Vì sao họ đánh nhau: Chiến tranh tạo ra Nhà nước và Nhà nước thiết
lập hòa bình bằng cách nào
Trần
Ngọc Cư
dịch
31/01/2015
MICHAEL
MANDELBAUM là Giáo sư Chính sách Đối ngoại Mỹ, hàm giáo sư vinh danh Christan
A. Herter, tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp thuộc Đại học Johns Hopkins và
là tác giả cuốn The Road to Global Prosperity [Con đường dẫn đến thịnh
vượng toàn cầu].
Bức
tranh vẽ quanh chỗ bị một quả đạn pháo bắn trúng trong đợt tấn công của Bắc Triều
Tiên vào đảo Yeonpyeong, ngày 9/4, 2014. (Damir Sagolj / Courtesy Reuters)
Sách được
phê bình: War! What Is It Good For? Conflict and the Progress of
Civilization From Primates to Robots [Chiến tranh! Nó có ích lợi gì? Xung đột
và bước tiến của văn minh nhân loại từ khỉ đến người máy] của IAN MORRIS.
Farrar, Straus, và Giroux, 2014, 512 tr. 30 USD.
Triết
gia Alfred North Whitehead từng nhận xét rằng lịch sử triết học châu Âu chỉ là
một chuỗi cước chú về Platon. Còn đối với Ian Morris, lịch sử thế giới có thể
được hiểu là một chuỗi cước chú về Thomas Hobbes. Theo triết lý chính trị của
Hobbes, trật tự chiếm một địa vị nổi bật nhất trong tất cả các tình trạng xã hội.
Không có nó, sự tồn tại của loài người sẽ trở nên, như cụm từ thường được trích
dẫn của ông, “bỉ ổi, đầy thú tính, và ngắn ngủi.” Trật tự, Hobbes viết, được thể
hiện thông qua việc thành lập một chính phủ đầy quyền lực, mà ông gọi bằng từ
“Leviathan,” theo tên một loài thủy quái khổng lồ trong Cựu Ước.
Theo cuốn
sử đại cương này của Morris về tình trạng chiến tranh từ thời tiền sử đến ngày
nay, trật tự xã hội phát xuất từ các chính phủ đủ mạnh để bảo vệ người dân sống
dưới thẩm quyền của mình, y như phát biểu của Hobbes về nguồn gốc của trật tự.
Những chính phủ này lại có xuất xứ từ chiến tranh. Đáp án cho câu hỏi được nêu
ra bởi đầu sách của Morris là, chiến tranh có ích lợi cho việc tạo ra tình trạng
an toàn – nói cách khác, chiến tranh có lợi cho hòa bình. Hẳn nhiên, không phải
mọi cuộc chiến tranh đều “có hiệu quả” [productive], và Morris cũng nhìn nhận
điều này; những cuộc chiến làm suy yếu hay làm tan rã các Leviathan đáng được gọi
là “phản tác dụng” [counterproductive], vì chúng làm cho người dân dễ bị tổn
thương hơn. Theo ông, lịch sử loài người đã chứng kiến những thời kỳ dài của
hai loại chiến tranh này. Để chứng minh luận cứ của mình, Morris đưa ra một cái
nhìn khái quát khá hữu ích về quân sử thế giới kể từ khi bắt đầu diễn ra những
cuộc chiến có tổ chức, mặc dù lối tường thuật của ông gặp nhiều trở ngại khi nó
tiến gần đến thời hiện tại.
MỘT LỊCH SỬ BẠO ĐỘNG
Biên khảo
của Morris bắt đầu bằng những sự kiện cách đây 10.000 năm, tức là vào Thời đồ
đá, khi chỉ có dăm bảy triệu người trên hành tinh này, sinh sống trong các bầy
đoàn săn bắn-hái lượm nhỏ bé, thường xuyên gây chiến lẫn nhau. Trong kỷ nguyên
bất hạnh này, theo các ước tính phải nhìn nhận là rất khái quát, từ mười đến 20
phần trăm dân số trên trái đất có thể dự kiến sẽ chết do bạo hành từ tay kẻ
khác. Trong suốt năm thiên niên kỷ tiếp theo, các điều kiện sống được cải thiện
hơn nhờ những biến chuyển lớn trong lịch sử loài người: sự ra đời của nghề nông
và sự phát triển các cộng đồng định cư to lớn, đặt cơ sở trên việc canh tác đất
đai. Những cộng đồng hùng mạnh nhất bành trướng và thôn tính các cộng đồng nhỏ
bé hơn, bằng cách vận dụng nhiều sáng kiến quân sự khác nhau, như vũ khí bằng đồng,
công sự chiến đấu, và xe tứ mã. Cuối cùng, các đế quốc lớn bắt đầu xuất hiện,
như Đế chế Maurya ở Nam Á, nhà Hán ở Trung Quốc, và Đế quốc La Mã quanh Địa
Trung Hải.
