01:48:am
30/01/15
Bốn
mươi (40) năm sau cuộc thất thủ của miền Nam, nhiều người Việt còn rất cay đắng
vì những lý do đưa đến sự thôn tính miền Nam của Bắc Việt. Trong số này người ta
có thể kể ông Giao Chỉ – Vũ văn Lộc với bài “Sự
Phản bội Cuối Cùng.”
Đọc bài
“Sự
Phản bội Cuối Cùng”
của ông Giao Chỉ tôi cũng ao ước ông có thể gây quỹ để làm một cuốn phim cho
đích đáng và đầy đủ, cho ông thật ưng ý, chứ những bộ phim lịch sử về chiến
tranh của Việt-Nam do người Mỹ thực hiện, chẳng có phim nào đầy đủ hay chính
xác cho vừa lòng chiến sĩ. Chưa nói đến phim tài liệu Last Days in
Vietnam của bà Rory Kennedy (cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con
gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy, cả hai đều bị ám sát chết).
Đúng ra
nếu ông Giao Chỉ đóng vai bình luận gia quân sư viết một bài bình luận về quân
binh, những trận đánh hoặc những mưu mô, manh nha chính trị thì chuyện lên án,
chửi bới có lẽ lại hơn! Tuy nhiên, chê bai cuốn phim tài liệu ‘Last Days in
Vietnam’ (Những Ngày Cuối cùng ở Việt-Nam) của bà Rory Kennedy một cách nặng nề
và thậm tệ thật không đúng chỗ.
Riêng
tôi, và có lẽ nhiều người Việt khác thì biến cố 30 tháng Tư 1975 không phải là
những ngày cuối cùng. Không kể những người Việt đã nằm sâu trong lòng biển hay
bụng cá, hoặc chết vào tay hải tặc vào những thập niên 70 – 80, nhiều người
khác cho đến nay vẫn mong đợi một ngày mai tươi sáng cho Việt Nam. Nhiều người
vẫn tìm về với những lý tưởng và mơ ước của mình. Do đó Last Days in Vietnam chỉ
là một phim nói lên một giai đoạn ngắn ngủi trong lịch sử ra đi của người
Việt. Một cuốn phim 90 phút đương nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, người ta đánh giá nó trên những tiêu chí
chính (tình người), của nó, không phải trên mọi phương diện, quân sự
hoặc tự ái cá nhân.
Tôi
cũng không hiểu ông đại sứ Graham Martin có tiên liệu trước là miền Nam sẽ mất
vào tay Cộng sản Bắc Việt hay không, hoặc giả ông vẫn còn chờ đợi một giải pháp
trung lập thứ ba nào. Nhưng theo những nhân vật trong phim tài liệu này
thì ông Martin vẫn tin tưởng vào miền Nam ‘sẽ không mất’ nên không chịu dự tính
một phương án di tản. Trong khi đó thì ông Giao Chỉ, dẫn chứng sách “Tears
before the Rain” của Giáo sư Larry Engelman, nói về thương lượng của ông Henry
Kissinger với Brezhnev đề nghị 2 tuần cho Mỹ rút lui (lúc đó chỉ còn từ 5.000 đến
7.000 người Mỹ ở Việt Nam. Ông Giao Chỉ trích: “Đầu tháng 4, đại sứ Graham
Martin “muốn chắc ăn đã gửi đại tá Harry Summers đi theo chuyến bay của ủy hội
quốc tế ra Hà Nội nói chuyện trực tiếp.”
Tuy có
bàn qua sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ và những lý do – như không viện trợ
hay cung cấp vũ khí, thay thế những thứ bị hư hại đưa đến sự thất thủ của miền
Nam, cuốn phim tài liệu này không nhằm chú trọng đến chuyện quân sự hay chính
trị. Bà Kennedy chỉ dùng chúng như những bối cảnh cho thấy những nỗ lực đáng kể
của nhiều người Mỹ trong những tình huống nguy cơ và cấp bách để nói lên sự
dũng cảm của họ.
Có lẽ
bà Rory Kennedy, dưới nhãn quan của một người Mỹ – đã cưu mang nhiều oan khuất
vì cái chết bất đắc kỳ tử của bác và cha mình, cũng như những bất cập của Hoa Kỳ
trong cuộc tham chiến ở Việt-Nam – nên đã dựng lại phim tài liệu này kể lại cuộc
di tản tang thương và khó xử đó. Trong cuốn phim này, đại ý cho thấy tính
nhân bản của các nhân vật trong tòa Đại sứ Mỹ cũng như trong quân đội Hoa kỳ đã
tìm cách đưa những người Việt ra đi bất kể lệnh trên.
