Nguyễn
Xuân Vinh
Gửi tới BBC từ Frankfurt, Đức
29 tháng 1 2015
Gần
đây những bình luận về vấn đề Biển Đông hay nhắc đến lập trường „ba không“ của
chính phủ Việt Nam trong đối ngoại.
Với chính sách „ba không“, Việt Nam cam
kết là „không tham gia các liên minh
quân sự và không là đồng minh quân sự
của bất kỳ nước nào, không cho nước
nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không
dựa vào nước nào để chống nước khác“.
Đối với
một quốc gia với vị trí chiến lược của Việt Nam, nằm bên lề của những tuyến đường
hàng hải quan trọng nhất thế giới, một vùng có sự chú ý của nhiều cường quốc,
chính sách này có cái lý của nó cho mục đích giữ nền độc lập.
Nhưng nếu
quốc gia đó cùng lúc lại nằm bên vùng biển với nhiều tranh chấp lãnh thổ nhất
hiện nay trên thế giới, với những đảo và vùng biển bị một cường quốc hung hăng
đe dọa, liệu chính sách này có còn phù hợp nữa để giữ sự toàn vẹn lãnh thổ?
Chỉ cần
nhìn sơ vào thống kê sức lực quân sự của Việt Nam và so sánh với Trung Quốc
cũng như các nước khác trong vùng hiện tại đang có những tranh giành về lãnh thổ
với Trung Quốc cũng đủ để thấy rằng sự duy trì chính sách „ba không“ là một đường
lối mà Việt Nam không thể đi tiếp trong tình huống này.
Mặc dù
là một quốc gia với lãnh thổ trải dài dọc vùng biển với diện tích hơn 3.600.000
cây số vuông, lực lượng hải quân Việt Nam cho đến nay không đóng một vai trò
quan trọng trong chính sách quốc phòng.
Bảy
hộ tống hạm
Hiện
nay lực lượng chủ lực của hải quân Việt Nam với khả năng hoạt động trên đại
dương bao gồm 7 chiếc hộ tống hạm.
Trong
đó có hai chiếc hộ tống hạm „Đinh Tiên Hoàng“ (HQ 011) và „Lý Thái Tổ“ (HQ 012)
là những chiến hạm lớn nhất và tân tiến nhất của hải quân Việt Nam. Năm chiếc
còn lại thuộc về hạng hộ tống hạm nhẹ hạng Petya III được đóng trong thập niên
70, giờ đây được xem là lỗi thời và không phải là đối thủ của những chiến hạm tối
tân của Trung Quốc.
Ngoài
ra còn có 6 tuần duyên hạm nhỏ, có trang bị hỏa tiễn tối tân.
Nhưng
những tàu này lại không có khả năng hoạt động biệt lập lâu ngoài khơi.
Ngoài
ra từ đầu năm 2014 Việt Nam cũng có được hai chiếc tàu ngầm tối tân. Đó là chiếc
„Hà Nội“ (HQ 182) và chiếc „TP Hồ Chí Minh“ (HQ 183).
Với lực
lượng hải quân như thế Việt Nam chỉ mạnh hơn Phi Luật Tân. Các nước trong vùng
hiện đang có những tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc như Đài Loan, Nam Hàn và
Nhật đều có những lượng hải quân hùng hậu hơn nhiều.
Sự yếu
đuối trên biển cũng được phản ảnh trên bầu trời. Không quân Việt Nam hiện nay,
theo như ước lượng của viện nghiên cứu International Institute for Strategic
Studies (IISS) ở Anh Quốc, có khoảng 97 chiến đấu cơ bao gồm các loại MiG-21,
Su-22, Su-24 và Su-30.
Trong
khi 24 chiếc Su-30 và 11 chiếc Su-24 mua từ năm 2004 được xem là cột trụ của lực
lượng bảo vệ không phận, thì đa số máy bay còn lại thuộc vào loại MiG-21 và
Su-22 đã quá lỗi thời và không biết bao nhiêu còn sử dụng được.
Để trả
lời câu hỏi lực lượng không quân Việt Nam có đủ khả năng để bảo vệ đất nước và
biển đảo hay không, chỉ cần so sánh: Đài Loan, với một diện tích chỉ bằng khoảng
1/9 của Việt Nam, lại có một lực lượng không quân gồm khoảng 400 chiếc chiến đấu
cơ phản lực tối tân!
Trong
khi đó, lực lượng hải quân của Trung Quốc được chia ra ba hạm đội, đó là hạm đội
Bắc hải, hạm đội Đông hải và hạm đội Nam hải. Hạm đội Nam hải là lực lượng kiểm
soát vùng Biển Đông, và là đối thủ trực tiếp của hải quân Việt Nam trong những
cuộc xung đột trong quá khứ và tương lai.
Theo
tài liệu của bộ quốc phòng Mỹ năm 2014 thì lực lượng tác chiến của hạm đội này
bao gồm 17 tàu ngầm, 8 khu trục hạm, 18 hộ tống hạm và 33 tuần duyên hạm. Một lực
lượng vô địch trên Biển Đông, và là một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm cho lãnh hải
Việt Nam với một căn cứ lớn ở Yalong phiá nam đảo Hải Nam.
Ngoài
ra trên đảo Hải Nam còn có hai sư đoàn không quân với khoảng 200 chiếc chiến đấu
cơ tối tân đe doạ không phận trên biển của Việt Nam.
Với sự
chênh lệch quân lực như vậy, nếu Việt Nam duy trì cái gọi là chính sách „ba
không“ thì sẽ không thể nào tránh khỏi sự mất mát biển đảo.
Câu hỏi
cũng đuợc đặt ra là Việt Nam sẽ làm gì nếu Trung Quốc tuyên bố thiết lập vùng
nhận diện phòng không (Air Defense Identification Zone) trên Biển Đông?