Những
Leviathan cổ đại này làm cho đời sống người dân trở nên an toàn hơn. Đúng là,
các chính phủ mạnh có khả năng và thực sự bảo vệ người dân sống trong lãnh thổ
của mình, giảm thiểu việc giết người và ngăn chặn chiến tranh. Tỉ lệ tử vong do
bạo động giảm bớt nhanh chóng, theo ước tính của Morris, chiếm khoảng từ hai đến
năm phần trăm trong tất cả các loại tử vong. Các Leviathan còn làm cho dân
chúng giàu có hơn lên. Để giải thích việc này đã diễn ra như thế nào, Morris dựa
vào khái niệm “tướng cướp cố định” [the stationary bandit] của nhà kinh tế
Manur Olson. Trong khi “tướng cướp lưu động” [the rowing bandit] tấn công vào
các khu định cư, vơ vét càng nhiều của cải càng tốt, rồi bỏ đi nơi khác, các thủ
lĩnh của những cộng đồng nông nghiệp to lớn, mặc dù không kém tham lam, vẫn ở
yên một chỗ. Vì vậy họ muốn thúc đẩy sự phồn thịnh của người dân mà họ cai trị
– nhờ đó, xã hội sẽ có thêm nhiều của cải để họ ăn cắp. Và vì sự phồn thịnh cần
đến trật tự xã hội, các nhà cai trị bèn áp đặt trật tự lên người dân. Các lợi lộc
của tướng cướp lưu động được gọi là “của cướp được” [loot]. Các tướng cướp cố định
gọi những gì mà họ bòn rút được từ người dân là “thuế”; do đó lãnh địa của họ
càng có hòa bình thì họ có thể thu về càng nhiều lợi tức.
Cảnh
thái bình, được nuôi dưỡng bởi các đế quốc cổ đại dưới quyền cai trị của các tướng
cướp cố định, không tồn tại lâu dài. Một sáng kiến quân sự đặc thù đã làm thay
đổi tình hình: đó là việc sử dụng ngựa. Các toán du mục đã kiện toàn tài chiến
đấu trên lưng ngựa và do đó có thể giành thắng lợi trong chiến tranh phá hoại
[phản tác dụng]. Những thế lực quân sự mới này đã đóng vai các tướng cướp lưu động:
họ đột kích, cướp phá, làm suy yếu, và cuối cùng triệt hạ những Leviathan. Đây
là cách để Đế quốc La Mã xuống dốc và sụp đổ. Tại châu Âu, những thế kỷ tiếp
theo sau đó thường được gọi Thời kỳ Tăm tối [the Dark ages]. Morris cho rằng từ
ngữ này cũng có thể áp dụng cho nhiều vùng khác trên thế giới. Khi các cuộc chiến
tranh phản tác dụng hủy diệt những đế quốc cổ đại, thế giới lâm vào cảnh hỗn loạn
suốt 14 thế kỷ đầu của Công Nguyên. Tử suất do bạo động tăng cao trở lại, chiếm
từ năm đến mười phần trăm trong số tử vong do tất cả các nguyên nhân gây ra.
Tuy
nhiên, bắt đầu từ Thời kỳ Phục hưng, tình trạng rối loạn bắt đầu nhường chỗ cho
một thời kỳ củng cố trật tự dài 500 năm. Thêm một lần nữa, một phát minh quân sự
quan trọng – thuốc súng – đã khởi động chuyển biến này. Các nhà lãnh đạo lấy lại
khả năng tổ chức các đơn vị chính trị to lớn, lần này bằng cách sử dụng các loại
súng và đại pháo có hỏa lực mạnh hơn so với trước đó. Bên trong những đơn vị
chính trị này, tỉ lệ dân số chết vì bạo động giảm bớt. Vào giai đoạn sau của thời
kỳ này, bắt đầu từ 1760, sự biến đổi vĩ đại thứ hai trong lịch sử loài người đã
diễn ra: cuộc Cách mạng Công nghiệp. Người châu Âu sử dụng các loại máy móc mà
cuộc cách mạng này làm ra để phục vụ các mục đích quân sự lẫn dân sự; việc này
giúp họ chiếm được nhiều vùng trong phần còn lại của thế giới vào thế kỷ 19.
Cũng như trong các đế quốc cổ đại, trong các đế quốc châu Âu quan trọng của thời
hiện đại – một số, đặc biệt là Đế quốc Anh, dàn trải quanh thế giới – đời sống
của thần dân trở nên an toàn hơn bao giờ cả so với trước đó.
Thế kỷ
19 cũng chứng kiến sự xuất hiện của một hiện tượng mà Morris gọi là “cảnh sát
toàn cầu” [globocop], một cường quốc lãnh trách nhiệm duy trì trật tự trên qui
mô toàn cầu. Vương quốc Anh giữ vai trò này cho đến Thế chiến II, sau đó Mỹ chiếm
địa vị của Anh. Qua lịch sử hai thiên niên kỷ của chiến tranh có hiệu quả [productive
warfare], hành tinh này đã đi từ Hoà bình La Mã [Pax Romana] đến Hoà bình Anh
[Pax Britannica] đến Hoà bình Mỹ [Pax Americana]. Sự tồn tại của loài người đã
trở nên ngày một an toàn hơn. Tỉ lệ toàn cầu về số người chết do bạo động trong
thế kỷ 21 đã xuống mức thấp hơn bao giờ cả, dưới một phần trăm số tử vong do tất
cả các nguyên nhân gây ra.
TƯƠNG LAI CỦA CHIẾN TRANH
Qua một
quãng thời gian lâu dài như quãng thời gian mà Morris nghiên cứu, người ta có
thể tìm ra bằng chứng gần như cho bất cứ một mô hình nào, nhưng mô hình mà
Morris đặt ở vị trí trung tâm trong sách của ông chắc chắn có ý nghĩa lịch sử.
Các nhà nước đầy quyền lực trên thực tế đã bảo vệ người dân của mình (đồng thời
cũng thường áp bức họ), và động cơ thúc đẩy sự thành hình những những nhà nước
này thường là chiến tranh. “Chiến tranh là cha đẻ của mọi thứ,” triết gia Hy Lạp
Heraclitus từng nhận xét, vì thế ta không nên ngạc nhiên khi một trong những đứa
con của nó là hòa bình.
Nhưng,
mô hình mà Morris tìm ra hình như chỉ phù hợp với quá khứ xa xưa chứ không đúng
với lịch sử cận đại, đừng nói chi đến tương lai. Trong thế kỷ 20, xu thế hướng
tới củng cố các quốc gia đã đi theo chiều ngược lại, với các đế quốc hiện đại
thay nhau tan rã và để lại đằng sau những đơn vị chính trị nhỏ bé hơn, nhưng đời
sống người dân ở đây không vì thế mà trở nên kinh tởm hơn, gần với thú tính
hơn, hay ngắn ngủi hơn. Thật vậy, trong một trăm năm qua, yếu tố chủ yếu quyết
định tỉ lệ bạo động của một quốc gia chính là khả năng chứ không phải là kích cỡ
của nó. Các nước Bắc Âu, chẳng phải là Leviathan chút nào, đã trở thành những
nơi an toàn nhất trên thế giới. Trên thực tế, các quốc gia dân tộc
[nation-state] nhỏ bé đã tỏ ra ít có nguy cơ bạo động hơn những đế quốc rộng lớn
đa dân tộc, nhờ ở chính nghĩa vĩ đại mà các đơn vị đồng chủng có được trước mắt
người dân của mình. Cứ lẽ thường, người dân muốn được cai trị bởi những nhà
lãnh đạo cùng một chủng tộc, một tôn giáo, hay một ngôn ngữ hơn bởi những kẻ mà
họ coi là người nước ngoài, và họ sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ hệ thống chính
trị mà họ ưa thích.