Không
hiểu ông Vũ văn Lộc có hiểu đại ý cuốn phim tài liệu này không? Ông Kissinger
không phải là tài tử (phim tài liệu không có tài tử) bình luận, hay là nhân vật
chính trong cuốn phim tài liệu này, tuy rằng ông là người đã giữ vai trò cốt yếu
trong cuộc hoà đàm với Bắc Việt dẫn tới chuyện Ngụy Ước Paris 73 (1). Ông
Kissinger, ông Nixon, cũng như ông Ford (tuy rằng ông Kissinger là người duy nhất
trong 3 người vẫn còn sống đến ngày nay nên đã được mời góp ý trong cuộn phim)
đều là những người thứ phụ trong phim này, sự hiện diện của họ chỉ làm sáng tỏ
những tiết yếu và diễn tiến của những ngày cuối cùng nhằm minh họa cuốn phim.
Những
nhân vật chính trong phim này là đại úy bộ binh Stuart Herrington (có thể coi
là bình luận viên (narrator), Juan Valdez sĩ quan Thủy quân Lục chiến), Frank
Snepp (CIA), Đại sứ Graham Martin, Richard Armitage (Cố vấn quân sự), Gerry
Berry, (Phi công trực thăng), người di tản cả ngàn người Việt, Paul Jacobs
(thuyền trưởng tàu Kirk) Phía người Vịệt gồm có: Đại úy Đổ Kiểm, Bình Phó (sinh
viên), Đại úy Hải quân Phạm Hữu Đàm, Nguyễn Miki, con trai ông phi công trực
thăng Chinook, người đã biễu diễn một màn thoát hiểm ngoạn mục trên tàu Kirk)
Bà Rory
Kennedy dù sao cũng là một người Mỹ, trong phần Q&A khi khai trương cuốn
phim hồi tháng 10, đối với cuộc chiến khá phức tạp của Việt Nam khi hỏi về bài
học mà cuộc chiến Việt Nam đã mang lại, bà đã trả lời, đại ý rằng trước khi
tham chiến vào một quốc gia nào thì Hoa kỳ phải tính đến hậu quả (cũng như lối
ra ý nghĩa hơn là cắt đức và bỏ chạy (?).
Phần lớn
ai đi xem ‘Last Days in VN’ cũng khó cưỡng lại kết cục làm rơi lệ, cảm thương
cho số phận Việt-Nam. Trong phim, chạnh lòng nhất là câu hỏi của ông Đại úy Phạm
Đàm, cựu quân nhân VN Cộng hòa, tù Cộng Sản 6 năm: “Có phải mục tiêu cuộc tham
chiến Mỹ là dẫn đến cuộc di tản tang thương này…?” Rồi những lời hối hận của
các chiến binh, tham tán quân vụ, ngoại giao, lo cho số phận những người VN bị
bỏ rơi.
Đến lúc
đèn sáng, đạo diễn, cô Rory Kennedy ra kêu gọi khán giả aỉ là người VN xin đứng
dậy, khán giả cho một tràng pháo tay. Sau đó tôi là người đầu tiên đặt câu hỏi,
nghẹn lời xúc động: “Đã 51 năm từ hồi bác cô, ông J. F. Kennedy là tổng thống đầu
tiên gởi quân sang VN, rồi bật đèn xanh cho lật đổ ông Diệm, rốt cuộc ông Diệm
bị giết 3 tuần trước ông Kennedy – VN ngày nay vẫn còn mù mịt (in limbo) dưới
bóng Trung quốc…”
Ý của
bà mà tôi có thể đọc được là sau nhiều năm bị gặm nhắm với những mặc cảm tội lỗi
do hội chứng VN (Vietnam syndrome) nên đã có ý tìm đến góc cạnh cứu độ của những
người Mỹ trong tòa đại sứ cũng như những nhân vật khác thuộc các binh chủng Hoa
Kỳ, kể cả những cấp trên của họ.
Bà cũng
nói thông điệp chính của ‘Last Days in Vietnam’ không chú trọng vào vấn đề
chính trị mà chỉ đề cao tình người.
