.v.) để thoát ra khỏi cái
định mệnh Hán hóa đã xảy ra với hàng chục nhóm trong loài “Bách Việt” ở miền
Nam Trung-quốc”. Và trong
một bài viết khác ông đã đưa ra ví dụ cụ thể về “người yêu nước -
viễn kiến”: “Liệu họ (chính quyền Việt Nam) có đáp-ứng được nhận-định của
Cù Huy Hà Vũ cho rằng ‘đi với Mỹ lúc này là mệnh-lệnh của lịch-sử,’ một cái
nhìn có viễn-kiến mà anh đưa ra từ năm 2010?”
Cũng chính lòng yêu nước đã đưa Nguyễn Ngọc Bích
đến quyết liệt khẳng định tôn giáo phải phục tùng lợi ích Dân tộc và Tổ
Quốc Việt Nam. Ông viết: “Ngày nào người
Việt còn chưa nhìn được ra là những lợi ích của dân tộc và Tổ quốc phải vượt được
lên trên hết, trên cả những tín ngưỡng thiết thân đối với từng cá nhân trong
chúng ta thì ngày đó, đất nước còn nguyên nguy cơ chia rẽ và toàn dân, một lần
nữa, lại đứng trước hiểm họa bị ngoại bang thao túng để một lần nữa có thể mất
đi nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh-thổ của Tổ-quốc chúng ta”.
“Tiếng Ta Còn, Nước Ta Còn", tuyên ngôn ấy của
học giả Phạm Quỳnh khi bàn về Truyện Kiều của Đại Thi
hào Nguyễn Du – mà tôi, Cù Huy Hà Vũ, đánh giá mang tầm của một “Tuyên ngôn Độc
lập” - cũng đã được Nguyễn Ngọc Bích thấm nhuần và vận dụng triệt để. Thực vậy,
ông đã là tác giả của hàng chục tác phẩm ngôn ngữ, văn học, khảo cứu văn hóa -
lịch sử Việt Nam có giá trị bên cạnh việc sáng lập Tổ hợp xuất bản miền
Đông Hoa Kỳ để truyền bá các tác phẩm cổ điển Việt Nam kể cả dưới hình thức
song ngữ Việt - Anh như Cung Oán Ngâm Khúc, thơ Ôn Như hầu Nguyễn
Gia Thiều…mà sự thành công hẳn nhờ đáng kể vào sự uyên bác tiếng Nôm của chính
ông.
Với tư cách là nhà khảo cứu văn hóa Việt Nam,
Nguyễn Ngọc Bích đã có những phát hiện thú vị. Chẳng hạn trong bài “Ảnh
Hưởng Tam Giáo Trên Tinh Thần Người Việt” ông viết: “Phật-giáo Việt Nam là
truyền thống Phật giáo độc nhất mà tôi biết có những chức tương đương với vai vế
trong một gia đình, một tộc họ: sư cụ, sư ông, sư bà, sư bác, sư cô, chú tiểu”.
Tiếp nối ông, tôi xin bổ sung “Sư Thày” tương đương với “Cha” vào cái
“đại gia đình nhà chùa” đó. Thực vậy, ở nhiều địa phương miền Bắc
Việt Nam, người ta gọi người đàn ông sinh thành ra mình là “thày”.
Vẫn với tinh thần tiếng Việt là “Quốc hồn”, “Quốc
túy”, Nguyễn Ngọc Bích thậm chí Việt hóa cả địa danh nơi ông sinh sống để đặt
dưới tên ông mỗi khi viết báo, viết sách bằng tiếng Việt. Thực vậy trong
các tác phẩm ấy, “Khu Đồng Xuân, Bang Trinh Nữ, Hoa-kỳ-quốc” đã thay thế
“Springfield, Virginia, United States”. Kỳ lạ hơn, đến Quốc ca Mỹ ông cũng dịch
ra tiếng Việt rồi hát ngay trong các buổi lễ cộng đồng người Việt. Chỉ với
những việc làm này thôi, Nguyễn Ngọc Bích xứng đáng là một trong những người Việt
Nam hải ngoại yêu nước nhất và độc đáo nhất.
Đấu tranh cho Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam là một
hoạt động tất yếu của người Việt yêu nước, dù ở trong hay ngoài nước. Thế nên
người ta thấy Nguyễn Ngọc Bích hết đăng đàn trong cộng đồng người Việt để hỗ trợ
phong trào dân chủ ở Việt Nam lại xuất hiện trong các cuộc vận động chính giới
Hòa Kỳ và quốc tế gây sức ép với chính quyền Việt Nam chấm dứt đàn áp nhân quyền
và trả tự do cho mọi tù nhân lương tâm. Và cả những việc không tên như dạy tiếng
Anh cho những người trẻ tuổi dấn thân trong nước, ông cũng hào hứng thực hiện.