Khi
Trung Quốc tuyên bố điều này đối với không phận trên các đảo đang tranh chấp với
Nhật mà Nhật gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Diaoyu, Nhật và Mỹ lập tức phế
bỏ điều đó và đã cho không quân đi tuần trong khu vực đó. Trước thái độ cứng rắn
của hai nước đồng minh này, Trung Quốc đã phải nhượng bộ và đã không kiên quyết
thi hành những biện pháp đã đe dọa.
Liệu
chính phủ Việt Nam cũng sẽ có đủ bản lãnh để phản ứng như thế không? Nhưng dù
có đi nữa, có thể là không quân Việt Nam cũng không đủ khả năng để thực hiện một
chiến dịch như Nhật đã làm.
Việt
Nam không thể đơn thân đối đầu với Trung Quốc, nếu muốn bảo vệ lãnh thổ. Việt
Nam phải chỉnh sửa chính sách „ba không“.
Nhưng
chỉnh sửa ra sao?
Tham
gia một liên minh quân sự để chống Trung Quốc thì không nên vì đó sẽ là một
khiêu khích đối với Trung Quốc. Và cũng không có liên minh nào trong vùng để
theo. Để cho nước khác – đó chỉ có thể là nước Mỹ thôi – đóng quân tại Việt Nam
cũng không được vì cùng lý do.
Và cũng
chẳng có nước nào muốn đóng quân tại Việt Nam để bị rơi vào vai trò phải làm thần
hộ mệnh cho Việt Nam để chọi với Bắc Kinh. Thêm nữa, Mỹ đã bỏ Subic Bay, vậy
thì vào Cam Ranh để làm gì?
Chỉ còn
giải pháp là tựa vào một hoặc nhiều nước để giữ cân bằng với Trung Quốc. Hiện
nay trong vùng Đông Á Thái Bình Dương chỉ có hai cường quốc Việt Nam có thể đến
để thực hiện chiến lược này, đó là Mỹ và Ấn Độ.
Thái độ
của Mỹ về Biển Đông hiện rất thuận lợi cho Việt Nam. Chính phủ Obama cũng đã
lên tiếng hỗ trợ các quốc gia láng giềng của Trung Quốc trong tranh chấp hải phận.
Tháng
Hai 2014, Mỹ đã chính thức phủ nhận tính cách hợp pháp của cái „bản đồ 9 đoạn“
khi Thứ trưởng ngoại giao Daniel Russel tuyên bố trước ủy ban ngoại vụ của quốc
hội Mỹ rằng, sự khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trong Biển Đông là „không
phù hợp với các điều luật quốc tế“.
Chính
phủ Mỹ bắt đầu lo âu vì xu hướng ngày càng bành trướng của Trung Quốc. Những
hành động của Trung Quốc đã gây xôn xao tại các nước đồng minh của Mỹ và là một
yếu tố gây ra rủi ro cho nền kinh tế của vùng châu Á Thái Bình Dương.
Chính
phủ Mỹ sẽ không bao chấp nhận để Trung Quốc kiểm soát những tuyến đường hàng hải
trên Biển Đông và để những mạch máu dẫn đến Nhật, Nam Hàn và ngay cả miền Tây
nước Mỹ chạy qua hải phận Trung Quốc.
Mỹ sẽ
can thiệp nhiều hơn trong sự tranh chấp lãnh hải này, thứ nhất là để ngăn ngừa
một sự xung đột bạo lực, thứ nhì là để giữ uy tín của các đồng minh tại châu Á.
Phát
triển thuận lợi
Việt
Nam phải tận dụng điều này. Mối liên hệ Mỹ Việt đang phát triển thuận lợi.
Ngoài sự bang giao về chính trị và kinh tế, những bước đầu tiến tới bình thường
hóa quan hệ quân sự hai bên cũng đã được tiến hành. Hơn nữa, nếu bang giao tốt
đẹp, Việt Nam có thể được cơ hội mua vũ khí tinh vi của Mỹ như tàu chiến hoặc
máy bay.
Việt
Nam cũng phải liên kết nhiều hơn với các nước trong vùng như Ấn Độ, Nhật và Nam
Hàn. Họ cũng lo ngại và bất bình với thái độ ngang ngược của Trung Quốc. Nếu tạo
được một sự thoả thuận với các nước ven Biển Đông về quyền sử dụng biển, thí dụ
như theo hiệp ước UNCLOS, thì sự tranh chấp sẽ biến thành một sự phân chia trên
căn bản pháp lý quốc tế.
Đó
không phải là một điều bất lợi cho Việt Nam. Và nếu Việt Nam đạt được một sự bắt
tay chặt chẽ với các nước trong vùng, đặc biệt là với Nhật và Nam Hàn, cả hai
nước này đều nằm sát biển với Trung Quốc và hiện đang có những tranh chấp về biển
với Trung Quốc, thì việc lấn ép ngang ngược sẽ khó khăn hơn cho Bắc Kinh vì
Trung Quốc có thể bị cô lập trên chính trường ngoại giao.
Một
liên minh như thế cũng có thể tạo áp lực cho Bắc Kinh phải ngồi vào bàn tròn
đàm phán tìm giải pháp.
Năm
2015 sẽ phải có một biến chuyển trong chính sách ngoại giao và an ninh của Việt
Nam. Đảng Cộng sản và chính phủ Việt Nam thường dèm pha quân đội và chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa.
Nhưng
quân đội VNCH đã đổ máu để bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Nhà cầm quyền hiện tại
chưa chứng minh cho dân tộc và lịch sử là họ xứng đáng để được đứng cùng hàng với
Việt Nam Cộng Hòa trong vấn đề này.
No comments:
Post a Comment