Bình
luận “Nghị quyết về trí thức”
Nguyễn Đình Cống
08/01/2024
https://baotiengdan.com/2024/01/08/binh-luan-nghi-quyet-ve-tri-thuc/
Bốn anh trí, phú, địa, hào,
Chỉ còn anh trí lao đao đến giờ.
Đảng thấy anh trí ngu ngơ,
Bèn cho đứng nấp dưới cờ liên minh.
Trông lên chỉ thấy hai hình,
Trí ta chẳng biết phận mình ra sao.
Hỏi các anh phú, địa, hào,
Họ đều đã lọt được vào đảng ta.
Giật mình trí mới ngớ ra.
Không dè cách mạng đã ra thế rồi.
Ngày xưa sống kiếp tôi đòi,
Trí ta quen thói xem trời bằng vung.
Bây chừ cách mạng thành công,
Trí ta đành phải lấy vung làm trời.
***
Để tỏ ra quan tâm đến trí thức, đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng) đã có nhiều
văn bản đề cập đến đội ngũ này, trong đó quan trọng là Nghị quyết số 27 ngày
6-8-2008, do TBT Nông Đức Mạnh ký, “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nghị quyết số 45 ngày 24
tháng 11 năm 2023 do TBT Nguyễn Phú Trọng ký, “về tiếp tục xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn
mới”.
Dưới đây, tôi xin tóm tắt một số nội dung của hai
Nghị quyết kể trên (từ trên 9000 từ xuống còn trên 900 từ) và có đôi lời bình
luận.
I. Tóm tắt Nghị quyết
1. Thực trạng của trí thức
NQ 27 nhận định, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về
chất lượng; đã đóng góp tích cực ý kiến cho lãnh đạo. Ðảng và Nhà nước đã có
nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển nhanh về số lượng
và nâng lên về chất lượng.
Nhà nước đã thực hiện các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy
vai trò của trí thức, nhưng đội ngũ trí thức còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu
kém do nhiều nguyên nhân. Kinh tế vẫn lạc hậu, một số trí thức còn chịu ảnh hưởng
của tư tưởng phong kiến, công tác trí thức còn nhiều hạn chế, tổ chức các hội của
trí thức ở trung ương và địa phương chưa đủ mạnh. Công tác tổ chức cán bộ, công
tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều điểm không hợp
lý.
NQ 45 không viết “thực trang” mà thay bằng Tình Hình, như: Trí thức Việt
Nam có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; được quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng, đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất, tạo môi trường làm việc thuận lợi, các
tổ chức của trí thức được củng cố, kiện toàn, đổi mới nội dung. Tuy nhiên, việc
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức còn bất cập, cơ cấu, số lượng chưa hợp
lý, thiếu hụt chuyên gia đầu ngành; chưa tạo được môi trường thuận lợi động
viên trí thức chủ động nghiên cứu.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là do nhận thức
của một số cấp uỷ, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, của đội ngũ trí thức chưa đầy
đủ, sâu sắc, một bộ phận trí thức chưa nhận thức đầy đủ vai trò đối với phát
triển đất nước, còn thụ động, trông chờ, ngại bày tỏ chính kiến; năng lực, phẩm
chất, uy tín chưa đáp ứng yêu cầu.
2. Quan điểm
Mục II NQ 27 nêu: Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp xây
dưng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Mục II NQ 45 nêu: Quan điểm, mục tiêu.
Về quan điểm, NQ 27 ghi rằng:
– Trí thức là lực lượng lao đông sáng tạo đặc biệt quan trọng;
– Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm toàn xã hội;
– Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng.
NQ 45 ghi:
– Trí thức là lực lượng lao động trí óc có trình độ cao;
– Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng …
là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước… Chú trọng phát triển đội ngũ trí thức Việt
Nam cả trong và ngoài nước… Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng;
– Động viên trí thức nêu cao lòng tự hào, vinh dự và trách nhiệm đối với
Tổ quốc và dân tộc.
3. Mục tiêu
NQ 27 viết: “Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất
lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng
bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu
vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức”.
NQ45 nêu mục tiêu đến năm 2030:
– Phát triển về số lượng và chất lượng;
– Hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo điều kiện, động lực;
– Phát triển một số cơ sở nghiên cứu;
– Tăng số lượng phát minh sáng chế.