Lòng yêu nước nổi trội của Nguyễn Ngọc Bích còn được
khắc họa ở chố ông đấu tranh cho cái tốt đẹp hơn ở Việt Nam không chỉ ở
thời hiện tại mà còn ở thời tương lai. Xuất phát từ việc chỉ có vài
trăm nguời Nhật học ở nước ngoài mà khi về nước đã giúp đưa nước này
thành cường quốc, ông tổ chức ra Hội nghị Lãnh Đạo Trẻ Người Việt ở
Hoa Kỳ (Vietnamese American Youth Leathership Conference -VAYLC) với mục đích
bồi dưỡng thế hệ trẻ lý tưởng phục vụ vô vụ lợi quê hương Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Bích là như vậy nên dễ hiểu vì sao những
ngày này trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đâu đâu cũng nhắc đến ông
Hôm qua, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy,
cũng là một cựu tù nhân lương tâm, từ California gọi điện cho vợ chồng tôi
ôn kỷ niệm về ông, kể: “Trong một lần
ngồi với em, nhà văn Chu Linh và chị Trịnh Bình An, chú Bích hỏi em
quen anh Vũ như thế nào. Nghe em kể xong, chú Bích tủm tỉm cười rồi
nói: “Có một anh chàng rất là lạ. Tôi sang Mỹ từ năm 1954, đã gặp
đủ người Việt Nam, cả giáo sư, miền Bắc lẫn miền Nam, nhưng chỉ cậu
Vũ là làm tôi rất ấn tượng vì cậu này là người rất tự tin, không ai
nghĩ là cậu ấy vừa ở tù ra, mà lại là nhà tù cộng sản. Tính
cách ấy chỉ người sống trong xã hội dân chủ mới có được, Trong
giọng nói của cậu Vũ có chí khí, có tinh thần, có lửa. Cách diễn
đạt của cậu ấy không thuần túy truyền thông “xã hội chủ nghĩa” mà
là của người tiếp xúc nhiều, quan hệ rộng, quen nói chuyện trước
đám đông từ bé nên cách truyền đạt rất dễ hiểu và sinh động. Nhiều
người trong nước sang đây cứ đọc giấy, đọc đến 10 phút mới ngẩng mặt
lên, nghe chán lắm. Cậu Vũ thì lại nói vo. Mới sang đây tiếng Anh chưa
biết nhiều, ấy vậy nhiều khi cậu ấy cứ nói ào đi, thế mà lại hay!”
Câu chuyện của Thủy làm tôi nhớ lại cách đây đúng
10 năm, vào năm 1986, khi tôi tự ứng cử vào chức Bộ trưởng Bộ Văn Hóa
và Thông Tin để thực thi “quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội
của công dân” được Hiến pháp Việt Nam quy định, Thủ tướng khi đó là Phan
Văn Khải phát biểu: “Cậu Vũ này ngang ngược từ bé!”. Vậy cũng là nhìn
nhận con người nhưng sao khác nhau ”một giời một vực”. Với Giáo sư
“Việt Nam Cộng Hòa” Nguyễn Ngọc Bích con người là sản phẩm của Tự do,
trước hết của Tự do ngôn luận. Còn với Thủ tướng của chế độ độc tài cộng sản
Việt Nam con người chỉ là mầm nổi loạn!
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích ôi!
Ai rồi cũng phải “giã từ cõi thực để vào hư” (Xuân
Diệu), nhưng ông hẳn trong số những người hạnh phúc nhất vì đã ra đi dẫu
có đột ngột vẫn trong vòng tay của người vợ hết mực thương yêu Đào Thị Hợi –
“Bé” của ông và hơn thế nữa, trong tư thế của một chiến binh xung trận vì tồn
vong của Non Nước và Nhân Bản Việt Nam!
Trước Ngày tiễn đưa Ông về Cõi Vĩnh Hằng
Chicago, 10/3/2016
Tài
liệu tham khảo:
- Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Viện Việt học
- U.S.-Vietnam Relations: The View from Hanoi - Part I, YouTube 15/9/2014
http://www.youtube.com/watch?v=IRYDfK9poY4
- U.S.-Vietnam Relations: The View from Hanoi – Part II, YouTube 15/9/2014
Trở lại Hiệp định Paris: nên chăng? Diễn đàn Việt thức,
23/1/2013
Sắp Có Bước Ngoặt Trong Quan-Hệ Mỹ-Việt? Diễn
đàn Việt thức, 28/8/2014
--------------------------------
*Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài
VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
GS Nguyễn Ngọc Bích từ trần
VATVOnline Published on Mar 8, 2016
VATVOnline Published on Mar 8, 2016
Bác Nguyễn Ngọc Bích (Trịnh Hội)
7/3/2016
VIDEO : Cuộc trò chuyện cuối cùng với GS Nguyễn Ngọc
Bích RFAVietnamese
No comments:
Post a Comment