Thiết
nghĩ nếu chịu khó nghiên cứu người ta có thể đào ra vô số những yếu tố đưa đến
sự thất thủ của miền Nam, nhưng không ai với một thái độ bình tĩnh và từ tốn
sau khi xem phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ của bà Rory Kennedy và những nỗ
lực tìm đến cộng đồng Việt Nam của bà qua những dự án như: trình chiếu phim tài
liệu này (có phụ đề Việt ngữ do người viết dịch) ở nhiều vùng trên nước Mỹ và
hoàn toàn miễn phí, cũng như “Dự án Những Ngày Đầu” nhằm tri ân các làn sóng
người Việt tị nạn bằng cách kêu gọi họ ghi âm những câu chuyện của họ và cho
lưu trữ trong Thư viện quốc gia Hoa Kỳ (U.S. Library of Congress) cho các thế hệ
mai sau – mà lại đồng hóa cuộn phim này với sự phản bội cuối cùng của Kissinger
hay Hoa Kỳ. Tuy nhiên vì những lý do riêng tư nào đó, ông Giao Chỉ đã lên án nặng
nề cuốn phim Last Days, gọi nó là một phim chết tiệt!
“Theo
ý tôi, đây là một phim chết tiệt. Nên gọi là Sự phản bội cuối cùng.”
“Tôi
không thích phim này, nhưng tôi biết có những người rất thích và có lý do để
thích. Việt cộng.”
“Phim
đã chẳng ra làm sao, tài tử bình luận chính lại là Kissinger đóng vai nhà chính
khách nhân đạo, thương yêu Việt Nam hết sức.” (Vũ văn Lộc)
Người
ta có thể lên án Bắc Việt một cách chính đáng đã vi phạm trắng trợn hiệp định
Ba-lê năm 73 mà họ đã ký kết. Một cách chính đáng người ta cũng nguyền rủa ông
Kissinger đã cố tình bán đứng miền Nam qua hiệp định này, vì ngoài những hậu ý
ám chỉ chuyện nhân nhượng của Hoa Kỳ trong các giao tế ngoại giao, chấp nhận sự
hỏa mù của Lê Đức Thọ trong việc thương lượng, Kissinger đã mặc nhiên cho phép
Bắc Việt để lại tại miền Nam hơn 130.000 quân đội chính quy của họ. ̉Người ta
cũng có thể một cách chính đáng buộc tội Quốc hội Hoa Kỳ, đã buông rơi miền
Nam, cắt đứt mọi mặt viện trợ cho miền Nam trong những ngày tháng cuối cùng của
cuộc chiến phòng thủ Sàigòn của ông Thiệu.
Xa hơn
nữa nguồn gốc của sự “đã nằm trong thiên thư” này có lẽ đã nảy mầm từ trước
năm 1971 khi Nixon và Kissinger đã lót đường cho Trung hoa lục địa giao du
với Hoa kỳ (và thế giới bên ngoài) đưa đến chuyện mà người ta có thể gọi
một cách chính đáng là sự phản bội của Hoa Kỳ đối với Việt-Nam Cộng-hòa. Đó là
nhân chuyện đàn áp Phật giáo Hoa kỳ đã bật đèn xanh cho các tướng lãnh miền Nam
lật đổ (và thủ tiêu hai ông Diệm-Nhu) từ 1 tháng 11, 1963. Tuy rằng là một chế
độ gia đình trị, sự lật đổ hai ông Diệm Nhu đã giúp Hoa kỳ đưa quân đội Mỹ ồ ạt
vào miền Nam. Từ đó sự tham chiến của Hoa Kỳ là con dao hai lưỡi, một mặt giúp
cho Cộng sản miền Bắc lấy cớ tuyên truyền (che đây chính sự mất chính nghĩa làm
tay sai cho quan thầy Trung Cộng và Nga xô của mình) ’Hoa kỳ xăm lăng’ và lũng
đoạn chính quyền miền Nam, một mặt vừa khiến miền Nam ỉ lại quá đáng vào sức mạnh
và sự bền bĩ của Hoa Kỳ.
Nhưng
‘Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách’ có lẽ một cách chính đáng hơn người ta
nên trách sự tồi dở của ông Thiệu và lãnh đạo miền Nam đã quá tùy thuộc vào đồng-minh-không-bền-chí
Hoa Kỳ.
