Hải chiến Hoàng Sa
19-1-1974
Thềm Sơn Hà
Cập
nhật: 18/01/2015
Lời
mở đầu:
Bài viết này tổng hợp từ các bài đã viết về Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trong trận
hải chiến Hoàng Sa, và các tài liệu đã được tìm thấy gần đây trong đó có tài liệu
do gia đình cố HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp.
Tác giả hy vọng sẽ trình bày một cách đầy đủ những hình ảnh hào hùng và bi thương của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến lịch sử chống lại bọn giặc xâm lăng Trung Cộng.
Tác giả hy vọng sẽ trình bày một cách đầy đủ những hình ảnh hào hùng và bi thương của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến lịch sử chống lại bọn giặc xâm lăng Trung Cộng.
Thềm
Sơn Hà
---
Hơn
hai tháng biệt phái công tác cho Vùng I Duyên Hải, Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 trở
về Đà Nẵng sau chuyến tuần dương cuối cùng để bàn giao lại vùng trách nhiệm cho
HQ11 (Hộ tống hạm Chí Linh). Tất cả nhân viên chiến hạm đều vui mừng khi nghĩ đến
lần trở về Sài Gòn sắp đến sẽ trùng hợp vào ngày Tết Nguyên Đán. Họ sẽ có dịp gần
gũi gia đình trong những giờ phút thiêng liêng của năm mới và cũng theo lời Hạm
Phó (HP) Nguyễn Thành Trí nói với vợ trước khi lên đường công tác thì chiến hạm
sẽ chuẩn bị đi đại kỳ tại Guam sau khi trở về Sài Gòn (1). Ngoài ra với đồng
lương mới lãnh, họ đi bờ ra phố Đà Nẵng mua sắm hàng hóa đặc biệt của địa
phương để mang về làm quà Xuân cho gia đình và cũng là dịp những chàng lính thủy
độc thân ra phố hưởng thụ những giây phút thoải mái sau những ngày dài lênh
đênh trên trên biển.
Bất
ngờ chiều 17-1-1974 chiến hạm nhận lịnh khẩn cấp cùng với Tuần Dương Hạm Trần
Bình Trọng HQ5 lên đường ra công tác Hoàng Sa (HS).
Hạm
Trưởng (HT) ra lịnh kéo còi nhiệm sở vận chuyển. Một vài nhân viên trở về lúc sợi
dây cuối cùng vừa tháo vội vàng nhảy xuống tàu, có người bị hụt chân rớt xuống
nước phải thả phao vớt lên.
Chiến
hạm rời bến Đà Nẵng lúc 2000H (8 giờ đêm) với tốc độ chậm để chờ HQ5. Lúc 00 giờ
12 qua ngày 18-1, HQ5 bắt đầu tách bến và bắt kịp HQ 10 vào lúc 3 giờ 15 sáng.
Trước tình trạng kỹ thuật của HQ10 chỉ còn xử dụng được một máy và do nhu cầu
hành quân khẩn cấp nên HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hành Quân
đã quyết định chỉ thị HQ5 chạy trước bỏ lại HQ10 phía sau.
Trên
đường đến HS, Hạm Trưởng HQ10, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (K.12/SQHQ/NT) ra lịnh
kiểm soát tất cả mọi ụ súng, đem đạn tối đa từ hầm đạn lên các dàn súng nhưng tất
cả các khẩu súng đều phải bao lại và nòng súng chỉa lên trời, HT khuyến khích tất
cả các nhân viên không thuộc phiên đi ca cố ngũ để lấy sức cho những ngày kế tiếp.
Ngoài ra ông ra lịnh mang lương khô để ở các nhiệm sở tác chiến và kiểm soát lại
4 bè cấp cứu cùng các hộp mưu sinh thoát hiểm. HT còn ra nghiêm lịnh bắt buộc tất
cả nhân viên phải mặc áo phao và đội nón sắt mặc dù trời rất nắng và nóng bức
(đây là những chỉ thị rất sáng suốt của một cấp chỉ huy đầy kinh nghiệm, tiên
liệu được những điều có thể xảy ra cho chiến hạm trong một trận hải chiến và
cũng nhờ những nghiêm lịnh này mà các chiến sĩ HQ10 trong lúc đào thoát đã có sẵn
một số nước uống, thực phẩm khô để cầm cự trong thời gian đầu và áo phao đã
giúp họ không bị chìm cũng như che chỡ bớt cơn lạnh về đêm).
HQ10
đến HS vào khoảng 11 giờ đêm ngày 18-1. HT liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp
là HQ Trung Tá Lê Văn Thự (K.10/SQHQ/NT) Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt
HQ16 kiêm Chỉ Huy Trưởng Phân Đội II (gồm có HQ 10 và HQ 16), sau đó thi hành lịnh
của Trung Tá Thự, HT ra lịnh làm tối chiến hạm (darken ship) để địch không nhận
dạng được.
Khoảng
01.00H khuya 19-1, chiến hạm nhận được lịnh hành quân từ Đại Tá Ngạc. Sau khi hội
ý với HP là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí (K.17/SQHQ/NT), HT đã ở lại phòng vô tuyến
phụ cạnh đài chỉ huy (ĐCH) để liên lạc với các giới chức liên hệ và chỉ thị HP
họp các SQ và nhân viên tại phòng ăn SQ vào lúc 0200H.
Trong
buổi họp, HP đã thông báo cho thủy đoàn HQ10 biết là theo nội dung công điện
hành quân thì chiến hạm sẽ chuẫn bị chiến đấu thực sự lúc 6 giờ sáng, HP cũng
nhấn mạnh ở điểm là bên ta không được khai hỏa trước vì vậy phần thiệt hại về
phía ta có thể lên đến 80% hoặc 90%. Trung Úy Nguyễn Đông Mai có đặt câu hỏi về
việc khai hỏa thì HP trả lời đây là lịnh từ Sài Gòn chúng ta phải thi hành theo
lịnh. Cuộc họp chấm dứt vào lúc 0230H.
Khoảng
4 giờ sáng, sau một giấc ngủ ngắn HT thức giấc và từ ĐCH ông ra lịnh kéo còi
nhiệm sở tác chiến. Tiếp theo hồi còi.. tít..tít..tít..là tiếng của HT vang lên
trong hệ thống âm thoại:” đây là HT…nhiệm sở tác chiến …nhiệm sở tác chiến…tất
cả vào nhiệm sở tác chiến”.
Nghe
tiếng còi và lịnh của HT tất cả nhân viên bật dậy và lập tức vào nhiệm sở của
mình. Tiếp theo đó là nhiệm sở phòng không. Tất cả nòng súng rợp rợp hướng lên
trời ở góc độ 45 độ.
Khoảng
4 giờ 30 có hai đóm sáng trên trời, tất cả các khẩu súng đều quay về hướng hai
mục tiêu này.
Khoảng
5 giờ 30 hai đóm này lại xuất hiện.
Lúc
6 giờ hai đóm sáng này bay thấp hơn có lẽ là hai phản lực cơ.
Sự
xuất hiện liên tiếp của các phi cơ lạ tạo nên tình trạng căng thẳng cho tất cả
các nhân viên trên chiến hạm, chắc hẳn mọi người ai cũng linh cảm rằng một cuộc
hải chiến chắc sẽ xảy ra.
Rạng
sáng ngày 19-1, thi hành lịnh Phân Đội Trưởng, HQ10 di chuyển vào lòng chảo
nhóm Nguyệt Thiềm theo lối giữa bãi Antelope và đảo Quang Hòa. Lúc này trời còn
lờ mờ chưa tỏ hẵn ánh dương, lực lượng địch bây giờ được tăng cường thêm 2 chiếc
Trục lôi hạm T43 mang số 389, 396. Như vậy chúng có cả thảy 4 chiến hạm (2 chiếc
Hộ tống hạm loại Kronstadt số 271, 274 đã xuất hiện từ trước) và 2 tàu đánh cá
ngụy trang mang số 402, 407 đang hiện diện tại vùng, đối đầu với 4 chiến hạm của
ta (kể cả Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ
5 thuộc Phân Đội I đang ở trong khu vực phía Nam và phía Tây Nam đảo Quang
Hòa).