NQ 45 còn viết “Tầm nhìn đến năm 2045: Đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh,
có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc tốp đầu khu vực và tiệm cận với các nước
phát triển; nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng
quốc tế trên các lĩnh vực; nhiều tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở giáo dục
và đào tạo đạt chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu của quốc gia phát triển.
4. Nhiệm vụ và giải pháp
NQ 27 nêu ra những vấn đề sau:
– Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức
– Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức
– Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức
– Ðề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động
các hội của trí thức
– Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức
NQ 45 viết:
– Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội
ngũ trí thức
– Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí
thức, trọng dụng nhân tài
– Tăng cường quản lý nhà nước… đối với đội ngũ trí thức.
– Tăng cường nguồn lực xây dựng đội ngũ trí thức chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế.
– Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức; đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động các hội trí thức.
5. Tổ chức thực hiện
Mục này đề ra nhiệm vụ cho các tổ chức Đảng.
II. Vài điều bình luận
1. Thực trạng của trí thức
Về trí thức, có một bài thơ ngắn được truyền miệng như sau:
Bốn anh trí, phú, địa, hào,
Chỉ còn anh trí lao đao đến giờ.
Đảng thấy anh trí ngu ngơ,
Bèn cho đứng nấp dưới cờ liên minh.
Trông lên chỉ thấy hai hình,
Trí ta chẳng biết phận mình ra sao.
Hỏi các anh phú, địa, hào,
Họ đều đã lọt được vào đảng ta.
Giật mình trí mới ngớ ra.
Không dè cách mạng đã ra thế rồi.
Ngày xưa sống kiếp tôi đòi,
Trí ta quen thói xem trời bằng vung.
Bây chừ cách mạng thành công,
Trí ta đành phải lấy vung làm trời.
Thế nào là người trí thức? Nhiều từ điển nêu định nghĩa đơn giản, rằng
trí thức là người chuyên làm việc, lao động trí óc. NQ 27 nêu định nghĩa dài
hơn, thêm vào vài năng lực cần có như, “có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn
bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc”.
Ở Việt Nam hiện nay tồn tại ý kiến cho rằng, có trí thức “của đảng” và “của
dân”. Trí thức của đảng là những người có bằng cấp, học hàm, học vị cao, phần lớn
là đảng viên, một số ít không phải đảng viên nhưng chịu sự chi phối của Đảng.
Các NQ nhằm vào loại trí thức này.
Trí thức của dân là những trí thức độc lập. Họ nhận ra rằng, chủ nghĩa
Mác Lê (CNML) phạm nhiều sai lầm từ gốc, chứa nhiều độc hại, rằng những điều được
tuyên giáo Đảng tuyên truyền, phần lớn chưa phản ảnh đầy đủ sự thật. Nhiều người
trong họ không phải là đảng viên hoặc đã từng là đảng viên nhưng đã từ bỏ Đảng
sau khi nhận thức lại về CNML.
Trí thức của dân có thể ở trong nước hoặc nước ngoài nhưng luôn hướng về
đất nước. Họ thực sự yêu nước, thương dân.
Việc phân chia trí thức thành “của Đảng” và “của dân” là theo cảm tính chứ
không dựa vào một quy định nào cả.
Trao đổi về tiêu chuẩn của một người trí thức chân chính, một số người
cho rằng, các điều kiện như lao động trí óc, học vấn cao, có năng lực tư duy độc
lập và sáng tạo chỉ mới là điều kiện cần, còn phải thêm điều kiện đủ là biết và
dùng được trí tuệ cao để thức tỉnh và dẫn dắt xã hội, nhằm hướng đến cái đúng,
cái thiện, cái đẹp bằng những tư tưởng tiến bộ, những việc làm gương mẫu, những
phản biện chính xác và sắc bén. Nếu chấp nhận như thế thì phần lớn trí thức của
Đảng chưa đạt yêu cầu.