Tôi
không bào chữa cho sự sai lầm và toan tính của Hoa Kỳ đã đưa đến những chính
sách không có lợi cho miền Nam trong cuộc chiến đó (kể từ đời các tổng thống:
Eisenhower, đến Kennedy, đến Johnson, đến Nixon, đến Ford).
Ngoài
chuyện địa chính trị và realpolitik (chính trị thực dụng) mà miền Nam phải
làm đồng minh của Mỹ – thay vì Mỹ phải là đồng minh của VN (mới
đúng), Vì đây chính là cuộc chiến của VN, có gọi là cuộc chiến ủy thác,
chiến tranh lạnh trong điạ bàn quốc tế, chiến tranh Quốc-Cộng, nội chiến, hay
CS Bắc Viêt gọi là Chiến Hoa Kỳ, ( ̣chống đế quốc Mỹ và tay sai) v.v.. và v.v..
Có muốn truy từ gốc ngọn cuộc chiến từ tàn dư của cuộc đô hộ của (thực dân)
Pháp thì vấn đề cốt lõi mà những người VN trung chính và chân chính nào cũng
nên thừa nhận: cuộc chiến vừa qua đã định đoạt vấn đề sống còn và ước vọng của
một dân tộc đang đi tìm chỗ đứng và tương lai, lý tưởng và ý chí của đất
nước .
Chính
ra Mỹ phải là đồng minh của VN chứ không phải VN phải làm đồng minh của Mỹ. Vì cuộc chiến trước
và sau là cuộc chiến của VN, chứ không phải của Mỹ tuy rằng VN sau nền Cộng hòa
thứ hai đã để cho Mỹ thao túng cuộc chiến vì chế độ quân lực và lãnh đạo yếu
hèn.
Không
ai phủ nhận là Mỹ đã bỏ rơi VN, nhưng hơn 30 năm trước khi gót giầy của quân đội
Mỹ rầm rộ dẫm xuống Việt Nam (vào tháng 3 năm 65), trong thế tranh tối tranh
sáng trước địa chính trị của các cường quốc, chúng ta đã chật vật lao tâm lao lực,
cố vươn lên tìm lối thoát trong bối cảnh đô hộ của Pháp-Nhật, nhưng vẫn không
tránh khỏi chuyện đổ máu vì những âm mưu đen tối cá nhân mượn chủ nghĩa Cộng sản
làm cứu cánh cho tham vọng của mình. Ngoài đảng Cộng sản ra, không ai có
thể nói rằng Hoa Kỳ đã khởi sự của cuộc chiến VN.
Mặc dù
nếu có vặn vẹo diễn dịch với những nhân tố quan yếu như geopolitics và realpolitik
và Cold War giữa Cộng sản Quốc tế thứ 2 , 2 rưỡi, thứ ba, thứ tư và Tư bản
hay Thế giới Tự do v.v.. để đổ thừa rằng Mỹ và các thế lực thù địch đã lèo lái
và đánh mất chính nghĩa của Cộng hòa cho CS. Thì câu hỏi cuối cùng mà người Việt
nên hỏi là:
Có
phải nước Việt Nam là của người/dân tộc VN không, hay là nói như ông
Thiệu: nếu Mỹ viện trợ VN $300 triệu thì ta đánh theo 3 trăm triệu, nếu cho
$700 triệu (Mỹ kim) thì ta đánh theo $700 triệu?
Một
chuyện đáng xấu hổ là thay vì chấp nhận trọng trách thua cuộc của miền Nam do
những thiếu sót và lỗi lầm đã nêu ra, như đã tin và tùy thuộc vào (người)
Mỹ quá đáng. Đến bây giờ không nhận thức được chuyện đó lại đi bêu rêu chuyện
thiếu sót của người làm phim Mỹ. Có giỏi thì chính mình tự làm nên cuốn phim của
mình hà cớ gì lại bới móc chuyện người ngoại cuộc!
Oải lắm!
Xin lỗi quý đọc giả khi phài viện dẫn, lý giải dài dòng như trên.
________________________________________________
(1) Xin
xem bài của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích về Hiệp định Paris 1973
© Nguyễn-Khoa
Thái Anh
Sau
đây là bản dịch Dự án của bà Kennedy và đội ngũ của bà:
Dự án
Câu chuyện Những Ngày Đầu/The First Days Project Story là một sự hợp tác
giữa StoryCorps và AMERICAN EXPERIENCE/KINH NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, nhằm mục
đích thu thập, bảo tồn, và ngợi ca những mẫu chuyện của những người tị nạn Việt-Mỹ
và các cựu chiến binh Việt Nam. Dự án mong mỏi mời các thành viên trong cộng đồng
người Mỹ gốc Việt và các cựu chiến binh Việt Nam có quan hệ mật thiết với cộng
đồng người Việt di cư sau chiến tranh; quý vị sẽ được dành cho 40 phút không bị
gián đoạn để trò chuyện với một người thân hay bạn bè, nhằm ghi lại kinh nghiệm
tị nạn Việt Mỹ qua tiếng nói của những người đã kinh qua giai đoạn này.
VỀ DỰ
ÁN CÂU CHUYỆN NHỮNG NGÀY ĐẦU
First
Days Story Project/Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu là một phần sáng kiến của bộ
phim tài liệu Last Days in Vietnam/Những Ngày Cuối cùng tại Việt Nam, khởi xướng
việc tiếp cận và nối vòng tay lớn với cộng đồng Việt. Được sản xuất bởi KINH
NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, Những ngày cuối cùng ở Việt Nam thuật lại bằng hình ảnh
những ngày hỗn loạn cuối cùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam và nói lên câu
chuyện thương tâm về lòng dũng cảm và khả năng sống còn của người dân vượt biên
miền Nam, và các nhân viên quân lực Hoa kỳ, trong nhiều trường hợp, đã không
tuân lệnh cấp trên để nỗ lực cứu trợ người Việt di tản. Bộ phim soi rọi nhiều
tình huống trong những ngày cuối cùng đó. Bốn mươi năm sau, Dự án Câu chuyện Những
Ngày Đầu hy vọng sẽ ghi lại những mẫu chuyện của cộng đồng Việt-Mỹ và cựu chiến
binh Việt Nam trong những ngày đầu của họ tại Hoa Kỳ sau cuộc chiến. Kết quả nội
dung của các mẫu chuyện này sẽ được chia sẻ trên một trang mạng truyền thông đa
dạng và sẽ được lưu trữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Đây là những câu chuyện
đã tạo nên một phần quan trọng lịch sử quốc gia của chúng ta, và chúng tôi muốn
lưu giữ chúng cho các thế hệ mai sau.
CÁCH
LÊN LỊCH PHỎNG VẤN
Các mẫu
chuyện sẽ được thu thập vào đầu năm 2015 thông qua các quan hệ đối tác ở các
thành phố sau đây:
· San
Jose, CA
·
Westminster, CA
·
Houston, TX
·
Seattle, WA
·
Boston, MA
· Falls
Church, VA
Quý vị
có thắc mắc về dự án và lịch trình, xin vui lòng liên lạc với cô Vũ Ngọc-Trân tại:
tran_vu@wgbh.org
VỀ
STORYCORPS
StoryCorps
là một tổ chức phi lợi nhuận Hoa kỳ có sứ mệnh cung cấp cho người dân thuộc mọi
tầng lớp và đức tin khác nhau cơ hội để ghi âm, chia sẻ và lưu giữ những câu
chuyện về cuộc sống của tất cả chúng ta. Kể từ năm 2003, gần một trăm ngàn người
thường dân đã ghi âm câu chuyện của họ với StoryCorps. Ngoài việc là một trong
những dự án lớn nhất lịch sử truyền khẩu thuộc thể loại này, hàng triệu người
nghe StoryCorps phát thanh hàng tuần qua chương trình Buổi Sáng/Morning Edition
của NPR.
VỀ
KINH NGHIỆM HOA KỲ/AMERICAN EXPERIENCE
Trên
hai mươi lăm năm nay, American Experience/Kinh nghiệm Hoa Kỳ là một chương
trình truyền hình về lịch sử được xem nhiều nhất trên vô tuyến, và đã mang lại
sức sống cho những nhân vật có tên tuổi, chính những câu chuyện sử thi này đã định
hình được quá khứ và hiện tại của Hoa Kỳ. (Thái-Anh dịch)
Vũ Ngọc-Trân
Điều phối
viên dự án
Những
Ngày Cuối cùng ở Việt Nam
Kinh
nghiệm Hoa Kỳ
WGBH
Boston
617.300.5963
No comments:
Post a Comment