Saturday, November 5, 2011

BẾ MẠC HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN BA VỀ BIỂN ĐÔNG (PLTP, NCBĐ)



HOÀNG THƯ (PLTP)
06/11/2011 - 00:18

Nhưng khi các câu hỏi đi vào cụ thể, nhìn chung học giả Trung Quốc đều tránh né trả lời. Tín hiệu tích cực tại hội thảo này là các nước đều tỏ ý ủng hộ Việt Nam trong những vụ việc như “sự cố cắt cáp”.

Chiều 5-11, hai ngày hội thảo khoa học quốc tế “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực” đã kết thúc tại Hà Nội và được đông đảo đại biểu đánh giá là quy mô, hoành tráng, thành công nhất trong ba lần tổ chức từ trước tới nay.

Có những lúc rất nóng bỏng

Tổng kết hội thảo, ông Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao (đơn vị đồng tổ chức), nhận xét: “Hội thảo thành công ở ba khía cạnh: Số lượng đại biểu đông hơn năm ngoái với thành phần tham dự đa dạng hơn, nội dung thảo luận thiết thực hơn và thời gian thảo luận dài hơn”. So với hai lần trước, sự kiện lần này dành tới một phần tư thời gian cho việc trao đổi ý kiến, tranh luận, có những lúc không khí khá “nóng”, nhất là ở những nội dung liên quan trực tiếp tới Trung Quốc và Việt Nam. Mặc dù vậy, theo ông Quý, nguyên tắc chung là thẳng thắn, khách quan và khoa học đã được đảm bảo thực hiện và “không khí nóng bỏng đó cũng chứng tỏ sự phát triển về mặt nhận thức của những người nghiên cứu về biển Đông”.

Ông Đặng Đình Quý nói: “Đa số chúng ta nhất trí với những đánh giá về tầm quan trọng của biển Đông và của việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển ở biển Đông. Các nước liên quan đến tranh chấp có những lý lẽ và lợi ích khác nhau nhưng đều thống nhất như vậy và cơ sở để giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực là công pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Cũng có những ý kiến khác nhau về việc nên áp dụng UNCLOS 1982 như thế nào, làm thế nào để công pháp quốc tế trở thành một thứ công cụ hữu hiệu hơn…, ban tổ chức cho rằng đó là các chủ đề ngỏ cho những lần hội thảo tiếp theo”.

Lý lẽ của Trung Quốc yếu toàn phần

Tham dự hội thảo, đoàn học giả Trung Quốc có những nhân vật “đình đám” trong giới nghiên cứu về biển Đông như GS Tô Hạo (Su Hao), TS Nhậm Viễn Giả (Ren Yuan-zhe), Lý Kiến Vĩ, Đằng Kiến Quần… Phát biểu tại hội thảo, các học giả Trung Quốc đều khẳng định rằng Trung Quốc có chủ quyền lịch sử đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và cả vùng biển rộng lớn được bao quanh bởi đường chín đoạn chữ U (đường lưỡi bò). Lập luận chung là nhấn mạnh yếu tố “lịch sử”, như một học giả nói rằng bản đồ hình chữ U đã có từ năm 1947 và chính một người bạn của bà đã đem bản đồ này từ Mỹ về cho bà.

Theo một học giả Việt Nam tham dự hội thảo thì lâu nay Trung Quốc “vẫn luôn nói chung chung như vậy, không đưa ra thêm được bằng chứng gì mới”. Nhà nghiên cứu Rodolfo C. Severino, nguyên Tổng Thư ký ASEAN, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ASEAN ở Singapore, cũng nói: “Bất chấp những câu hỏi mà các nước ASEAN đặt ra, bao gồm cả những nước tuyên bố chủ quyền và không tuyên bố chủ quyền, Bắc Kinh luôn từ chối cho biết chính xác đường chín đoạn có ý nghĩa gì. Liệu nó có nghĩa rằng Trung Quốc/Đài Loan tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các vùng biển nằm trong đường chín đoạn, hay chỉ đối với các điểm đảo nằm trong nó và các vùng biển tạo ra bởi các điểm đó một cách hợp pháp? Cả Trung Quốc và Đài Loan đều không trả lời được các câu hỏi trên”.

