Thức ăn ảnh hưởng đến tâm trí cũng như cơ thể như thế nào
Cù Tuấn biên dịch
.
Tóm tắt: Hóa ra bạn là những gì bạn ăn.
Một con gà tây nướng bóng mỡ. Những khoanh khoai tây nướng vàng và củ cải
vàng. Thịt lợn quấn (bởi vì bữa ăn nào có thịt mà không được cải thiện bằng một
miếng xúc xích bọc trong thịt xông khói?). Bắp cải Brussels. Sốt bánh mì. Nước
sốt việt quất. Nước sốt cá. Và để kết thúc bữa ăn là bánh pudding có trộn rượu
mạnh phủ bơ.
Các quốc gia có truyền thống ăn uống Giáng sinh khác nhau. Người Ba Lan
thích cá, thường là cá chép. Julbord của Thụy Điển có rất nhiều loại, mặc dù cá
trích sẽ là gần như luôn phải có mặt. Nhưng bữa ăn được phục vụ tại hầu hết các
bàn ăn ở Anh vào ngày 25 tháng 12 đã mang tính biểu tượng và đã có từ thời
Victoria (đôi khi có ngỗng thay thế cho gà tây).
Một bữa ăn ngon có tác động tích cực đến tâm trạng của chúng ta. Một phần
của niềm vui đó xảy ra ngay lập tức. Những người ăn uống vừa phải và ít tranh
cãi trong gia đình sẽ có lượng đường trong máu tăng sau bữa ăn. Điều đó sẽ tạo
ra một lượng lớn endorphin – chất hóa học hoạt động như hormone hạnh phúc – chạy
qua não của họ.
Nhưng khoái lạc trong khi ăn có căn cơ sâu hơn thế. Protein động vật, chẳng
hạn như thịt gà nướng, dăm bông hoặc cá, chứa tất cả các axit amin mà cơ thể cần,
trong đó có nhiều axit amin mà cơ thể không thể tự tạo ra được. Tyrosine và
tryptophan là cần thiết để cơ thể sản xuất dopamine, một chất dẫn truyền thần
kinh kiểm soát cảm giác vui vẻ và tạo cơ chế phần thưởng trong não, và
serotonin, một chất khác giúp điều chỉnh tâm trạng. Cải Brussels có chứa
folate, một loại vitamin mà nếu không có thì não không thể hoạt động bình thường.
Và quả nam việt quất có hàm lượng vitamin C cao, có liên quan đến việc chuyển đổi
dopamine thành noradrenaline, một chất dẫn truyền thần kinh khác và việc thiếu
chất này dường như có liên quan đến trầm cảm.
Với tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ngày càng gia tăng, ngày càng
nhiều nhà khoa học đang nghiên cứu xem thực phẩm hoặc chất bổ sung dinh dưỡng ảnh
hưởng đến tâm trí như thế nào. Bộ não, là cơ quan phức tạp và đòi hỏi nhiều
năng lượng nhất trong cơ thể, gần như chắc chắn có nhu cầu dinh dưỡng chuyên biệt
riêng. Vậy thì chào mừng bạn đến với lĩnh vực tâm thần học dinh dưỡng đang mới
nổi lên.
Bộ não người trưởng thành chỉ chiếm khoảng 2% khối lượng cơ thể, nhưng sử
dụng đến 20% năng lượng trao đổi chất. Một loạt các vitamin và khoáng chất là cần
thiết để duy trì nó. Ngay cả trong một phần nhỏ của quá trình trao đổi chất của
não cũng cần có nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu. Việc chuyển đổi tryptophan
thành serotonin rất cần vitamin B6, sắt, phốt pho và canxi.
Việc phân biệt nhu cầu dinh dưỡng của não với nhu cầu dinh dưỡng của phần
còn lại của cơ thể là một điều khó khăn. Mức cung cấp dinh dưỡng hàng ngày được
đề xuất (recommended daily allowances - rdas) không giúp ích được gì nhiều.
Chúng được lập thành công thức trong Thế chiến thứ hai trên cơ sở các chất dinh
dưỡng cần thiết cho sức khỏe thể chất của quân đội. Không có những định lượng mức
cung cấp như vậy tồn tại trong việc nghiên cứu về não. Ít nhất là chưa.
So với các lĩnh vực khác, khoa học dinh dưỡng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Điều đó một phần là do khó làm tốt. Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng
(randomised controlled trials - rcts), được sử dụng để thử nghiệm thuốc, vốn dĩ
rất phức tạp. Rất ít người muốn tuân theo chế độ ăn kiêng thử nghiệm trong nhiều
năm. Thay vào đó, hầu hết khoa học dinh dưỡng đều dựa trên các nghiên cứu quan
sát nhằm cố gắng thiết lập mối liên hệ giữa các loại thực phẩm hoặc chất dinh
dưỡng cụ thể và bệnh tật tương ứng. Chúng không thể được sử dụng để chứng minh
dứt khoát mối liên hệ nhân quả giữa một căn bệnh và một yếu tố góp phần cụ thể
trong chế độ ăn uống. Nhưng cũng giống như việc hút thuốc và ung thư phổi, việc
tập hợp đủ các loại thử nghiệm này và những câu chuyện về nguyên nhân và hậu quả
bắt đầu xuất hiện.
Hiện nay rõ ràng là một số chế độ ăn kiêng đặc biệt tốt cho não. Một
nghiên cứu gần đây kết luận rằng việc tuân thủ “chế độ ăn Địa Trung Hải”, gồm
nhiều rau, trái cây, đậu và ngũ cốc nguyên hạt, ít thịt đỏ, thịt chế biến sẵn
và chất béo bão hòa sẽ làm giảm nguy cơ bị đột quỵ, suy giảm nhận thức và trầm
cảm. Một nghiên cứu khác gần đây xem xét chế độ ăn Địa Trung Hải “xanh” có nhiều
polyphenol (chất chống oxy hóa có trong những thứ như trà xanh) cho thấy nó làm
giảm chứng teo não do tuổi tác. Một phiên bản khác, chế độ ăn kiêng hỗ trợ trí
óc, nhấn mạnh việc ăn quả mọng thay vì các loại trái cây khác và dường như làm
giảm nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ.
Các nhà khoa học cho rằng chế độ ăn kiêng như vậy có thể có tác dụng bằng
cách giảm tình trạng viêm trong não. Ngược lại, điều này có thể ảnh hưởng đến
các khu vực như vùng hồi hải mã, nơi liên quan đến khả năng học tập, trí nhớ và
điều chỉnh tâm trạng — và nơi các tế bào thần kinh mới phát triển ở người trưởng
thành. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy rằng khi chúng ta ăn một chế độ ăn
giàu axit béo omega-3 (ví dụ từ quả óc chó), flavonoid (được tiêu thụ chủ yếu
qua trà và rượu vang), chất chống oxy hóa (có trong quả mọng) và resveratrol
(có trong nho đỏ), sự phát triển của tế bào thần kinh được kích thích và quá
trình viêm nhiễm giảm đi. Điều này phù hợp với nghiên cứu cho thấy rằng những
người thường xuyên ăn thực phẩm chế biến sẵn, chiên và nhiều đường, sẽ làm tăng
tình trạng viêm trong não, và làm tăng nguy cơ phát triển trầm cảm.
1. Cuộc chơi của thực
phẩm bổ sung
Bữa tiệc Giáng sinh đó thường được coi là một bữa tiệc hoành tráng. Trên
thực tế, với nhiều loại rau, mật độ dinh dưỡng của nó có thể khiến nó trở thành
một trong những bữa ăn lành mạnh mà một số người từng ăn trong suốt cả năm. Chỉ
10% người trưởng thành ở Mỹ tiêu thụ lượng rau được khuyến nghị hàng ngày và chỉ
12% số người ăn đủ trái cây. Đó là một câu chuyện tương tự ở nhiều nơi trên thế
giới. Do đó, nhiều người chuyển sang bổ sung vitamin và khoáng chất để bù đắp
cho sự thiếu hụt trong chế độ ăn uống của họ.
Năm 2018, 54% người Bắc Mỹ và 43% người châu Á đang dùng thực phẩm bổ
sung dinh dưỡng. Các loại phổ biến nhất là vitamin tổng hợp, vitamin D và axit
béo omega-3. Mỹ chi tiêu nhiều nhất cho thực phẩm bổ sung, tiếp theo là Tây Âu
và Nhật Bản. Một ước tính đưa ra thị trường toàn cầu này đạt 152 tỷ USD vào năm
2021, với mức tăng trưởng hàng năm dự kiến là 9% cho đến năm 2030. Nhưng ở nhiều
nơi, quy định đối với ngành công nghiệp thực phẩm bổ sung là rất yếu hoặc không
tồn tại và rất ít nghiên cứu nghiêm ngặt được thực hiện về lợi ích hoặc rủi ro
của chúng.
Câu chuyện về chất bổ sung dinh dưỡng bắt đầu vào năm 1912 khi Casimir
Funk, một nhà nghiên cứu hóa sinh người Mỹ gốc Ba Lan, đề xuất rằng cần phải có
các chất hữu cơ chưa xác định với số lượng rất nhỏ để duy trì sức khỏe con người.
Đó là một ý tưởng mang tính cách mạng. Và ông ấy đã nói đúng. Cùng với các chất
dinh dưỡng đa lượng như protein và carbohydrate, còn có những thành phần thực
phẩm chưa được khám phá – vi chất dinh dưỡng. Vitamin đầu tiên được phân lập và
tổng hợp vào năm 1936 là thiamine hoặc B1. Thiếu hụt vitamin này sẽ gây ra bệnh
beriberi, một căn bệnh có thể ảnh hưởng đến cả hệ tim mạch và hệ thần kinh
trung ương. Phát hiện này đã thúc đẩy một cuộc chạy đua phân lập, xác định đặc
tính và sản xuất vitamin và cuối cùng đã khởi động ngành công nghiệp thực phẩm
bổ sung.
Nửa thế kỷ sau phát hiện của Funk, quan điểm cho rằng chất dinh dưỡng có
thể điều trị các bệnh tâm thần đã được khẳng định. Abram Hoffer, một bác sĩ tâm
thần người Canada, đã thử điều trị bệnh tâm thần phân liệt bằng vitamin B3 liều
cao. Sau đó, vào năm 1968 Linus Pauling, một nhà hóa học đoạt giải Nobel, đã đặt
ra thuật ngữ “Orthomolecular Psychiatry" (tâm thần học theo dinh dưỡng vi
lượng) để mô tả lý thuyết cho rằng việc thay đổi nồng độ các chất thường có
trong cơ thể có thể điều trị bệnh tâm thần. Nhưng có rất ít bằng chứng ủng hộ
tuyên bố của họ và vào năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ đã công bố một
báo cáo bác bỏ lý thuyết này, nhấn mạnh việc thiếu các thí nghiệm được kiểm
soát và kết luận rằng liều lượng lớn vitamin B3 là “vô dụng và không phải là
không nguy hiểm”.
Sự thiếu hụt của bất kỳ nghiên cứu nghiêm túc, quy mô lớn nào trong lĩnh
vực tâm thần học dinh dưỡng đã mở ra cơ hội cho những người mong muốn phát huy
tiềm năng của các chất bổ sung vượt xa bất kỳ ngành khoa học hiện có nào.
Autumn Stringam là một trường hợp như vậy. Sau khi đứa con đầu lòng chào đời
vào năm 1992, cô Stringam, người Canada, được đưa vào khu tâm thần với chứng rối
loạn tâm thần nặng sau sinh. Gia đình cô có tiền sử bệnh tâm thần, bao gồm rối
loạn lưỡng cực, rối loạn tâm thần, trầm cảm và tự tử. Tiên lượng của cô thật
nghiệt ngã. Nhưng sau đó, cha cô cùng với một người bạn làm việc trong ngành
kinh doanh thức ăn chăn nuôi đã phát triển một loại thực phẩm bổ sung có chứa
nhiều loại vitamin và khoáng chất mà họ tuyên bố là dựa trên những chất bổ sung
giúp giảm lo lắng và căng thẳng ở lợn. Cô Stringam ghi nhận những chất bổ sung
đã giúp cô hồi phục. Câu chuyện của cô lan truyền và gia đình cô bắt đầu bán
các thực phẩm bổ sung này trên quy mô lớn.
Tuy nhiên, không có thử nghiệm nào chứng minh tính hiệu quả hoặc an toàn
của chúng. Ý kiến cho rằng các chất bổ sung là một phương thuốc chữa bách bệnh
đã khiến một bệnh nhân tâm thần phân liệt phải từ bỏ loại thuốc được kê đơn của
mình. Sau đó, anh ta đã sát hại cha mình và làm mẹ mình bị thương nặng. Năm
2003, cơ quan quản lý dược phẩm Canada lo ngại về việc sử dụng các chất bổ sung
chưa được kiểm nghiệm để điều trị các chứng rối loạn sức khỏe tâm thần nghiêm
trọng nên đã tịch thu số thuốc này. Tình tiết này đã củng cố ý tưởng trong tâm
trí nhiều người rằng việc sử dụng vi chất dinh dưỡng để điều trị các tình trạng
sức khỏe tâm thần hoàn toàn là trò lừa đảo.
Tuy nhiên, ngày nay nhiều khoa học ủng hộ quan điểm cho rằng có mối liên
hệ chặt chẽ giữa những gì con người ăn và sức khỏe tâm thần của họ. Các nghiên
cứu đã chỉ ra rằng sự thiếu hụt vitamin B12 gây ra trầm cảm, trí nhớ kém và có
liên quan đến chứng hưng cảm và rối loạn tâm thần. Hàm lượng vitamin D thấp có
liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ và đột quỵ, đồng thời có
liên quan đến rối loạn phát triển thần kinh. Một thử nghiệm lâm sàng gần đây
cho thấy liều cao vitamin B6—100 mg mỗi ngày thay vì mức khuyến nghị 1,3 mg—làm
giảm lo lắng. Trong một nghiên cứu của Robert Przybelski thuộc Đại học
Wisconsin với các bệnh nhân lão khoa đến khám tại một phòng khám trí nhớ, 40% bị
thiếu một loại vitamin (trong số 5 loại được tìm kiếm) và 20% thiếu 2 loại.
2. Tại sao không tự bổ
sung các chất có vitamin?
Vậy tại sao chúng ta không tự bổ sung một ít vitamin thay vì phải thực hiện
một chế độ ăn kiêng phức tạp và có lẽ là đắt tiền? Một phần vì bạn hiếm khi biết
chính xác những gì bạn đang nhận được. Ted Dinan, giáo sư tâm thần học tại Đại
học College, Cork mô tả ngành công nghiệp thực phẩm bổ sung là “Miền Tây hoang
dã”. Không giống như các loại thuốc được quản lý chặt chẽ, các chất bổ sung có
thể chứa nhiều hơn hoặc ít hơn những gì con người yêu cầu. Quá nhiều vitamin A
có thể gây hại cho thai kỳ. Có nhiều rủi ro về sức khoẻ khi dùng beta carotene
và vitamin E. Liều cao của một chất dinh dưỡng này có thể cản trở sự hấp thụ của
các chất vi lượng khác.
Mọi thử nghiệm về việc sử dụng vi chất dinh dưỡng đối với những người có
vấn đề về sức khỏe tâm thần ở Canada đều bị đình trệ sau vụ việc với cô
Stringam. Tuy nhiên, một số vẫn tò mò. Julia Rucklidge, một nhà tâm lý học lâm
sàng tại Đại học Canterbury ở New Zealand, đã được một đồng nghiệp người Canada
tiếp cận vào năm 2003 để xem liệu cô ấy có quan tâm đến việc thực hiện những thử
nghiệm như vậy hay không. Cô ấy tỏ ra hoài nghi: “Tôi đã được dạy rằng dinh dưỡng
hoàn toàn không liên quan đến sức khỏe não bộ.” Rucklidge nhớ lại, vào thời điểm
đó, cô đang đắm chìm trong những dữ liệu tích cực cho thấy hiệu quả của Prozac,
một loại thuốc chống trầm cảm và các chất kích thích như methylphenidate đối với
chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (attention-deficit hyperactivity disorder -
adhd). Cô giải thích rằng cô rất vui mừng khi có được những loại thuốc mới này
như một công cụ để điều trị các vấn đề về sức khỏe tâm thần.
Sau đó cô buộc phải đặt câu hỏi về những quan điểm đó. Cô đã điều trị cho
một đứa trẻ mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế trong một năm nhưng không thành
công. Gia đình của trẻ này không muốn dùng thuốc. Một ngày nọ, khi họ rời đi,
cô nhớ ra mình có một hộp thuốc bổ sung dưới bàn để dùng thử mà cô đang lên kế
hoạch. Cô đưa chúng cho các bậc cha mẹ với lời cảnh báo rằng cô không biết liệu
chúng có hiệu quả hay không. Hai tuần sau họ quay lại và nói rằng nỗi ám ảnh của
đứa trẻ đã biến mất.
Tiến sĩ Rucklidge nghi ngờ rằng bất kỳ sự cải thiện nào là do các chất bổ
sung nhưng điều đó đã thúc đẩy cô tiến hành nhiều thử nghiệm hơn. Một vài thập
kỷ trôi qua, cô đã chỉ ra rằng các chất bổ sung rất hữu ích ở trẻ mắc chứng
ADHD - đặc biệt là những trẻ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh cảm xúc của
mình. Thử nghiệm gần đây đã được nhân rộng ở Mỹ. Bằng chứng khác về hiệu quả của
dinh dưỡng bổ sung đang xuất hiện. Kết quả của một nghiên cứu lớn được công bố
vào tháng 9 cho thấy rằng uống vitamin tổng hợp hàng ngày có thể cải thiện nhận
thức ở những người trên 65 tuổi. Các nhà nghiên cứu đã theo dõi hơn 2.000 người
và ước tính rằng việc bổ sung trong ba năm đã giúp làm chậm quá trình suy giảm
nhận thức đến 60%.
Tâm thần học dinh dưỡng vi lượng vẫn đang còn ở giai đoạn sơ khai. Khi đã
rõ ràng hơn những vi chất dinh dưỡng nào ảnh hưởng đến não, giai đoạn tiếp theo
là xác định chúng tác động như thế nào. Một lĩnh vực nghiên cứu mới khác có thể
giúp giải quyết vấn đề đó.
Một trong những phát triển khoa học hấp dẫn nhất trong những năm gần đây
là việc phát hiện ra tầm quan trọng của vi sinh vật trong ruột với vai trò
trung gian giữa những gì đi vào miệng và những gì xảy ra trong não. Các nhà
nghiên cứu hiện biết rằng vi khuẩn hình thành một hệ sinh thái phức tạp trong
ruột – được gọi là hệ vi sinh vật. Những vi khuẩn này cần vi chất dinh dưỡng. Một
chế độ ăn thiếu chúng, chẳng hạn như chế độ ăn được nhiều người ở phương Tây
tiêu thụ, có thể dẫn đến mất cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột.
Điều này có thể ảnh hưởng đến cách mọi người suy nghĩ và cảm nhận không?
Ngày càng có nhiều bằng chứng về mối liên hệ giữa ruột và não trong cái được gọi
là psychobiome - một phần của microbiome - thực hiện chức năng đó. Các chất mà
vi khuẩn, vi rút và nấm khác nhau tạo ra có thể đi trực tiếp vào máu và xâm nhập
vào mạch máu, hoặc chúng có thể kích thích dây thần kinh phế vị nối ruột và
não. Vi khuẩn trong ruột sản xuất ra tryptophan, một loại axit amin được cho là
hoàn toàn có được từ chế độ ăn uống.
Các loại vi sinh vật được tìm thấy trong sữa chua nói riêng và thực phẩm
lên men nói chung cũng đã được các thử nghiệm chứng minh là có tác dụng làm giảm
lo lắng. Điều đáng kinh ngạc nhất đối với Tiến sĩ Dinan phát hiện ra rằng khả
năng đối phó với căng thẳng của một người có thể bị thay đổi chỉ do một chủng
vi khuẩn. Các nghiên cứu cho thấy hai loài Bifidobacteria và một loài
Lactobacillus đều làm giảm căng thẳng. Trong một thử nghiệm trên chuột không có
mầm bệnh, phản ứng căng thẳng bất thường đã bị đảo ngược khi chúng được cho uống
Bifidobacterium infantis. Những phát hiện này đã làm nảy sinh khái niệm về “
thuốc tâm thần ” - loại vi khuẩn mà khi ăn vào có thể có tác dụng tương tự như
thuốc chống trầm cảm hoặc thuốc chống lo âu.
Khó khăn trong việc phát triển lĩnh vực nghiên cứu mới này nằm ở vấn đề
kinh tế. Không giống như thuốc, vitamin, khoáng chất và vi khuẩn không được cấp
bằng sáng chế. Các công ty dược phẩm không thu được lợi ích gì về mặt thương mại
từ việc thực hiện thử nghiệm các loại thuốc mà bất cứ ai cũng có thể sao chép.
Rất khó để tin tưởng vào các nghiên cứu do các ngành tài trợ vì chúng thiên về
những phát hiện có lợi cho các tổ chức tài trợ. Chính phủ, các trường đại học
và hệ thống y tế có điều kiện tốt hơn để thực hiện những thử nghiệm kiểu như vậy.
Không cách nào trong số này sẽ thay thế được nhu cầu về một chế độ ăn uống tốt.
Nhưng các nghiên cứu này sẽ là những khởi đầu hoàn hảo cho trí não của chúng
ta.
HÌNH : https://www.facebook.com/photo?fbid=7294060697299214&set=a.124320747606614
.
Bài gốc :
https://www.economist.com/.../how-food-affects-the-mind...
ECONOMIST.COM
How food affects the mind, as well as the body
How food affects the mind, as well as
the body
No comments:
Post a Comment