Ngoài
ra, vào thế kỷ 19, viên cảnh sát toàn cầu Anh gần như không làm gì cả để làm
cho đời sống ngoài biên giới đế quốc của mình trở nên an toàn hơn. Không mấy bận
tâm giữ gìn trật tự cho châu Âu – phần hành tinh sẽ là nơi phát sinh những cơn
bạo động gây tang thương trong thế kỷ 20 – người Anh giữ thái độ thiếu mặn mà ở
đây. Hòa bình và trật tự trên châu lục này dựa trên một cán cân quân bình lực
lượng giữa các quốc gia quan trọng, chứ không dựa trên các nỗ lực của Anh. Đúng
là, Vương quốc Anh có dùng sức mạnh hải quân của mình để tạo ra một khuôn khổ
an ninh cho một nền kinh tế càng ngày càng mang ý nghĩa toàn cầu. Trong chiều
hướng này, sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị của Anh đã đóng góp nhiều
cho việc nâng cao mức sống khắp thế giới, nhưng không giúp gì nhiều cho việc giảm
bớt các rủi ro tử vong do bạo động tại các khu vực nằm ngoài Đế quốc Anh.
Xin dẫn
thêm một áp dụng vụng về của mô hình Morris cho lịch sử cận đại: Thế chiến I và
Thế chiến II có vẻ hội đủ điều kiện để được gọi là “chiến tranh xây dựng” theo
cách Morris định nghĩa thuật ngữ này vì chúng dọn đường cho sự xuất hiện của
viên cảnh sát toàn cầu Mỹ [the American globocop]. Tuy nhiên, tổng số tử vong của
hai cuộc chiến này ở mức 100 triệu người có vẻ là một cái giá quá đắt phải trả
chỉ để thay thế một bá quyền này bằng một bá quyền khác.
Cuối
cùng, dù chiến tranh có mang lại bất cứ lợi ích dài hạn nào trong quá khứ, ngày
nay ngoài một vài nơi đang có xung đột và hỗn loạn, thật khó tưởng tượng ra việc
chiến tranh có thể hữu ích cho hòa bình trong tương lai. Tư duy của Hobbes và
mô hình chiến tranh xây dựng mà Morris tìm ra đúng là có ý nghĩa phần nào đối với
người dân tại Cộng hòa Dân chủ Congo, Iraq, và Syria, chẳng hạn, nhưng đối với
phần còn lại của thế giới chúng có vẻ gần như vô nghĩa. Thế giới vẫn có khả
năng trải qua tình trạng bạo động trên qui mô lớn. Những tiến bộ về công nghệ
quân sự trong thế kỷ qua đã ban cho các chính phủ cái khả năng đẩy các tỉ lệ tử
vong do bạo động lên cao nhanh chóng nếu họ quyết định sử dụng những vũ khí mạnh
nhất mà họ có trong tay.
Morris
cảm nhận mối đe dọa lớn nhất trong tương lai sẽ phát xuất từ một sự lặp lại những
biến cố của đầu thế kỷ 20, khi Đức thách đố Vương quốc Anh và đẩy thế giới vào
hai cuộc xung đột khủng khiếp. Ngày nay, với việc Mỹ chiếm vị trí mà Anh đã giữ
cách đây một trăm năm, chính Trung Quốc là cường quốc đặt ra mối đe dọa cho
viên cảnh sát đang ngự trị toàn cầu [the reigning globocop]. “Nếu 40 năm từ thập
niên 2010 đến thập niên 2050 diễn ra giống như 40 năm từ thập niên 1870 đến thập
niên 1910,” Morris viết, vẽ ra sự tương đồng giữa Vương quốc Anh lúc bấy giờ và
Mỹ hiện nay, “đó sẽ là những năm nguy hiểm nhất trong lịch sử.” Lý do là, nếu
Trung Quốc đặt ra một thách thức với Mỹ và đưa đến một cuộc chiến trên qui mô của
hai thế chiến được châm ngòi bởi các tham vọng của Đức, hai bên có thể sẽ sử dụng
vũ khí hạt nhân mà họ có trong tay. Việc này sẽ đảm bảo rằng, dù cho những người
sống sót có dùng bất cứ tính từ nào để chỉ một cuộc xung đột như thế, tính từ
“có hiệu quả” [productive] sẽ không nằm trong đó.
Đối với
Morris, niềm hi vọng tránh một thảm họa như thế trong thế kỷ 21 sẽ dựa vào công
nghệ. Ông gợi ý, khoa điện toán đặc biệt có thể tiến bộ nhanh chóng trong những
năm sắp tới đến nỗi làm biến thể loài người, đưa đến hậu quả là những sinh vật
“xuyên nhân loại” [transhuman]1 hay “hậu nhân loại” [posthuman]2
có thể có khả năng vượt lên trên bạo động. Ở đây Morris dựa vào ý kiến của một
số nhà tương lai học giàu tưởng tượng. Viễn kiến của họ nghe có vẻ khoa học giả
tưởng, và những tiên đoán của khoa học giả tưởng lắm khi tỏ ra là chính xác.