Chiến
hạm ta và địch chạy đan qua đan lại nhau rất gần. Địch nhiều lúc như muốn đâm
thẳng cả tàu vào chiến hạm của ta nhưng về cả hai phía các khẩu súng đều chỉa
lên trời.
Khoảng
6 giờ 30, Đại Tá Ngạc ra lịnh cho HQ5 đổ bộ toán người Nhái lên đảo Quang Hòa.
Toán này vừa tiến vào bờ thì bị lính TC nổ súng trước, một SQ và một chiến sĩ
người Nhái bị tử thương. Đại Tá Ngạc ra lịnh toán người Nhái mang xác SQ và rút
toàn bộ trở về HQ5.
Nghe
tiếng súng nổ, HT thông báo diển tiến và ra lịnh tất cả nhân viên sẵn sàng.
Ngay sau tiếng súng nổ trên đảo, chiến hạm của ta và TC không còn chạy gần nhau
nữa mà bắt đầu tách ra xa.
Khoảng
9 giờ, các tàu TC trao đổi quang hiệu. Ngay tiếp sau đó các tàu đánh cá ngụy
trang được 4 chiến hạm bảo vệ di chuyển song song về hướng Bắc và dần dần biến
mất ở cuối chân trời. Mọi người trên chiến hạm thoáng vui mừng, ai cũng thở
phào nhẹ nhõm nghĩ là TC đã chịu lùi bước rút lui. Phần Trung Úy Hà Đăng Ngân
hơn ngày qua lúc nào thần kinh cũng căng thẳng áo phao, nón sắt rất bực bội bây
giờ được tạm cỡi ra vừa xuống phòng ăn cơm xong định đặt chân vào phòng tắm thì
còi nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, Tr/Úy Ngân tức tốc chạy lên nhiệm sở,
mặc lại áo phao, đội nón sắt vào. Nhìn theo hướng chỉ trên ĐCH thấy có mấy vệt
khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm TC đã rời vùng cách đây khoảng
một tiếng quay đầu trở lại. Khi các chiến hạm TC tiến đến các chiến hạm ta,
chúng không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng 1 km làm thành một vòng tròn
bao quanh các chiến hạm ta. Sau khi chạy loang quanh chừng 2 vòng các tàu TC từ
từ lảng xa ra hơn. Như tiên đoán trước được dấu hiệu khác thường HT ra lịnh chuẩn
bị tác chiến nhưng tất cả nòng súng hướng vào phía đảo để tránh sự khiêu khích
với tàu địch. Trông chờ mãi khẩu lịnh “bắn” vẫn chưa được ban hành, thủy thủ
đoàn có phần xao lãng không còn vẽ hăng say như lúc đầu. Lợi dụng khoảng thời
gian này , một số nhân viên ở các nhiệm sở luân phiên vào nhà ăn để dùng cháo
cho buổi điểm tâm.
Khoảng
10 giờ, hai chiếc tàu TC mang số 389, 396 bắt đầu tách rời ra khỏi hai chiếc
271, 274 và chạy song song gần nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường, HT ra lịnh
hạ nòng súng và quay súng về phía tàu TC, vài phút sau hai tàu TC chạy gần sát
vào nhau và thình lình cùng quay mũi song song trực chỉ HQ10. HT ra lịnh tất cả
ổ súng hướng về hai mục tiêu địch và xin lịnh cấp trên cho phép nổ súng nhưng
được trả lời chờ Sài Gòn quyết định. Lúc này thần kinh tất cả mọi người thật
căng thẳng. Hai tàu TC cứ từ từ đến gần, khi còn cách HQ10 khoảng 200-300m, HT
hét lớn “bắn”. Tất cả các khẩu súng trên tàu đều nhả đạn vào tàu địch. HQ10
khai hỏa đầu tiên do lịnh của chính HT (theo HQ Tr/Tá Lê Văn Thự Hạm Trưởng
HQ16 thì HQ16 khai hỏa trước). Những phát đạn đầu tiên của HQ10 trúng ngay vào
chiếc 389 của TC làm nó bốc cháy khói mịt mù phải lùi lại phía sau, cùng lúc khẩu
127 ly trên HQ16 trực xạ vào chiếc 396 và chiếc này bị trúng đạn ngay ĐCH làm
hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh. Đến lúc này HQ10 vẫn an toàn, đạn từ
tàu TC bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước.
Chiếc
389 bị trúng nơi hầm đạn với lỗ thủng hơi lớn làm nước tràn vào, ngoài ra máy
phát điện cũng bị hư vì trúng đạn. Sau khi đã cố gắng vá xong lỗ thủng và sửa
chửa máy phát điện, chiếc này quay trở lại tham chiến.
Điểm
cần nêu lên ở đây là so sánh về hỏa lực thì hai trục lôi hạm số 389 và 396 tuy
không được trang bị đại bác cỡ lớn nhưng bù lại mỗi chiếc có 4 khẩu đại bác 37
ly (tương đương với đại bác Bofors 40 ly của ta) và 4 khẩu đại bác 25 ly. So
sánh về kích thước 2 chiếc này tương đương với HQ10, do đó địch đã áp dụng chiến
thuật bám sát vào các chiến hạm ta để làm giảm đi sự hiệu quả của khẩu 127 ly
trên HQ16 và 76, 2 ly trên HQ10.
Đang
chiếm ưu thế, bổng dưng khẩu 76, 2 ly trên HQ10 bị trở ngại tác xạ (có phải đây
là lý do mà HT đã khẩn cấp gọi HP lên ĐCH???) thêm vào đó chiến hạm lại chỉ có
một máy khiển dụng, vì thế việc vận chuyển để xử dụng tối đa 2 khẩu đại bác 40
ly ở phía sân sau cùng một lúc rất là khó khăn. Lợi dụng sự bất lợi của HQ10,
chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ10 bắt đầu trúng đạn ở ĐCH và phòng lái. HT,
hầu hết các Sĩ Quan, HSQ và nhân viên ngành Giám lộ và Vận Chuyển có mặt trên
ĐCH và phòng lái đều tử trận ngoại trừ Hạm Phó bị thương nặng nơi mặt, bụng và
chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải).
Ngoài
ĐCH và phòng lái, hầm máy và hầm đạn dược cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ
văng tứ tung và khói đen tuôn mịt mù khắp con tàu.
Từ
vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, quan sát thấy HQ10 đang ở trong tình trạng
rối loạn, không bỏ lỡ cơ hội chiếc 389 của TC vận chuyển tiến vào phía sau lái
hữu hạm HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào một vài nhân viên hơi giao động
nhưng 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu vẫn ngang nhiên ghì chặt nòng súng
làm tròn phận sự của mình (lúc này trên HQ10 có khoảng 50 chiến sĩ đã hy sinh,
một số bị thương nặng nhẹ, chỉ còn khoảng 20 người còn khả năng chiến đấu).
Lính TC trên 389 ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên , súng bazooka qua HQ10 với mục
đích thanh toán các ổ súng còn lại, sau đó sẽ cặp vào đổ bộ lính lên chiếm đoạt
tàu và bắt sống thủy thủ đoàn HQ10.
Những
đợt tác xạ của địch trúng vào Đài Chỉ Huy đã làm Đ/U Trí rớt xuống phòng lái,
tuy nhiên với dáng người to con, tướng vạm vỡ (cao 1,74m - nặng 70 kg), HP Nguyễn
Thành Trí mặc dù đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên. Đoán được ý định
của giặc, từ phòng lái, Đ/U Trí đã giựt lấy khẩu M16 nhã hàng loạt đạn vào tàu
địch và sau khi đợi tàu địch vào đúng vị trí, Đ/U Trí đã cố sức vận chuyển chiến
hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm vào hông chiếc 389 của
địch.