Đối với trí thức của Đảng, việc gắn bó với Đảng, có thể chia thành hai mức,
cao và thấp. Gắn bó ở mức cao mà một số trở thành cuồng tín, chủ yếu là những
người bị nhồi sọ từ rất bé về CNML mà khi lớn lên không có điều kiện để nhận thức
lại, để tìm được chân lý, một số khác đã trở thành người có nhiều quyền lợi do
chế độ mang đến, họ ra sức bảo vệ nó. Trong số sau này, có nhiều kẻ cơ hội,
liên kết với nhau trong “các nhóm lợi ích”. Gắn bó ở mức thấp là do tình thế buộc
phải chấp nhận để được yên thân mà làm việc của mình.
Đánh giá về đội ngũ trí thức, trong cả hai NQ đều
cho rằng, họ đã được tăng cả về lượng và chất. Tăng về lượng thì rõ rồi, nhưng
cho rằng tăng về chất thì không đúng. Thực ra chất lượng trung bình của trí thức
Việt nam ở trong nước là khá thấp, và càng ngày càng thấp, đặc biệt là có khá
đông giáo sư, tiến sĩ, một số trí thức của Đảng có danh hiệu thật, có bằng cấp
thật nhưng trình độ rất yếu.
Sự hạ thấp chất lượng của tiến sĩ trong mấy chục năm, từ phó tiến sĩ
thành tiến sĩ một cách quá dễ dãi, từ việc các hội đồng đánh giá luận án có quyền
công nhận trình độ tiến sĩ mà ít hoặc không chịu trách nhiệm nên việc đánh giá
chủ yếu dựa vào quan hệ cá nhân hơn là dựa vào nội dung khoa học của luận án.
Việc này đã làm vui lòng một số ké háo danh mà bất tài, nhưng đã đánh những đòn
nặng vào đội ngũ trí thức và đặc biệt là vào những trí thức chân chính. Hội đồng
có quyền đánh giá luận án để cấp bằng tiến sĩ, nhưng nhà nước không có cơ chế
kiểm tra, giám sát, nên đã để cho việc lạm phát tiến sĩ mở rộng.
Hai nghị quyết đều kể ra một số mặt tích cực và yếu
kém của tri thức kèm theo nguyên nhân, nhưng tất cả chỉ nhàn nhạt, vô thưởng vô
phạt và cũng chưa vạch ra được nguyên nhân cơ bản. Đặc biệt nguyên nhân thả lỏng
cho các hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ, Nhiều hội đồng không những kém năng
lực, thiếu trách nhiệm mà còn vi phạm đạo đức khoa học. Hội đồng đã liên kết với
cơ sở đào tạo để lừa dối nhà nước, nhân dân và nghiên cứu sinh khi công nhận họ
đạt trình độ tến sĩ, khi mà người được cấp bằng còn xa mới xứng đáng với danh vị
ấy.
Có một thực tế mà Đảng rất quan tâm nhưng không đưa vào NQ, là một số trí
thức đảng viên từ bỏ Đảng, từ trí thức của Đảng trở thành trí thức của dân,
thành người phản biện, bị Đảng quy kết, chụp mũ là bị “thế lực thù địch” lôi
kéo, mua chuộc, trở thành “phản động”. Thế mà Đảng không chịu điều tra để hiểu
và đánh giá đúng về họ.
Theo tôi, những trí thức bị Đảng đối xử như thù địch
mà nhiều người bị tù tội rất nặng hoặc bị bắt buộc lưu vọng, thực chất là những
người chân chính, là tinh hoa của dân tộc. Về bản chất, họ khác rất xa những
cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về đạo đức, tham nhũng, cửa quyền. Nhưng
Đảng thường ghép hai loại trên vào với nhau để làm lu mờ ranh giới nhận thức.
Đây là một cách làm hồ đồ, có thể do vô minh hoặc thủ đoạn của một ai đó.
2. Quan điểm
Quan điểm như hai, NQ chỉ là nhắc lại những điều cũ, chưa có gì mới so với
thời kỳ cách nay trên 50 năm. Cho rằng lao động trí óc quan trọng, nhưng không
thể xếp ngang chứ đừng nói đến xếp trước búa liềm, chưa xếp vào hàng động lực
phát triển xã hội. Đối với trí thức thì tự do tư tưởng quan trọng gần như không
khí. Vì tình thế mà phải viết vào NQ việc tôn trọng tự do
tư tưởng, nhưng viết thế chỉ để cho có, chứ thực lòng lãnh đạo rất muốn các trí
thức chỉ được tự do ca ngợi Đảng, tự do hoạt động theo chỉ đạo của Đảng, không
được tự do suy nghĩ theo ý cá nhân. Những đảng viên trí thức có đầu óc và tinh
thần phản biện, vì không chấp nhận thứ tự do ấy nên đã từ bỏ đảng để quay về với
dân.