Tuy nhiên, lắm khi chúng không chính xác, và vì thế việc dựa vào sự thể hiện những
viễn kiến này để tránh Thế chiến III có vẻ là thiếu thận trọng.
Còn có
nhiều khả năng khác. Một trong những khả năng đó là, quan niệm về chiến tranh
đã thay đổi. Ngày xưa, chiến tranh được coi là một đặc điểm tất yếu của cõi người
ta [human existence], nhưng lề lối ứng xử cổ xưa này càng ngày càng bị coi là
không thể chấp nhận, là lỗi thời, và có thể tránh được. Sự tàn phá khủng khiếp
mà các vũ khí hiện đại có thể gây ra truyền đạt một mức độ thận trọng vào chính
sách đối ngoại mà trước đây, nếu có chăng, vẫn là rất hiếm thấy trước nửa thế kỷ
20.
Hơn nữa,
những cuộc đại chiến xảy ra vào nửa đầu của thế kỷ trước một phần không nhỏ đã
phát xuất từ ý thức hệ, một đặc điểm của đời sống xã hội-chính trị chưa từng thấy
trước Cách mạng Pháp và vì thế không nằm trong đại bộ phận lịch sử nhân loại mà
Morris bàn đến. Việc Đức theo đuổi các tư tưởng phát-xít và việc Liên Xô quyết
thực hiện các lý thuyết cộng sản đã biến thế giới này thành một nơi đầy máu lửa
hơn là nếu không có những ý thức hệ này. Ít ra, [Cộng hòa Liên bang] Đức đã trở
thành một đất nước hòa bình hơn nhiều sau Thế chiến II, cũng như một đế quốc
xâm lược đầu sỏ khác trong cuộc xung đột ấy, Nhật Bản, một phần cũng vì hai nước
này đã chấp nhận các tư tưởng chính trị và hệ thống chính trị của một trong những
cường quốc thắng trận, đó là Hoa Kỳ. Dân chủ giúp tạo dựng hòa bình. Trên thực
tế, xu thế tránh chiến tranh với nhau giữa các nước dân chủ hiện nay là rất
kiên định, và nó đưa ra triển vọng là các nước có thể ngăn ngừa một cuộc đại
chiến phản tác dụng trong tương lai. Nếu Trung Quốc sẽ trở thành một nước dân
chủ, thì triển vọng tránh lặp lại cuộc xung đột Anh-Đức, song lần này với các
kho vũ khí của thế kỷ 21, chắc chắc sẽ tốt đẹp hơn nhiều.
Không
có gì bảo đảm rằng thể chế dân chủ sẽ đến với Trung Quốc trong một tương lai gần,
hoặc trên thực tế việc này có thể sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng một Trung Quốc
dân chủ có vẻ có khả năng trở thành hiện thực hơn trước, và vì thế đây mới là một
cơ may tốt đẹp để gìn giữ hòa bình hơn là chờ đợi một sự chuyển hóa loài người
do máy tính thúc đẩy. Chắc chắn là, việc xây dựng và duy trì trật tự, an toàn,
và hoà bình thế giới thông qua sự bành trướng của thế chế dân chủ không phải là
một đề tài trong tác phẩm Leviathan. Mặc dù Hobbes là một nhà tư tưởng lớn,
ảnh hưởng lên nhiều thế hệ về sau, nhưng trong thời đại của chúng ta, có đủ thứ
chuyện chưa bao giờ được nghĩ tới trong triết lý của Hobbes.
M.
M.
Chú thích của người dịch:
1Chủ nghĩa xuyên nhân
loại (transhumanism) là một phong trào văn hóa và trí thức có mục đích nhiên hậu
là chuyển hóa thân phận con người bằng cách phát huy các công nghệ để gia tăng
vượt bậc các khả năng tri thức, thể chất và tâm lý của con người.
2Hậu nhân loại
(posthuman) là một ý niệm xuất phát từ khoa học giả tưởng hoặc tương lai học
trong đó một người hoặc một thực thể đã vượt lên trên tình trạng làm người.
Dịch giả
gửi BVN.
No comments:
Post a Comment