Quá
bất ngờ trước hành động sáng suốt và quyết tử này, chiếc 389 không còn cách gì
để vận chuyển tránh né khỏi nên đã bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu điểm của
chiến hạm là phần sau lái. Cú đụng mạnh này cộng thêm vào những hư hại do hỏa
pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào
tình trạng nguy kịch, có lẽ đang sắp sửa chìm. Đây chắc cũng là lý do khiến chiến
396 phải ngưng chiến đấu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu chiếc 389. Tuy
nhiên, ngay cả chiếc 396 cũng lâm vào tình trạng nguy ngập vì thế 2 tàu đánh cá
ngụy trang 402 và 407 đã đến tiếp cứu và đưa 389 ủi vào bãi san hô.
Có
thể nói đây là một chiến công thật hiển hách của anh hùng Nguyễn Thành Trí trước
giặc thù Trung Cộng. Nhận lãnh trách nhiệm quyền Hạm Trưởng (HT Tuần Dương Hạm
Lý Thường Kiệt kiêm Phân Đội Trưởng Phân ĐộI II đã chỉ định HQ Đ/U Nguyễn Thành
Trí thay thế HT Ngụy Văn Thà đã tử thương) trong lúc đang bị thương nặng, một
mình đơn độc trên đài chỉ huy (Hạm Trưởng và hầu hết các SQ và nhân viên trên
đài chỉ huy và phòng lái đã hy sinh), chiến hạm lại đang ở trong tình trạng
nguy kịch, Đ/U Trí quyết định liều chết trong tình trạng khẩn trương đã dùng
con tàu làm vũ khí lợi hại chống lại kẻ thù. Đ/U Trí không những đã phá vỡ ý đồ
cướp tàu, bắt sống thủy thủ đoàn và mang HQ10 về làm chiến lợi phẩm của địch mà
ngược lại còn gây thiệt hại nặng nề cho tàu địch.
Hành
động này của Đ/U Trí đã dẫn đến cái chết cho ông và 6 chiến sĩ trên HQ10 trong
lúc đào thoát, nhưng ngược lại đã bảo toàn danh dự của Hải Quân VNCH và của tổ
quốc Việt Nam.
Vì
cấu trúc của phần mũi HQ10 rất chắc chắn nên sau khi đâm mạnh vào sau lái chiếc
389, phần sườn và võ tàu HQ10 không bị hư hại thêm nhiều nhưng cả 2 máy lúc này
hoàn toàn bất khiển dụng. Chiến hạm ta và địch từ từ tách ra xa. Tiếng súng đã
lắng dịu. Trận hải chiến đang ở trong giai đoạn chấm dứt. HQ16 đang cố gắng bơm
nước ra và sửa chửa máy phát điện từ từ ra khỏi lòng chảo hướng về Đà Nẵng. HQ4
và HQ5 rời vùng về hướng Đông Nam. Chiến hạm địch đang tự cứu hoặc đến cứu giúp
lẫn nhau. Do đó, mặc dù HQ10 vẫn còn hiện diện tại vùng chiến nhưng đã không có
một chiến hạm nào khác của TC đến gần để thăm dò hoặc để bắn chìm. Mãi đến 11
giờ 49 phút TC mới ra lịnh cho 2 chiến hạm loại Hainan mang số 281, 282 tăng tốc
độ trực chỉ đến vùng và chúng đã đến địa điểm giao chiến vào lúc 12 giờ 12
phút.
Tình
trạng HQ10 lúc này quá bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm Trưởng, một
số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen
thui trong đó có Tr/Úy Thạch Cơ khí trưởng hai chân hầu như lìa khỏi thân mình,
mặt mày cháy đen, 2 máy chánh và máy điện hoàn toàn bất khiển dụng, hệ thống
liên lạc nội bộ và máy truyền tin không xử dụng được.
Đ/U
Trí từ ĐCH bò xuống sàn tàu. Trước tình trạng tuyệt vọng không được sự tiếp cứu
từ các chiến hạm bạn, ngoài ra các chiến hạm địch cũng đang tự cứu lấy do đó
không còn là mối đe dọa nữa. Có lẽ đây là những lý do đã khiến cho Đ/U Trí ra lịnh
đào thoát.
Với
gương mặt đầy máu, Đ/U Trí được hai nhân viên dìu đứng gần bè cấp cứu dõng dạc
tuyên bố:” Hạm Trưởng đã hy sinh, tôi thay mặt Hạm Trưởng ra lịnh đào thoát.”
Sau đó, Đ/U Trí đã lết đến từng chỗ mà kéo vực các binh sĩ xuống bè đào thoát
(trong số này có Tr/úy Phạm Văn Thì đang ở tại nhiệm sở thủ cây đại liên).
Ngoài ra Đ/U Trí chỉ định những nhân viên còn khỏe mạnh thả 4 bè cấp cứu cùng
phụ giúp đưa những người bị thương xuống bè và chuẩn bị 1 bè nhỏ có 2 miếng ván
kê lên để cho 2 chiến sĩ bị thương nặng là TS/VC Đa và TS/TP Nam nằm lên.
Khi
tất cả nhân viên đã xuống bè, Đ/U Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy
nhụa máu cương quyết ở lại chết cùng Hạm Trưởng cùng nhân viên và chiến hạm
nhưng hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long đã cặp và
lôi ông xuống bè.
Như
vậy cuộc đào thoát đã được thực hiện từng giai đoạn, rất có kỷ luật và theo
đúng truyền thống Hải Quân. Quyền Hạm Trưởng Nguyễn Thành Trí là người cuối
cùng miển cưỡng rời chiến hạm. Trong những giờ phút sau cùng, Đ/U Trí vẫn không
quên những bài học về Hải Quy trong hai năm thụ huấn nơi quân trường.
Khi
tất cả nhân viên đã lên bè đầy đủ (có người nhảy xuống nước rồi mới lên bè) kiểm
điểm lại có tất cả 28 người trong đó có những người bị thương nặng và nhẹ trên
4 bè lớn và 1 bè nhỏ, ngoại trừ các chiến sĩ đã hy sinh.
Có
2 chiến sĩ oai hùng là HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã từ chối không
xuống bè đào thoát, quyết ở lại tử chiến với giặc thù Trung Cộng và chết theo
tàu..
Tình
trạng các bè rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của Đ/U Trí bị bể
một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị
thương nặng nhưng Đ/U Trí vẫn còn tỉnh táo, ông bảo thủy thủ cố đưa 4 bè lại gần
nhau rồi dùng những sợi dây chung quanh phao, cột chúng lại với nhau để cho tàu
chạy ngang qua dễ nhìn thấy.
Luồng
nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ
bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ
ong; về phía Trung Cộng, 3 chiếc cũng đang bốc cháy.
Tất
cả mọi người đều hy vọng sẽ có chiến hạm bạn đến tiếp cứu nhất là HQ16 cũng
không xa lắm, nhưng khi nhìn thấy HQ16 bị nghiêng một bên và đang từ từ chạy ra
khỏi lòng chảo họ mới hiểu được lý do vì sao HQ16 không đến vớt họ lên.
Gió
mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và
HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có
khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên,
nhưng khi đến gần thì ra là hai chiếc số 281, 282 loại Hainan của TC. Khi 2 chiếc
này tới gần HQ10 vào lúc 12 giờ 12 phút khẩu đại bác 20 ly do 2 chiến sĩ anh
hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ bắt đầu nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản
pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20
ly từ HQ10 im bặt, HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã trúng đạn của giặc
thù TC hy sinh đền nợ nước một cách oai hùng.