Một học giả khác, thành viên Hội Luật gia Việt Nam, trao đổi bên lề với Pháp Luật TP.HCM rằng nhìn chung các lý lẽ của phía đoàn Trung Quốc đưa ra yếu toàn phần cả về các nội dung liên quan đến chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa lẫn đường lưỡi bò hay gần đây nhất là vụ tàu Trung Quốc cắt cáp của Petro Vietnam trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Khi các câu hỏi đi vào cụ thể, nhìn chung học giả Trung Quốc đều tránh né trả lời. Ông cũng nhận xét tín hiệu tích cực tại hội thảo này là các nước đều tỏ ý ủng hộ Việt Nam trong những vụ việc như “sự cố cắt cáp”.

Mặc dù vậy, để các lần hội thảo sau có kết quả thiết thực hơn nữa thì sau lần hội thảo này, giới nghiên cứu Việt Nam có thể cần tính tới khả năng đề xuất kiến nghị, tham mưu cho lãnh đạo mạnh mẽ hơn.

HOÀNG THƯ

------------------------

Thứ bảy, 05 Tháng 11 2011 14:37 nguyen viet

Chiều 05/11/2011, tại Hà Nội, sau hai ngày họp và thảo luận sôi nổi, Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ ba về Biển Đông với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực” đã thành công tốt đẹp.


Thông cáo báo chí

Hội thảo Khoa học quốc tế lần thứ III:
“BIỂN ĐÔNG: HỢP TÁC VÌ AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHU VỰC”

Hà Nội, ngày 5/11/2011
---
Chiều 05/11/2011, tại Hà Nội, sau hai ngày họp và thảo luận sôi nổi, Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ ba về Biển Đông với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực” đã thành công tốt đẹp.
Qua 8 phiên với 31 tham luận và hơn 70 ý kiến thảo luận, gần 200 đại biểu trong nước và quốc tế đã trao đổi về các chủ đề liên quan đến tầm quan trọng của biển Đông trên thế giới và trong khu vực, lợi ích của các bên liên quan, những diễn biến gần đây ở biển Đông, các khía cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp và nỗ lực của các bên liên quan nhằm giải quyết tranh chấp và quản lý xung đột, cũng như những phương cách và biện pháp thúc đẩy hợp tác ở biển Đông. Đặc biệt, năm nay Hội thảo còn dành hẳn một phiên cuối để thảo luận tự do về một số vấn đề mà các học giả và đại biểu cùng quan tâm.

Về tầm quan trọng của Biển Đông, các học giả cho rằng với các giá trị kinh tế tiềm năng, với các tuyến thương mại hàng hải quan trọng, vùng biển này có ý nghĩa rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế không chỉ của các nước xung quanh biển Đông, mà còn quan trọng với cả các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới. Một môi trường hòa bình, ổn định tại biển Đông có tác dụng tích cực đối với việc mở rộng giao lưu về văn hóa, xã hội, thúc đẩy liên kết thương mại, kinh tế và chính trị giữa các nước trong và ngoài khu vực. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, giữ gìn an ninh biển, bảo đảm tự do lưu thông hàng hải trên biển Đông góp phần không nhỏ trong việc xây dựng an ninh châu Á - Thái Bình Dương và rộng hơn là trên toàn thế giới. Ngoài ra, hợp tác với các quốc gia ngoài khu vực như Mỹ, Nga, Ấn Độ…có thể giữ vai trò tích cực trong việc bảo đảm an ninh năng lượng trong khu vực, phù hợp với nhu cầu phát triển cấp thiết của các nước ASEAN.