Cho rằng xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây
dựng… là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước. Như thế là chấp nhận được. Còn cho rằng,
là trách nhiệm của toàn xã hội thì hơi hồ đồ.
NQ 45 viết, “chú trọng phát triển đội ngũ trí thức VN ở… ngoài nước”. Chẳng
biết khi viết như vậy đã có ai nghĩ đến cách phát triển như thế nào hay chưa.
Việc chính phủ ban hành Quyết định 1331 (Đề án phát huy nguồn lực của người Việt
ở nước ngoài, do Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang ký) làm xôn xao dư luận khá đông
Việt kiều.
3. Mục tiêu
Mục tiêu của NQ 27 đến năm 2020 phải chăng là ảo tưởng của những người vô
minh. Cuối thế kỷ trước, đất nước mới vừa may mắn thoát khỏi đói kém, phát triển
được một chút về kinh tế, có được vài năm tăng GDP đến trên bảy, tám phần trăm,
trong khi Nhật và Mỹ chỉ tăng chưa quá hai phần trăm đã tưởng ghê gớm, có biết
đâu 8% của ta với GDP rất thấp không bằng 0,1% của người ta. Một số người tưởng
sắp hóa hổ, hóa rồng đến nơi. Rồi vì những ảo tưởng đi tắt, đón đầu trong phát
triển nhanh về kinh tế mà lao vào làm những việc trái quy luật, là hủy hoại môi
trường, làm suy thoái giáo dục, văn hóa, đạo đức.
NQ 45 đặt mục tiêu đến năm 2030, cũng những điều gần như trong NQ 27,
nhưng chỉ chung chung.
Lại đề ra tăng số lượng phát minh sáng chế. Không hiểu người ta đề ra mục
tiêu này dựa trên cơ sở nào, có giống như mục tiêu tăng số lượng trứng bằng
cách tăng số lượng đàn vịt?
NQ 45 còn đề ra tầm nhìn đến năm 2045. Cách đề ra tầm nhìn có lẽ là đặc
điểm của Việt Nam, nghe qua thì thấy hay, có tầm nhìn xa, trông rộng, nhưng phần
lớn cũng chỉ là ảo tưởng, hoang tưởng. NQ 27 đặt mục tiên đến năm 2020, nay đã
là năm 2024, xem đã thực hiện như thế nào?
4. Nhiệm vụ và giải pháp
NQ 27 nêu ra nhiệm vụ hoàn thiện môi trường… cho hoạt động của trí thức.
Có môi trường vật chất và tinh thần. Trong môi trường tinh thần thì tự do tư tưởng
là quan trọng nhất. Về tự do tư tưởng, trong mục quan điểm, có đề cập “Tôn trọng
và phát huy tự do tư tưởng”.
Trong mục nhiệm vụ của NQ 45 có viết, “tôn trọng tự do sáng tạo, tôn trọng
ý kiến của đội ngũ trí thức” nhưng không viết gì về tự do tư tưởng.
Tự do là một trong những quyền bất khả xâm phạm của con người, nhưng Đảng
chỉ dành quyền đó chủ yếu cho lãnh đạo, mà hạn chế đối với đảng viên. Còn đối với
trí thức, Đảng chỉ cho tự do làm theo chỉ thị, nghị quyết của mình. Về tự do,
quan điểm thì có, nhiệm vụ thì không.Tự do cho trí thức, một điều không thể
không viết, nhưng hạn chế được bao nhiêu, tốt cho Đảng bấy nhiêu. Trong khi đó
NQ 45 viết: Tăng cường quản lý nhà nước… đối với đội ngũ trí thức. Không biết rồi
đây nhà nước sẽ tăng cường quản lý đến mức nào?
NQ viết: Tạo chuyển biến căn bản (hoặc đổi mới) công tác đào tạo trí thức.
Có thể đây là cách viết để mà viết, cho qua chuyện, chứ không biết đổi mới, tạo
chuyển biến như thế nào.
Hội nhập quốc tế của trí thức là nối tiếp hội nhập của giáo dục. Không biết
rồi hội nhập trí thức có bị an ninh của Đảng ra sức ngăn chặn như đã làm với hợp
tác giáo dục hay không (xem lại: Phản biện ANTV: Về hội nhập giáo dục quốc tế).
Đó là những thứ mà họ cho là không phù hợp với đường lối của Đảng.
NQ nào cũng đề cập nhiệm vụ “đãi ngộ và tôn vinh trí thức”. Thực ra những
trí thức chân chính chỉ yêu cầu được đối xử tương đối công bằng, trả công phù hợp
với kết quả công việc, tùy vào giá trị đóng góp, họ không cần những đãi ngộ mà
cần hơn là môi trường để làm việc sáng tạo. Họ cũng chỉ cần tôn trọng chứ cũng
không cần tôn vinh.
Về sự lãnh đạo của Đảng, NQ 27 viết: “Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo
của Ðảng đối với đội ngũ trí thức”, còn NQ 45 không viết gì. Phải chăng lãnh đạo
trí thức là việc không cần thiết, đề ra như NQ 27 chỉ là theo quan tính?
III. Đánh giá chung
Vì Đảng tự nhận việc “lãnh đạo toàn diện” nên phải ban hành rất nhiều NQ,
dẫn đến ôm đồm. NQ 27 và 45 phải chăng là trường hợp như vậy. Hình như trong
BCH Trung ương Đảng có một văn phòng chuyên thảo NQ nên các NQ có một đặc điểm
giống nhau là khá dài so với yêu cầu. Mỗi NQ, nếu tách ra từng câu thì câu nào
cũng đúng, cũng hay. Ghép nhiều câu vào trong một đoạn, mới thấy nhiều chỗ
trùng ý, còn đọc hết toàn bộ NQ mới thấy đó là một rừng ngôn từ hoa mỹ, một tập
hợp lớn các khẩu hiệu rất kêu, nhưng sáo rỗng.
Ban hành NQ được viết súc tích đã là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là
thi hành, mà người thi hành chính là Đảng và Nhà nước chứ không phải trí thức.
Là trí thức chân chính, họ sẽ biết mình cần làm gì, làm như thế nào.
Ở các nước văn minh, tiên tiến, không ai vạch đường cho trí thức, mà ngược
lại trí thức có vai trò hướng dẫn quần chúng. Còn nhà nước, quan trọng nhất là
tổ chức đánh giá công trình khoa học một cách nghiêm túc để cấp học vị, học hàm
thật chặt chẽ, chính xác. Việc này còn quan trọng hơn việc làm trong sạch Đảng
và hệ thống chính trị. Phải tạo ra được dư luận xã hội mạnh mẽ lên án những hội
đồng kém phẩm chất, không những thế mà còn cần có chế tài trừng phạt những kẻ lợi
dụng quyền lực để thực hiện ý đồ cá nhân.
Rồi cần đặt được trí thức vào đúng vị trí, tạo được môi trường để họ tự
phát huy. Muốn như vậy cần có những chính trị gia tài năng, liêm khiết và rộng
lượng, để ngoài việc giúp trí thức phát huy năng lực, còn biết chấp nhận một
vài thường tình nhỏ của họ (có tài, có tật).
Thế mà thói háo danh và vô minh đã tạo ra những lò ấp
tiến sĩ, những hội đồng xét cấp danh hiệu giáo sư cho những người hữu danh vô
thực, tạo ra những người có bằng cấp cao mà trí tuệ lùn. Thế mà vì củng cố độc
tài, vì mắc mưu thâm độc của Trung Cộng, mà ghét bỏ, mà vu oan giá họa, để làm
hại những trí thức của dân, làm hủy hoại tinh hoa của dân tộc.
Cũng giống như nhiều NQ khác, các NQ về
trí thức soạn ra chủ yếu để tuyên truyền. Cứ như tình trạng hiện nay, đến năm
2045, số lượng tiến sĩ giáo sư sẽ tăng nhiều, nhưng số lượng trí thức chân
chính có nhiều khả năng giảm sút.
No comments:
Post a Comment