Mặc
dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng tàu TC vẫn tiếp tục bắn xối
xả vào HQ10 trong khi HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh cho đến 14 giờ 52
phút thì chìm tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope reef)
khoảng 2,5 km mang theo thân xác của Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và 54 (2)
chiến sĩ anh hùng của HQ/VNCH.
Thanh
toán HQ 10 xong, hai chiếc 281, 282 quay lại tiến gần đến các bè, HP Nguyễn
Thành Trí dặn các nhân viên trên bè: ”nếu bị bắt, bị đánh cũng đừng khóc, đừng
van xin”. Tất cả đều hồi hộp không biết chúng sẽ hành động như thế nào?
Chúng sẽ vớt họ lên bắt sống làm tù binh? Chúng sẽ bỏ mặc cho bè các anh tiếp tục
trôi để chết lần mòn giữa biển khơi? Hay là chúng sẽ bắn vào bè để giết chết hết
các anh?... Cuối cùng, sau khi chạy quanh các bè khoảng 2 vòng, chúng vẫy tay
cười rồi bỏ đi. Chúng đã chọn phương cách thật tàn nhẫn vừa khỏi phí đạn, vừa
khỏi tốn công chăm sóc các anh theo luật tù binh quốc tế, vừa khỏi mang tiếng
sát nhân vì chúng nghĩ là sớm muộn gì các anh cũng sẽ chết.
Hành
động vô nhân đạo này của TC đã làm chết thêm 7 chiến sĩ của HQ10. Nếu chúng thi
hành đúng theo hiệp ước Geneva về tù binh thì khi các chiến sĩ HQ10 được vớt
lên chúng có nhiệm vụ phải chăm sóc cho họ và sẽ không có thêm 7 chiến sĩ của
HQ10 phải chết oan uổng trên đường đào thoát.
Sau
khi tàu TC bỏ đi, các bè vẫn tiếp tục trôi và khi mặt trời bắt đầu lặn dòng nước
đưa các bè lại gần một hòn đảo nhỏ. Đ/U Trí ân cần dặn nếu lên được đảo thì phải
đào hố để che gió cho ấm và kiếm nước uống , tuyệt đối không được uống nước biển
sẽ chóng chết.
Các
anh em cố gắng dùng tay và những mảnh ván nhỏ thế chèo nhưng vẫn không vào được
gần đảo, dần dần các bè trôi ra ngoài khu vực lòng chảo. Càng về đêm gió càng
thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có Đ/U Trí bị
đứt giây tách ra khỏi nhóm. Tất cả mọi người trên các bè đều lạnh run và mệt lả.
Trên bè của Đ/U Trí có thêm Tr/úy Ngân cũng bị thương. Phần Đ/U Trí bị thương
trên đầu, bụng và chân nhưng ông vẫn cố gắng giữ vẻ tỉnh táo, che dấu đi những
nổi đau đớn do vết thương hành hạ. Tuy nhiên vết thương ở chân vì không được
băng bó kỷ lưỡng nên vẫn còn rĩ máu vì thế cá mập cứ bám theo sau. Lo ngại về sự
an toàn của đồng đội và có lẽ cũng biết là mình sắp chết nên Đ/U Trí đã bảo thuộc
cấp: "hảy thả tôi xuống biển, nếu không cá mập cứ bám theo, các anh
cũng sẽ chết hết." (3) Nhưng các anh em không thể nhẩn tâm đối
với vị Hạm Phó đã từng sống chết với mình nên họ đã làm ngơ. Cho đến khi đêm xuống,
các anh em mệt nhoài ngủ thiếp đi thì cũng là lúc Đ/U Trí trút hơi thỏ cuối
cùng đền nợ nước vào khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 1 năm 1974, sau khi đã làm
tròn nhiệm vụ của một chiến sĩ HQ/VNCH cho đến phút cuối cùng. Các chiến sĩ đào
thoát đã chờ đến lúc trời sáng để làm lễ thủy táng cho ông theo truyền thống Hải
quân.
Ngoài
Đ/U Trí còn có 5 chiến sĩ bị thương trong trận hải chiến cũng đã hy sinh trên
các bè đào thoát, danh sách trích từ phiếu tường trình ủy khúc số
121/BLH/HĐ/NV/TTUK/K ngày 16-2-1974 của BTL/HĐ (4) gồm có:
-
HQ. Đại Úy Nguyễn Thành Trí số quân: 61A702.714
- TS1/GL Vương Thương - 64A700.777
- TS/VCh Phan Ngọc Đa - 71A703.001
- TS/TP Võ Văn Nam - 71A705.697
- TS/ĐTTrần Văn Thọ - 71A706.845
- TS/QK Nguyễn Văn Tuấn - 71A700.206
- TS1/GL Vương Thương - 64A700.777
- TS/VCh Phan Ngọc Đa - 71A703.001
- TS/TP Võ Văn Nam - 71A705.697
- TS/ĐTTrần Văn Thọ - 71A706.845
- TS/QK Nguyễn Văn Tuấn - 71A700.206
Với
khoảng 4 ngày và 3 đêm trôi lênh đênh giữa vùng biển mênh mông trên các bè
loang lỗ đầy vết đạn của giặc thù, nước uống và thức ăn không đủ để chia nhau
phải dùng nước tiểu pha với nước biển để uống cầm cự. Họ đã sống giữa tuyệt vọng
và hy vọng, giữa cái chết và cái sống, giữa những cơn đau đớn tận cùng do vết
thương hành hạ, do thời tiết nghiệt ngã mang đến và nhất là nổi đau xót khi chứng
kiến đồng đội người này tiếp nối người kia gục ngã trên bè, thân xác được thủy
táng vào lòng đại dương. Nhưng hầu như tất cả mọi người lúc nào cũng chia xẽ với
nhau, cũng nhường nhịn lo lắng cho nhau và cùng nhau cầu nguyện.
Công
tác tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ đào thoát.
Ngay
trong ngày 19-1, trước tin sơ khởi báo cáo về cho biết có thể có 2 chiến hạm
phía ta đã bị hỏa tiển Styx của TC bắn chìm, chánh phủ VNCH đã 3 lần nhờ chánh
phủ Hoa Kỳ trợ giúp trong việc tìm kiếm và cấp cứu (2 lần nhờ sự trợ giúp của
các chiến hạm và 1 lần nhờ sự trợ giúp của các trực thăng thuộc Đệ 7 Hạm Đội),
nhưng lời yêu cầu này đã bị Đại Sứ Martin khước từ. Người bạn đồng minh từ bao
năm nay đã lựa chọn thái độ không can dự vào các vụ tranh chấp chủ quyền trên
các hải đảo trong vùng biển Đông, ngay cả việc giúp đỡ với mục đích nhân đạo.
Thái
độ này đã được thể hiện rõ rệt qua việc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Quốc
Phòng chỉ thị cho Hải Quân Hoa Kỳ đứng ngoài khu vực xung đột. (ngày giờ chính
xác của văn thơ này chưa được rõ). Do vậy, nên ngay sau khi được tin chiến hạm
HQ/VNCH đã nhận được lịnh khai hỏa, Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ vào
lúc 0950H ngày 19-1 lập tức gởi công điện ra lịnh cho các chiến hạm Hoa Kỳ
tránh xa khỏi khu vực sắp giao chiến và tránh các hành động có thể được xem như
là tham dự vào hay cung cấp sự yểm trợ cho miền Nam.
Đồng
thời Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương cũng ra lịnh cấm tất cả các phi
cơ thuộc Không Lực Hoa Kỳ bay trên không phận quần đảo Hoàng Sa ở bất cứ cao độ
nào.
Nhật
báo The New York Times ra ngày 19-1 có đăng lời Phát Ngôn Viên Bộ Quốc Phòng
Hoa Kỳ tuyên bố “Chúng tôi không đứng về bất cứ phe nào”. Ngoài ra John F. King
viên chức Giao Tế thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã phát biểu khi trả lời các câu hỏi:”
Lẽ dỉ nhiên, chúng tôi hết sức mong muốn một sự dàn xếp êm đẹp”, nhưng “chúng
tôi không can dự vào”.
Vào
buổi tối ngày 20-1, Ngoại Trưởng VNCH đã yêu cầu Đại Sứ Martin chuyển đạt lời
yêu cầu đến chánh phủ Hoa Kỳ để nhờ họ đề nghị với TC đồng ý hưu chiến trong 48
giờ, đủ thời gian để chánh phủ VNCH có thể di tản những người chết và bị thương
ra khỏi quần đảo HS (5)
Lời
đề nghị hợp lý và nhân đạo này đã không được chánh phủ Hoa Kỳ chuyển đến Bắc
Kinh.
Trước
thái độ dửng dưng của Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi cân nhắc lợi
hại đã từ bỏ ý định dùng võ lực tái chiếm Hoàng Sa. Vì vậy các giới chức thẫm
quyền đã nghĩ ngay đến việc cứu cấp các chiến sĩ HQ10 đào thoát trên bè sau trận
hải chiến.
Trưa
ngày 22-1 lúc 1 giờ 05 phút, Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn đã gởi điện thư về Bộ
Ngoại Giao báo cáo là vào buổi sáng, dinh Độc Lập, Bộ Ngoại Giao và Đại Tướng
Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đã thông báo với họ là Chánh Phủ
Việt Nam cảm thấy bắt buộc phải mở ra cuộc hành quân không/hải để tìm kiếm những
người hy vọng sống sót trên mặt biển trong khoảng giữa Hoàng Sa và Đà Nẵng.
Tiếp
theo đó lúc 1 giờ 31 trưa ngày 22-1, Tòa Đại Sứ lại gởi tiếp bản văn từ Bộ Ngoại
Giao VNCH mới vừa được Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao VNCH phổ biến đến báo chí,
nội dung bản văn loan báo cấp chỉ huy quân sự Việt Nam đang mở ra cuộc hành
quân cứu cấp trong vòng 48 giờ để cứu vớt những người sống sót trên Hộ Tống Hạm
Nhật Tảo HQ10, chiến hạm này đã được báo cáo mất tích sau trận hải chiến với Hải
Quân TC tại quần đảo Hoàng Sa.
Lực
lượng tham dự cuộc tìm kiếm gồm có Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6, hai chiếc
Tuần Duyên Đỉnh (WPB) và 1 phi cơ C-119.
Khu
vực tìm kiếm nằm trong giới hạn bởi các tọa độ dưới đây:
-
A. 15 độ 30 phút 28 giây Bắc - 110 độ 00 phút 18 giây Đông
- B. 14 độ 50 phút 30 giây Bắc - 110 độ 40 phút 27 giây Đông
- C. 15 độ 30 phút 36 giây Bắc - 111 độ 10 phút 00 giây Đông
- D. 16 độ 00 phút 00 giây Bắc - 110 độ 40 phút 48 giây Đông
- B. 14 độ 50 phút 30 giây Bắc - 110 độ 40 phút 27 giây Đông
- C. 15 độ 30 phút 36 giây Bắc - 111 độ 10 phút 00 giây Đông
- D. 16 độ 00 phút 00 giây Bắc - 110 độ 40 phút 48 giây Đông
Bản
văn từ Tòa Đại Sứ Mỹ cũng cho biết là các giới chức thẫm quyền VNCH quan tâm đến
số phận của thủy thủ đoàn HQ10 mà lần sau cùng đã được thấy không người điều
khiển gần đảo Vĩnh Lạc (Money). Với dòng nước biển chảy bình thường sẽ đưa HQ10
hoặc là nếu chiến hạm bị chìm sẽ đưa những người sống sót đến khoảng 70 hải lý
về hướng Tây Nam của khu vực nằm trong các tọa độ A, B, C và D.
Bản
văn còn cho biết là chánh phủ VNCH chỉ thị phái đoàn VN ở Geneva lập tức thông
báo cho Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế những điều đã đề cập ở trên và yêu cầu Hội
thông báo Bắc Kinh về bản chất và phạm vi của cuộc hành quân, ngoài ra còn yêu
cầu chánh phủ Hoa Kỳ xử dụng các phương tiện thông tin trực tiếp với Bắc Kinh
trong nỗ lực để đảm bảo là Bắc Kinh cũng biết rõ về chiến dịch hoàn toàn có
tính chất nhân đạo này.
Về
phần Đại Sứ Martin, ông cũng khuyến cáo Bộ Ngoại Giao Mỹ nên tiếp xúc với Phái
đoàn liên lạc TC ở Hoa Thịnh Đốn hoặc Văn phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh để
yêu cầu TC thông báo đến các giới chức thẫm quyền quân sự của họ về chiến dịch
này và Bộ Ngoại Giao có thể chỉ thị Phái Đoàn Hoa Kỳ ở Geneva tạo điều kiện để
Phái đoàn Việt Nam tại Geneva và Hội HTT quốc tế gặp gỡ nhau.
Những
lời khuyến cáo của Đại Sứ Martin đã được Ngoại Trưởng Kissinger chấp thuận, vì
vậy ngay sau đó Ngoại Trưởng Kissinger đã gởi điện thư cho Văn Phòng Liên Lạc Mỹ
ở Bắc Kinh yêu cầu họ thông báo với Bộ Ngoại Giao TC về cuộc hành quân cứu cấp
này. Ngoài ra cũng giải thích cho Bắc Kinh biết là Mỹ làm việc này theo sự yêu
cầu của chánh phủ VN và với tính cách nhân đạo, còn việc đề nghị Bộ Ngoại giao
TC thông báo cho cấp chỉ huy quân sự TC là tùy ở Văn Phòng Liên Lạc.
Trong
khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì vào lúc 6 giờ
30 chiều ngày 22-1-1974 tàu dầu Kopionella thuộc hảng Shell mang quốc tịch Hòa
Lan đã tìm thấy và vớt tất cả 22 người (5) thuộc HQ10 còn sống sót lên
tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng
Đông, như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển trong khoảng 78 giờ với khoảng
cách độ 110 km.
Sau
khi lên tàu Thượng Sĩ Châu vì quá kiệt sức nên đã trút hơi thở cuối cùng, ngoài
ra có 4 người bị thương nặng. Tất cả đã được từ Thuyền Trưởng, Thuyền Phó và
phu nhân của các vị này cùng thủy đoàn tàu dầu Kopionella tận tình chăm sóc. Với
tư cách Sĩ quan thâm niên hiện diện, HQ Trung Úy Phạm Văn Thì đã được Thuyền
Trưởng đưa vào phòng của ông để liên lạc với cấp chỉ huy Hải Quân Việt Nam.
Sáng
ngày 23-1 lúc 5 giờ 15 tất cả đã được chuyển sang Tuần dương Hạm Trần Quốc Toản
HQ6 để đưa về Đà Nẵng.
Qua
lời thuật lại của các chiến sĩ sống sót, cuộc hành quân cứu vớt tiếp tục sang
ngày 23-1 với hy vọng tìm thấy bè bằng cây trên đó có TS/VC Đa và TS/TP Nam,
nhưng đến 6 giờ 15 phút chiều cùng ngày phi cơ tuần tiểu đã phát giác hai mãnh
ván tại tọa độ 15 độ 43’ Bắc – 110 độ 02’ Đông, nhưng khi chiến hạm được điều động
đến nơi mọi người đều thất vọng vì chỉ thấy 2 miếng ván không người.
Cuộc
hành quân tìm kiếm và cấp cứu đã được chấm dứt ngay sau đó.
Để
kết luận, trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 như là một định mệnh đã sẵn
dành cho Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử chống
ngoại xâm để gìn giữ cõi bờ hùng vĩ do tổ tiên truyền lại. Tuy mất Hoàng Sa
nhưng gương sáng về những sự hy sinh cao qúy, về tinh thần chiến đấu cao độ, liều
chết tử thủ trước giặc thù, về lời nói đầy hùng khí ngay cả khi lâm vào tình thế
nguy khốn sẽ mãi mãi được nhớ đến trong lịch sử oai hùng ngàn đời của con dân
nước Việt.
Xin
cho một lần tất cả những người dân nước Việt, không phân biệt Nam, Trung, Bắc
không phân biệt lý thuyết, chủ nghĩa hãy cúi đầu khâm phục tinh thần bất khuất
và sự hy sinh cao cả của 54 chiến sĩ HQ10 đã hy sinh tại chiến trường, 7 chiến
sĩ hy sinh trên đường đào thoát cũng như 21 chiến sĩ còn lại đã thoát chết
trong lúc chiến đấu với giặc thù, đã sống sót trong 3 đêm và 4 ngày gian khổ
cùng cực trên biển khơi.
Các
anh còn sống để có ngày chứng minh cho cả thế giới biết sự chiến đấu hào hùng của
dân Việt cũng như sự nhẫn tâm của giặc thù Trung Cộng.
Sơ
đồ cuộc hành quân tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ thuộc HQ 10
Tàu
dầu Kopionella
Chuyện
bên lề:
Trong
bài “Nhật ký bên lề trận hải chiến Hoàng Sa”, HQ Đại Tá Võ Sum TP6/BTL/HQ
(Phòng Truyền Tin) đã viết là vì muốn biết số phận cuả HQ10 nên trong ngày 20
tháng 1, ông đã dùng phương pháp cảm xạ học để tìm vị trí của chiến hạm xấu số
này.
Ông
đã tiên đoán số phận HQ10 “không bao giờ trở lại” và các bè trôi theo hướng 240
độ thật là chính xác. Vị trí cuối cùng của các bè đào thoát do Ông tìm được lần
sau cùng vào lúc 10 giờ đêm ngày 22 tháng1 là điểm E tọa độ 16 độ 17’ Bắc và
110 độ 58’ Đông.
Ngoài
ra cũng theo bài viết thì chính HQ Trung Tá Lê Thành Uyển đã thiết lập khu vực
tìm kiếm cho các chiến hạm và phi cơ.
Phần
dẫn chứng:
Trong
bài viết “On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed solution” tác giả TC
đã diển tả về chiếc 389 như sau:”….chiếc 389 bị trúng đạn nước tràn vào
trong hầm đạn dược…..ngoài ra 5 binh sĩ cũng hy sinh trong lúc sửa lại máy phát
điện. Tất cả thủy thủ chiếc 389 chiến đấu một cách dũng cảm ném từng quả lựu đạn,
xử dụng súng tiểu liên, súng bazooka bắn qua chiếc HQ10 gần sát đó. Hạm Trưởng
Ngụy Văn Thà hy sinh trong trận chiến xáp lá cà này.
Lúc
bấy giờ chiếc HQ 16 trở lại giao chiến với chiếc 389 để tiếp cứu chiếc HQ10
đang cháy bừng bừng.
Đại Úy Nguyễn (ám chỉ Nguyễn Thành Trí) trên chiếc HQ10 thay thế Thiếu Tá
Thà đã hy sinh, dốc toàn lực định húc ngay phía sau chiếc 389 thì chiếc 396 đến
kịp để cản trở chiếc HQ 16 yễm trợ cho chiếc 389 thoát hiểm……………. 12
giờ 12 phút, phân đội 74 nhận lịnh công kích, chiến hạm 281 bắn xối xả lên chiến
hạm Nhật Tảo, tuy thủy thủ đoàn chiến hạm Nhật Tảo chống trả mãnh liệt,
đến 14 giờ 52 phút chiến hạm Nhật Tảo chìm tại địa điểm phía Nam bãi Ninh
Dương (bãi đá Hải Sâm – Antelope reef) cách 2,5 cây số”.
Ngoài
ra bài này đã viết về chiếc 389 sau khi bị HQ10 đụng vào phía sau lái: ”… chiến
hạm số 389 của ta có hơn 10 người chết, đã bị chiến hạm VNCH bắn trúng nhiều lần
và bị thiệt hại rất nặng. Khi chiếc 396 chạy đến cứu, hầm máy chiếc 389 đã bị
phát nổ, lửa đang cháy lớn, tàu có thể bị chìm bất cứ lúc nào. Hai chiếc tàu
đánh cá số 402 và 407 cũng đang bị tấn công nhưng đã cố sức chạy đến cứu và cuối
cùng đã thành công đưa chiếc 389 ủi vào bãi.
Ba
chiến hạm khác của ta tất cả đều hư hại, chiếc 274 bị thiệt hại rất nặng phải rởi
khỏi vùng trở về đảo Phú Lâm, tại đây chiếc này đã được sửa chửa và đã trở lại
căn cứ hải quân Yulin ngày hôm sau”.
Có
thể nói một phần trong bài này đã được phía TC viết gần đúng sự thật. Đoạn viết
này đã cho thấy vài sự kiện rất quan trọng và từ đó sau khi kiểm chứng và tổng
hợp với các tài liệu từ phiá VNCH ta có thể làm sáng tỏ 1 vài sự kiện mà từ trước
đến nay chưa giải thích được, ngay cả các nhân chứng còn sống sót trên HQ10
cũng không biết về các hành động rất dũng cảm và rất oai hùng của các chiến sĩ
trên HQ10.
-
Điểm thứ nhất bài viết đã xác nhận là chiếc 389 đã tiến sát vào HQ10 qua việc
chúng ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên.
-
Điểm thứ 2 là vì tiến vào quá gần nên chúng đã quan sát thấy HT Ngụy Văn Thà đã
tử trận.
-
Điểm thứ 3 là vì ở quá gần nên chúng đã quan sát thấy HP Nguyễn Thành Trí dốc
toàn lực định húc ngay phiá sau chiếc 389.
-
Điểm thứ 4 là chúng đã công nhận khi 281 và 282 nhập vùng tác xạ vào HQ10 thủy
thủ đoàn trên HQ10 đã chống trả mãnh liệt, điều này chứng tỏ là 2 chiến sĩ Lê
Văn Tây và Ngô Văn Sáu đã can trường liều chết tử thủ, chống trả dữ dội khiến
chúng không dám xáp lại gần, vì thế phải mất gần 2 tiếng đồng hồ, chúng mới
đánh chìm HQ10.
Bài
viết của TC dĩ nhiên là không hoàn toàn đúng sự thật vì không có can đảm viết
rõ là HQ10 do chính Đại Úy Trí điều khiển đã đâm mạnh vào phần lái tả hạm và đã
gây nên tổn thất nặng nề cho chiếc 389. Nếu 389 không bị đụng thì tại sao chúng
lại bỏ cơ hội hiếm có để đổ bộ lên chiếm đoạt HQ10 và tại sao tàu lại bị
nghiêng và phần lái bị chìm xuống. Tại sao 2 tàu đánh cá 402 và 407 phải chạy đến
để tiếp cứu? (hình chụp chiếc 389 trích trong www.military.china.com)
Tài
liệu “On January 19, 1974 Xisha defended the war” trong phần tổng kết thiệt hại
về phía TC có viết là chiếc 389 bị tổn thất nặng nề và 2 tàu đánh cá 402, 407 từ
các vị trí ẩn núp an toàn lúc xảy ra trận hải chiến đã chờ cho đến khi các chiến
hạm ta rút ra khỏi vòng chiến chúng mới dám chạy đến yểm trợ để đưa 389 ủi vào
bãi san hô tránh chìm, nếu không chiếc 389 sẽ chịu chung số phận như HQ10.