Về tình hình Biển Đông thời gian gần đây, các đại biểu và học giả đều có chung nhận định rằng vấn đề biển Đông đang phát triển theo chiều hướng phức tạp hơn, do các bên liên quan chưa thực sự tìm được tiếng nói chung trong cách thức giải quyết những bất đồng. Việc các nước tham gia tranh chấp tăng cường mua sắm trang thiết bị quân sự, đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội cũng là một trong những nguyên nhân khiến căng thẳng trên vùng biển này leo thang. Nhiều ý kiến cho rằng, các hành vi đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và các quy tắc ứng xử được công nhận rộng rãi ở khu vực và quốc tế là không có lợi cho từng bên liên quan đến tranh chấp nói riêng và tiến trình giải quyết vấn đề biển Đông nói chung.

Về khía cạnh pháp lý quốc tế, các đại biểu nhấn mạnh vai trò của Công ước Luật biển Liên hợp quốc 1982 (UNCLOS) trong việc kiềm chế và quản lý các mối đe dọa đối với an ninh, an toàn hàng hải trên biển Đông, cụ thể là UNCLOS có thể được áp dụng nhằm làm sáng tỏ yêu sách chủ quyền của các bên tranh chấp, từ đó hạn chế việc chiếm giữ và xây dựng các công trình nhân tạo trên một số bãi chìm, nửa nổi nửa chìm. Ngoài ra, việc áp dụng đúng đắn các quy định của UNCLOS sẽ tạo cơ sở hợp pháp cho yêu sách vùng biển của các bên. Các yêu sách về vùng biển dựa trên cơ sở lịch sử là không phù hợp với quy định của UNCLOS. Việc giải thích và áp dụng đúng đắn UNCLOS sẽ giúp kiềm chế và kiểm soát các mối đe dọa đối với an ninh hàng hải trong Biển Đông. UNCLOS cần phải được các bên liên quan đến tranh chấp coi là công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của mình; là cơ sở quan trọng nhất của các cuộc thảo luận và do đó, các bên cần tuân thủ nghiêm chỉnh UCLOS trong các hành vi đối nội và đối ngoại liên quan đến Biển Đông.

Các học giả cũng thảo luận về nỗ lực của các nước liên quan trực tiếp và của khối ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp và quản lý xung đột trên biển Đông. Một số ý kiến cho rằng để thực hiện được khai thác chung thì trước hết cần phải làm rõ vùng nào có thể khai thác chung. Một số học giả khác lại đề cập đến vai trò của Tòa trọng tài hoặc ý kiến tư vấn của Tòa án quốc tế về Luật biển trong xử lý các vấn đề pháp lý cụ thể liên quan đến biển Đông, như xem xét các yêu sách hay các hành động đơn phương của bất cứ bên yêu sách nào có phù hợp với UNCLOS và với luật biển quốc tế hay không. Nhiều ý kiến cho rằng, cần thúc đẩy vai trò lớn hơn của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp ở biển Đông.

Dựa trên kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp biển của nhiều nước trên thế giới, các đại biểu và học giả đã đề xuất một số biện pháp thúc đẩy hợp tác ở biển Đông, trong đó đáng chú ý là các sáng kiến về xây dựng một cơ chế quản lý nghề cá ở cấp khu vực và kiểm soát ô nhiễm biển thực sự hiệu quả, thiết lập một mạng lưới các khu bảo tồn biển song phương hoặc đa phương như một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương hiện nay... Các học giả cũng nhất trí rằng để giải quyết các tranh chấp ở biển Đông một cách hòa bình, trong thời gian tới các bên liên quan cần kiên trì đàm phán, tăng cường đối thoại trên tinh thần hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế, kiềm chế các hành động bạo lực, cũng như cần minh bạch hóa các yêu sách chủ quyền về biển đảo. Việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử (COC) ở biển Đông sẽ giúp xây dựng lòng tin giữa các nước yêu sách để tạo môi trường hòa bình, ổn định, và khuyến khích các bên hợp tác quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên ở biển Đông một cách hòa bình.

Hội thảo diễn ra trong không khí cởi mở, thẳng thắn và thực chất; nội dung thảo luận có nhiều điểm mới, thú vị và là một nỗ lực nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế liên quan tới vấn đề biển Đông./.

-------------------

 Nghiên Cứu Biển Đông   [02/11/2011 00:00]  

No comments: