Phùng
Khánh - Phùng Thăng, những dịch giả một thời
Đinh
Yên Thảo
22/01/2024
https://www.voatiengviet.com/a/phung-khanh-phung-thang-nhung-dich-gia-mot-thoi/7450103.html
Hai
chị em, hai nữ lưu xuất chúng, không dễ xuất hiện được mấy phụ nữ trong cả một
thế hệ, đã mang tài trí phụng vụ đạo pháp và trí tuệ cho hàng triệu người Việt
Nam.
https://gdb.voanews.com/01000000-c0a8-0242-bbad-08dc1b658b9b_cx0_cy7_cw0_w650_r1_s.jpg
Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải. (Phathocdoisong.com)
Lời tác giả: Sau sự ra đi của thầy Tuệ Sỹ, tôi dành
thời gian tìm đọc lại một số tác phẩm của vài bậc cao tăng và giáo sư tại viện
đại học Vạn Hạnh, nơi tập trung những trí thức lỗi lạc của miền Nam trước năm
1975, từ các bậc tu sĩ, giáo sư cho đến những sinh viên từng thụ huấn. Trong số
các vị này là hai chị em dịch giả Phùng Khánh và Phùng Thăng với một vài dịch
phẩm mà tôi đã từng đọc qua trước đây nhưng chưa biết nhiều về thân thế. Vậy là
cất công quay ngược lại thời gian để tìm hiểu thêm về hai nữ lưu trí thức và
tài ba này. Vài chi tiết tham khảo trong bài viết này được sử dụng từ ấn bản
đặc biệt về Phùng Thăng trên Thư Quán Bản Thảo (số 59, tháng 3-2014) do nhà văn
Trần Hoài Thư chủ trương cùng một số trang Phật học khác nhau (ĐYT).
***
Trong dịch phẩm "Kẻ lạ ở thiên đường"
(nguyên tác Attente de Dieu hay Waiting for God) của nữ triết gia người Pháp
gốc Do Thái Simone Wiel, dịch giả nhận xét trong lời giới thiệu rằng,
""Kẻ lạ ở thiên đường" được chọn làm tên chung cho bản dịch sáu
bức thư gởi cho linh mục Perrin và năm bài trần thuyết về năm đề tài tôn giáo.
Qua toàn thể văn phẩm, tâm hồn Simone Weil vẫn là một tâm hồn quằn quại cô đơn
nhưng rất sáng suốt trong công cuộc đi tìm một Quê Hương tâm linh đích thực cho
mình. Chính sự sáng suốt ấy đã đưa Simone Weil đến chỗ khước từ thiên đường hữu
hạn để chọn hỏa ngục vô biên vì quá xót thương và muốn chia sớt những lầm than
của trần thế. Trong nguyện ước của nàng, như có vọng âm những lời phát nguyện
của các vị bồ tát Phật giáo từ muôn nghìn thế kỷ. Trên thiên đường hữu hạn ấy,
nếu được chọn, Simone Weil sẽ vẫn mãi mãi là một kẻ xa lạ lạc loài, vì nàng
không ước muốn. Nàng chỉ ước muốn Thiên Đường chính thực, Quê Hương tâm linh
bình đẳng cho tất cả Loài Người.".
Đọc lời giới thiệu trên, có thể hiểu đó là sự thấu
cảm của dịch giả về tác phẩm và tác giả mà cũng có thể, văn phong và tư tưởng
đó xuất phát từ chính dịch giả, một nữ lưu rất trẻ, chỉ quá giữa tuổi đôi mươi
mà tài năng và sự suy tưởng đã uyên sâu và đầy hạnh nguyện để cảm nhận và giới
thiệu về một tác phẩm mang đầy tính tôn giáo và triết học như vậy.
Nữ dịch giả đó là Phùng Thăng, em ruột của Phùng
Khánh, tức Ni trưởng Thích nữ Trí Hải, một vị danh ni thông tuệ của Phật giáo
Việt Nam trong nhóm đại học Vạn Hạnh và cũng là một dịch giả riêng hay chung
với em gái trong một vài tác phẩm vang tiếng một thời, có thể kể như Câu chuyện
dòng sông, Bắt trẻ đồng xanh, Sói đồng hoang, Ngư ông và biển cả, Câu chuyện
triết học...
Ni sư Thích nữ Trí Hải, Pháp danh Tâm Hỷ và thế danh
Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh sinh năm 1938 tại làng Vỹ Dạ và em gái Công Tằng
Tôn Nữ Phùng Thăng sinh năm 1943 trong một gia đình dòng dõi hoàng tộc thâm tín
Phật giáo tại Huế. Cả hai bà được kể lại là có tư chất thông tuệ và phẩm cách
thanh cao, có ý hướng phát nguyện và dấn thân vào Phật giáo từ rất trẻ.
Ngay thời còn đi học, cả hai bà đã am hiểu triết học
Đông phương sâu sắc, giỏi tiếng Anh và tiếng Đức. Nói thêm là, tiếng Đức vốn
được xem là ngôn ngữ của triết học và có nhiều triết gia hậu cổ điển lừng danh
như Kant, Hegel, Marx, Nietzsche, Heidegger..., tất nhiên cả văn hào Hermann
Hesse nên có một giới trí thức rành tiếng Đức để đọc hay Việt dịch các tác phẩm
tiếng Đức. Riêng bà Phùng Khánh còn thông thạo cả tiếng Hán lẫn tiếng Pháp, khi
đọc lại lời giới thiệu cuốn sách Nhập Bồ Tát Hạnh, được Ni sư Trí Hải cho biết
bà đã dịch từ Hán ngữ và tham khảo thêm từ cả hai ấn bản tiếng Pháp và tiếng
Anh.
Cách nhau năm tuổi, hai bà cùng tốt nghiệp Viện đại
học Huế với Phùng Khánh lấy cử nhân Anh văn và Phùng Thăng là cử nhân Triết. Ra
trường, hai bà trở thành giáo sư tại các trung học nổi tiếng tại Quảng Nam.
Phùng Khánh dạy tại trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng và Phùng Thăng dạy tại
trường Trần Quý Cáp, Hội An.
Năm 1960, Phùng Khánh sang Mỹ du học. Sau khi tốt
nghiệp Cao học ngành thư viện và văn chương tại Princeton, bà tiếp tục làm luận
án tiến sĩ nhưng bỏ dỡ để về nước lo Phật sự đang rất cần hiền tài lúc bấy giờ.
Hạnh nguyện thọ giới Sa di từ trẻ chưa đạt nên năm 1964 bà quyết dứt bỏ thế
tục, xuống tóc quy y, được Giáo hội cử làm thư ký cho Thượng Tọa Viện trưởng
Viện Đại Học Vạn Hạnh Thích Minh Châu. Bà là giáo sư Anh ngữ rồi được cử làm
Thư viện trưởng và Giám đốc trung tâm an sinh xã hội của viện.
Sau 1975, Ni sư tiếp tục Phật sự và hoằng pháp. Bà
nghiên cứu, giảng dạy và biên dịch, trở thành nữ giảng sư đầu tiên của Viện Cao
cấp Phật học Việt Nam. Năm 1984, bà bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt giam vì bị
xem có liên đới với hai vị Thượng Tọa Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu, đến năm 1988
mới được trả tự do sau hơn bốn năm tù. Là Viện chủ các Tu viện Lộc Uyển, Liên
Hoa và Diệu Không, Ni trưởng Trí Hải cũng hoạt động tích cực trong các cuộc lạc
quyên và ủy lạo các nạn nhân thiên tai bão lụt.
Cuối năm 2003, với tài đức và đạo hạnh của một vị Ni
trưởng từ bi và thông tuệ, bà được cử làm Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam. Nhưng đáng buồn là chỉ vài ngày sau, giới ni tăng cùng Phật tử,
trí thức Việt Nam bỗng bàng hoàng nhận hung tin là Ni trưởng Thích nữ Trí Hải
đã tử nạn cùng vài đệ tử tháp tùng trong một tai nạn giao thông, khi bà đang
trên đường về sau một cuộc cứu trợ. Bà thọ 66 tuổi thế và chúng sanh mất đi một
biển sở học và trí tuệ, theo như pháp hiệu Trí Hải của bà. Tính đến cuối năm
qua, Ni sư Trí Hải đã viên tịch tròn 20 năm.
Với Phùng Thăng là một câu chuyện buồn khác khi bà
bị thảm tử lúc còn khá trẻ. Các tài liệu cho biết, sau biến cố 1975, bà dắt con
gái xuống miền Tây tìm đường vượt biên, nhưng đã bị quân Pol Pot bắt và hạ sát
cùng với nhiều người Việt khác, vào thời điểm mà Khmer Ðỏ tái phát động phong
trào “cáp duồn”, hạ sát người Việt sắt máu hơn ngay sau 1975. Câu chuyện buồn
nên có lẽ không cần đi sâu hơn, chỉ biết rằng dịch giả Phùng Thăng như vậy đã
qua đời khi mới ngoài 30 tuổi.
Hai chị em, hai nữ lưu xuất chúng, không dễ xuất
hiện được mấy phụ nữ trong cả một thế hệ, đã mang tài trí phụng vụ đạo pháp và
trí tuệ cho hàng triệu người Việt Nam. Giới trí thức cùng những cựu sinh viên
học sinh đồng thời với hai bà trong các bài viết đều cho biết rằng, họ đã học
hỏi và khai mở trí tuệ và tâm thức rất nhiều qua những tác phẩm đầy ảnh hưởng
của hai bà.
Hãy cùng đọc lại một đoạn văn mà cả hai vị đã viết
và dịch chung qua "Lời ngỏ" tiểu thuyết Câu chuyện dòng sông mà có
người từng nhận xét, qua sự Việt hóa của những dịch giả, ngỡ đâu Hermann Hesse
đã viết riêng tác phẩm này cho người Việt.
(Trích)
"Quyển "Câu chuyện dòng sông" dịch từ
chuyện "Siddhartha" trong tập "Weg nach Innen" (Đường về
nội tâm) của Herman Hesse. Hermann Hesse là một văn hào của văn học Đức ở thế
kỷ XX, sống cùng một thế hệ với Thomas Mann, Werfel, Wassermann và E.Vl
Salomon.
Hesse sinh năm 1877, được giải thưởng Nobel văn
chương năm 1946, tác giả nhiều tập thơ và nhiều cuốn tiểu thuyết bất hủ như
Peter Camenzind (1904), Demian (1919), Der Steppenwolf (1927), Narziss und
Goldmund (1930), Das Glaserlenspiel (1943).
Tất cả tác phẩm của Hermann Hesse đều nói lên niềm
cô đơn tâm linh của con người thời đại, nỗi thao thức triền miên của những tâm
hồn khát khao đi tìm một chân trời mới cho đời mình và nhất là những nỗ lực vô
hạn để vươn lên mọi ràng buộc của thân phận làm người. Trọn tác phẩm của
Hermann Hesse là lời Thánh ca bay vút lên chín tầng trời, vọng lên nỗi đau đớn
vô cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người, dù bơ vơ bất
lực mà vẫn luôn luôn tha thiết đi tìm giải thoát ra ngoài mọi giới hạn tầm
thường của đời sống tẻ nhạt:
"Dù bị đau đớn quằn quại,
tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này".
Und allem Weh zum Trotze bleib ich.
Verliebt in die verruckt Welt
Khi viết dòng thơ trên phải chăng Hermann Hesse đã
muốn nói lên tất cả ý nghĩa của sự nghiệp văn chương ông giữa cơn biến động phũ
phàng của thời đại? Ý nghĩa thâm trầm ấy cũng bàng bạc trong quyển"Câu
chuyện dòng sông".
Đọc "Câu chuyện dòng sông" chúng ta sẽ
thấy rằng cuộc đời đáng sống và chứa đựng muôn ngàn hương sắc tuyệt vời, mà
chúng ta thường bỏ quên và đánh mất giữa đời sống thường nhật. "Câu chuyện
dòng sông" là câu chuyện của mỗi người trong chúng ta; đó cũng là hình ảnh
muôn thuở của trần gian và của mộng đời bất tuyệt". Phùng Khánh-Phùng
Thăng.
(hết trích)
Khi chọn lọc dịch thuật các tác phẩm rất nổi tiếng
của thế giới bằng một ngôn ngữ và tâm đạo cao đẹp, chứa đầy chánh niệm và từ bi
như vậy, hai bà đã mang tâm huyết cùng công sức để góp phần soi sáng trí huệ
lẫn tư tưởng của cả một thế hệ độc giả.
Chưa kể đến những bộ sách, kinh kệ Phật pháp được Ni
sư Trí Hải viết hay dịch, hàng chục dịch phẩm văn chương và triết học quen
thuộc được Phùng Khánh hay Phùng Thăng, hoặc từ cả hai chị em bà cùng chung sức
Việt dịch, đã là một gia sản văn chương và tư tưởng không nhỏ mà cả hai bà đã
giới thiệu và mang đến cho Việt Nam.
No comments:
Post a Comment