Đoạn
viết này không nói đến 396 lại yểm trợ cho 389 chứng tỏ là 396 cũng đang bị thiệt
hại nặng phải tự cứu. Ngoài ra khi 281 và 282 đến nơi hầu hết các chiến sĩ trên
HQ10 còn sống sót đang ở trên các bè đào thoát, TC đã biết rõ điều này nhưng
trong bài viết chúng cho là “thủy thủ đoàn” HQ10 chống trả mãnh liệt để tô đậm
thành tích đánh chìm HQ 10 của chúng.
Về
việc HQ 10 đụng mạnh vào tàu TC, một số bài viết về phía VNCH như Hải Chiến
Hoàng Sa của HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê đăng trong HSTT và bài viết Lần đào thoát
ở Hoàng Sa của HQ Tr/U Nguyễn Đông Mai (6) cho là chiếc 396 của TC đụng
vào HQ10, nhưng dựa theo các tài liệu TC thì đây là chiếc 389 trùng hợp với Tài
Liệu Hải Chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm.
Hà
Đăng Ngân trong Hoàng Sa và HQ10 (7) viết:”…Vài phút sau mục tiêu 2
cũng bốc khói, mục tiêu 1 tuy còn chút khói bốc lên, chạy trở vào gần HQ10, bắn
trả lại HQ10 và HQ10 bắt đầu trúng đạn của tàu Trung Quốc…”.
Tuy
không nhớ rõ số của mục tiêu 1 và mục tiêu 2, nhưng qua bài viết của TC ta có
thể suy ra mục tiêu 1 là chiếc 389 và mục tiêu 2 là chiếc 396.
Các
bài viết của các SQ và nhân viên còn sống sót trên HQ10 đã xác nhận sự kiện một
chiến hạm TC đụng vào HQ 10 và ý định của chúng định cặp vào đổ bộ lính qua
HQ10 mặc dù con số chiến hạm có khác đi. HQ Tr/Úy Nguyễn Đông Mai trong bài ‘Lần
đào thoát ở Hoàng Sa’ đã viết:”..chiếc 396 như tiến lại gần tôi hơn từ phía
lái…rồi chừng 15 phút sau, một tiếng va chạm mạnh làm chúng tôi té nhào trên
sân tàu. Tôi chợt nghĩ đến chuyện tàu lên cạn vì vùng này có nhiều san hô. Sau
này khi đào thoát tôi mới biết HQ10 đâm vào tả hạm chiếc 396.”
HQ
Ch/Úy Tất Ngưu (8) đã cho thấy một sự kiện hiển nhiên là chiến hạm của
chúng tiến vào quá gần và các chiến sĩ trên HQ10 có cảm tưởng là chúng sẽ cặp vào
để đưa lính sang chiếm tàu, bài ‘Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn
sống sót’ đã viết:"…Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn: ”tàu TC
đổ bộ, anh em cẩn thận”. Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía
trước, tôi thấy mũi tàu của ta đâm vào tàu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra.
Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh.
Sau
khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những
tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt."
Hạ
Sĩ Trọng Pháo Vương Văn Hà (9) qua bài “Người về từ Hoàng Sa”
cũng xác nhận cú đụng này: ”… HQ10 bị bất khiển dụng khiến cho tàu địch đã bị
bắn ở phía tả hạm đụng vào tàu chúng tôi.”
HSTT
cũng viết: ” …….tuy chiến hạm đang cháy nhưng vẫn tiến từ từ, sau đó ngừng lại
khi đụng vào lái tàu địch 396….”
Các
bài viết trích dẫn ở trên đã xác nhận sự việc HQ10 và chiếc 389 đụng vào nhau,
nhưng vì lúc bấy giờ trên ĐCH và phòng lái không còn ai sống sót, ngoại trừ HP
Nguyễn Thành Trí do đó không ai biết được lý do chính xác và nếu không nhờ những
chi tiết từ bài viết của TC, chiến công oanh liệt và oai hùng của HP Nguyễn
Thành Trí sẽ không được biết đến.
Qua
các dẫn chứng trên đã chứng minh một sự thật hiển nhiên là HQ10 và chiếc 389
không phải vì đã: ”…trôi nổi không kiểm soát được trên mặt biển, đã đụng vào
nhau” như trong Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa đã viết mà cú đụng này là do chủ
ý của Đại Úy Trí đã đơn độc vận chuyển chiến hạm liều chết hy sinh cả chiến hạm
và mạng sống đâm mạnh vào phần lái tàu địch.
Chiếc
389 có lẽ không ngờ được là trên đài chỉ huy còn Đ/U Trí vì thế chúng không thể
nào tránh né được cú đụng này và có lẽ chúng đã quan sát một cách rõ ràng những
diển tiến trên ĐCH nên trong bài viết chúng đã nêu rõ là Đ/U Trí “dốc toàn lực
định húc vào tàu chúng”.
Dựa
theo bài viết trên thì sự thiệt hại nhân mạng về phía TC trong trận hải chiến
HS là 18 người chết và 67 người bị thương (chưa được kiểm chứng) trong số đó
chiếc 389 trực chiến với HQ10 có số thương vong cao nhất là 10 người chết, như
vậy đã chứng tỏ mức độ giao chiến rất khốc liệt giữa HQ10 và 389.
Tuy
dáng người vạm vỡ, nhưng với vết thương quá nặng có lẽ HP Nguyễn Thành Trí biết
là mình sẽ không thể nào sống sót được lâu, nên sau khi tất cả nhân viên đã xuống
bè Ông quyết định ở lại chết với chiến hạm, nhưng các nhân viên đã bắt buộc Ông
phải xuống bè với họ. Việc Đ/U Trí quyết định ở lại tàu có 2 tài liệu viết
trong khoảng thời gian ngắn sau biến cố HS đã chứng minh một cách rõ rệt.
Tài
liệu “Đêm Xuân trên vùng biển chết” của tác giả Thanh Chương trong Lướt Sóng đã
viết: ”Người đã bị thương nhiều nhưng quyết ở lại cùng HT…
…Một
nhân viên đã phải
vực Người nhẩy xuống cùng bè với tôi, bè cấp cứu sau cùng rời
chiến hạm.”
Tài
liệu của tác giả ẩn danh viết: ”…. Hạ Sĩ Trọng Pháo Trần Ngọc Sơn và Thủy thủ
Thám Sát Trương Văn Long, 2 người này đã cặp Đ/U Hạm Phó và lôi
xuống bè.”
(2)
Dựa trên tài liệu của TC/CTCT thì: ”Chiến hạm cùng thủy thủ đoàn gồm 82 người
đã bị mất liên lạc”, như vậy số quân nhân chết theo chiến hạm là 54 người.
Tuy
nhiên theo TTHS thì số quân nhân chết theo chiến hạm là 55 người.
(6)
Tài liệu của TC/CTCT viết: ”…thương thuyền Kopionella quốc tịch Hòa Lan đã vớt
được 23 thủy thủ của Hộ tống hạm HQ10……Trong số này có 2 quân nhân bị tử thương
( gồm có 1 Đại Úy Hạm Phó)”…
Chi
tiết này không đúng vì Đ/U Hạm Phó đã hy sinh trên bè đào thoát và tàu dầu Hòa
Lan chỉ vớt được tổng cộng có 22 người.
Đặc
Tính Hộ Tống Hạm Nhật Tảo:
Hộ
Tống Hạm Nhật Tảo thuộc loại Admirable Class Minesweeper (AM) do hảng tàu
Winslow Marine Railway and Shipbuilding Co ở Winslow tiểu bang Washington đóng.
Chiến
hạm được hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 1943 và được đăt tên là USS Serene (AM
300).
Ngày
7 tháng 2 năm 1955 đổi thành loại Fleet Minesweeper MSF 300.
Ngày
24 tháng 1 năm 1964 chuyển giao cho Hải Quân VNCH và được đặt tên là Hộ Tống Hạm
Nhật Tảo HQ10.
Trọng
tải: 650 tấn (tiêu chuẩn) – 945 tấn (tối đa)
Kích thước: dài 184,5 ft – ngang 33 ft - tầm nước 9,75 ft
Máy chánh: 2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mã lực
Kích thước: dài 184,5 ft – ngang 33 ft - tầm nước 9,75 ft
Máy chánh: 2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mã lực
Vũ
khí:
- 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm tối đa 14,000 yds, tầm hữu hiệu 7,500 yds, tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút.
- 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm tối đa 14,000 yds, tầm hữu hiệu 7,500 yds, tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút.
-
2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm tối đa 11,000 yds, tầm hữu
hiệu 4,000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút
-
4 khẩu đại bác 20 ly đôi bao quanh phòng lái có tầm tối đa 4,800 yds, tầm hữu
hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút
-
2 khẩu đại liên 30
-
có trang bị súng cối 81 ly (không rõ số lượng)
-
Vũ khí chống tàu ngầm: với nhiệm vụ tuần tiểu và hộ tống các dụng cụ rà mìn đã
được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy lựu đạn (depth charge rack) đã được
thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra còn có 1 dàn phóng thủy lựu đạn hedgehog ở
phía sân trước.
Vận
tốc: tối đa 14,5 knots, có tầm hoạt động 6,500 miles với vận tốc tiết kiệm là 8
knots
Thủy
thủ đoàn: 82 người
Tàu
dầu Hòa Lan Kopionella
Tài
liệu dẫn chứng:
- công điện với nhóm ngày giờ 190150Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 0950H) của Tư Lịnh Đệ 7 Hạm Đội Hoa Kỳ.
- công điện với nhóm ngày giờ 190420Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 1220H) của Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương (Bấm vào đây xem tài liệu 2 công điện trên)
- điện thư số 075995 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn.
- điện thư số 01000 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (Bấm vào đây)
- điện thư số 01006 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Sòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
- điện thư số 013552 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Văn Phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh
- điện thư số 014042 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn
- điện thư số 01026 ngày 23-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
- Hà Văn Ngạc “Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa” trong Tuyển Tập Hải Sử (TTHS) - Tổng Hội Hải Quân&Hàng Hải (THHQ&HH) ấn hành 2004
- Jane’s Fighting Ships
- Lê Văn Thự “Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa” – Calitoday, March 08, 2004
- Liu Bingfeng “On January 19, 1974 Xisha defended the war” – Military.china.com
- Nguyễn Thị Thanh Thảo: ”Tài liệu mới HQ10 – Hoàng Sa” (bấm vào đây)
- Phạm Mạnh Khuê “Hành quân Trần Hưng Đạo 47” (TTHS-THHQ&HH 2004)
- Thanh Chương “Đêm Xuân trên vùng biển chết”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa ,Cục Tâm Lý Chiến/K.CTCT/BTL/HQ ấn hành 2004
- The Vietnam Center and Archive (Vietnam.edu.ttu) – tài liệu về đặc tính chiến hạm thuộc Hạm Đội Hải Quân VNCH
- Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị/Cục Tâm Lý Chiến “Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của VNCH” ấn hành 1974
- Vũ Hữu San &Trần Đỗ Cẩm “Tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa” ấn hành 2004
- Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com
- Võ Sum “Nhật ký bên lề cuộc hải chiến Hoàng Sa”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa, Cục TLC/Khối CTCT/BTL/HQ ấn hành 1974
- Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com
- (1) Theo lời thuật lại của chị Nguyễn Thành Trí trong lần đến thăm chị ở Sài Gòn vào tháng 10/2006.
- (3) HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng TTHQ/VIDH lúc xảy ra biến cố HS “Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lịnh Hải Quân” phổ biến vào năm 1997 tại Yukon – Oklahoma (Câu nói này chính Đ/U Thự đã nghe nhân viên HQ10 trên cùng bè đào thoát với Đ/U Trí kể lại sau khi HQ6 đưa họ về Đà Nẵng)
- (4) Phiếu Tường Trình Ủy Khúc số 121 ngày 16 tháng 2 năm 1974 của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội (Tài liệu do phu nhân cố HQ/Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp)
- (5) điện thư số 0869 ngày 20-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ.
- (7) Nguyễn Đông Mai “Lần đào thoát ở Hoàng Sa” (TTHS-THHQ&HH 2004)
- (8) Hà Đăng Ngân “ Hoàng Sa và HQ10” (bấm vào đây)
- (9) Tất Ngưu “Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót” – (bấm vào đây)
- (10) Vương Văn Hà “Người về từ Hoàng Sa” – TTHS-THHQ&HH, 2004 - (bấm vào đây)
- công điện với nhóm ngày giờ 190150Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 0950H) của Tư Lịnh Đệ 7 Hạm Đội Hoa Kỳ.
- công điện với nhóm ngày giờ 190420Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 1220H) của Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương (Bấm vào đây xem tài liệu 2 công điện trên)
- điện thư số 075995 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn.
- điện thư số 01000 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (Bấm vào đây)
- điện thư số 01006 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Sòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
- điện thư số 013552 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Văn Phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh
- điện thư số 014042 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn
- điện thư số 01026 ngày 23-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
- Hà Văn Ngạc “Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa” trong Tuyển Tập Hải Sử (TTHS) - Tổng Hội Hải Quân&Hàng Hải (THHQ&HH) ấn hành 2004
- Jane’s Fighting Ships
- Lê Văn Thự “Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa” – Calitoday, March 08, 2004
- Liu Bingfeng “On January 19, 1974 Xisha defended the war” – Military.china.com
- Nguyễn Thị Thanh Thảo: ”Tài liệu mới HQ10 – Hoàng Sa” (bấm vào đây)
- Phạm Mạnh Khuê “Hành quân Trần Hưng Đạo 47” (TTHS-THHQ&HH 2004)
- Thanh Chương “Đêm Xuân trên vùng biển chết”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa ,Cục Tâm Lý Chiến/K.CTCT/BTL/HQ ấn hành 2004
- The Vietnam Center and Archive (Vietnam.edu.ttu) – tài liệu về đặc tính chiến hạm thuộc Hạm Đội Hải Quân VNCH
- Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị/Cục Tâm Lý Chiến “Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của VNCH” ấn hành 1974
- Vũ Hữu San &Trần Đỗ Cẩm “Tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa” ấn hành 2004
- Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com
- Võ Sum “Nhật ký bên lề cuộc hải chiến Hoàng Sa”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa, Cục TLC/Khối CTCT/BTL/HQ ấn hành 1974
- Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com
- (1) Theo lời thuật lại của chị Nguyễn Thành Trí trong lần đến thăm chị ở Sài Gòn vào tháng 10/2006.
- (3) HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng TTHQ/VIDH lúc xảy ra biến cố HS “Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lịnh Hải Quân” phổ biến vào năm 1997 tại Yukon – Oklahoma (Câu nói này chính Đ/U Thự đã nghe nhân viên HQ10 trên cùng bè đào thoát với Đ/U Trí kể lại sau khi HQ6 đưa họ về Đà Nẵng)
- (4) Phiếu Tường Trình Ủy Khúc số 121 ngày 16 tháng 2 năm 1974 của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội (Tài liệu do phu nhân cố HQ/Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp)
- (5) điện thư số 0869 ngày 20-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ.
- (7) Nguyễn Đông Mai “Lần đào thoát ở Hoàng Sa” (TTHS-THHQ&HH 2004)
- (8) Hà Đăng Ngân “ Hoàng Sa và HQ10” (bấm vào đây)
- (9) Tất Ngưu “Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót” – (bấm vào đây)
- (10) Vương Văn Hà “Người về từ Hoàng Sa” – TTHS-THHQ&HH, 2004 - (bấm vào đây)
---------------------
Trận
Hoàng Sa – Biểu Tượng Hội Tụ Lòng Yêu Nước (Trần Gia Phụng) Sunday, 18 January 2015
Xuân Thành - (Theo Anh Ba Sàm) - 19/01/2015
No comments:
Post a Comment