Vài
suy nghĩ khi đọc sách của ông Võ Hồng Phúc
Nguyễn Đình Cống
10/07/2023
https://baotiengdan.com/2023/07/10/vai-suy-nghi-khi-doc-sach-cua-ong-vo-hong-phuc/
Đó là sách “Chuyện của chúng tôi”, viết dưới dạng
hồi ký. Sách được nhiều người quan tâm và đánh giá cao.
Ông Phúc người xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, sinh năm 1945,
thời còn bé ở quê nhà, lớn lên và trưởng thành ở Hà Nội. Ông nguyên là Bộ trưởng
bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002 – 2011), ủy viên BCH TƯ Đảng khóa VIII, IX, X, đại
biểu QH khóa XI, XII.
Ông Phúc viết sách kể qua về quê hương và thời đi học. Chủ yếu kể những
chuyên ông đã làm ở Bộ Kế hoach và đầu từ khi mới tốt nghiêp đại học, làm cán bộ
tập sự ngành địa chất, cho đến lúc nghỉ hưu sau khi làm hai nhiệm kỳ bộ trưởng.
Phần lớn câu chuyện kể về những việc vận động sự giúp đỡ của chính phủ Nhật,
về quan hệ tốt đẹp với những người bạn Nhật.
Sau khi đọc xong cuốn sách tôi nhận thấy ông Phúc tuy là đảng viên, nhưng
là người tốt, rất tốt, có tài năng, liêm khiết, trung thực, dũng cảm, được nhiều
người yêu mến, tin cậy (ông đã từng bị một đảng viên chèn ép mãi, không cho vào
Đảng. Chỉ sau khi người đảng viên đó chuyển đi nơi khác, ông mới được kết nạp
khi tuổi đã khá lớn).
Trong những năm đầu của thế kỷ 21 ông đã cùng với một
số cán bộ như ông (mà báo chí thường gọi là những nhà “kỹ trị”) đã đưa được nền
kinh tế hội nhập quốc tế, phát triển với tốc độ khá cao. Việc đó làm cho một số
người có ảo tưởng rằng, Việt Nam sẽ nhanh chóng hóa hổ, hóa rồng, Đảng còn vạch
kế hoạch đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiêp hóa, hiện đại hóa.
Nhưng rồi thực tế không được như vậy, đến nỗi bà Phạm Chi Lan (người viết
“Vài dòng cảm nghĩ về ‘Chuyện của chúng tôi’ được đăng ở đầu sách) đã phát biểu
rằng: “Tôi hoàn toàn chia sẻ sự tiếc nuối của tác giả: Giá như chúng ta học
tốt hơn những bài học mà người Nhật đã giúp cho Việt Nam, sử dụng hiệu quả hơn
tiền thuế mà người dân Nhật Bản dành cho chúng ta”. Và có lần bà Chi Lan đã
nói: Việt Nam là đất nước không chịu phát triển.
Khi ta gặp khó khăn, không thể phát triển, người ngoài có thể giúp. Nếu
ta không chịu phát triển thì chẳng ai có thể bắt ép.
Sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn cuối Thế kỷ 20, đầu Thế
kỷ 21 có dựa vào sự hợp tác, giúp đỡ của một số nước phương Tây, Nhật, Úc, và đặc
biệt nhờ Mỹ bỏ cấm vận. Họ giúp vì thấy rằng ta có lợi họ cũng có lợi theo, và
một phần cũng vì lòng nhân đạo, giúp đất nước bị chiến tranh tàn phá. Họ giúp
không vì một nghĩa vụ nào cả. Thế nhưng đã từng có vài ý nghĩ sai, cho rằng trước
đây họ ủng hộ Mỹ xâm lược thì bây giờ phải giúp Việt Nam kiến thiết (Lời ông Phạm
Văn Đồng nói với ông Lý Quang Diệu trong chuyến thăm Singapore năm 1978).
Bà Chi Lan than thở: Giá như chúng ta học tốt hơn, sử dụng hiệu quả hơn.
Xin hỏi: Tại sao chúng ta không thể học tốt và tại
sao ta sử dụng kém hiệu quả sự giúp đỡ? Không học được, không phải vì người ta không biết dạy,
không muốn dạy, không phải vì cán bộ của ta kém trình độ, Người ta rất muốn dạy
và biết dạy, cán bộ của chúng ta, trừ một số ít đầu óc bị u mê, còn những người
như ông Phúc, như bà Chi Lan và những nhà kỹ trị khác rất giỏi, thừa sức học. Nhưng những điều quan trọng mà người ta muốn dạy thì cán bộ của ta bị Đảng
cấm học.
Người Nhật đã xây dựng lại một đất nước bị đổ nát gấp
nhiều lần Việt nam, lại mang nỗi nhục vì thua trận, phải đầu hàng và chịu sự
cai quản của người Mỹ. Ban đầu khi bị Mỹ đem quân đến đóng, họ căm thù lắm chứ.
Thế nhưng, khi biết được sự tử tế của người Mỹ, họ đã thật tâm xóa bỏ hận thù
và hợp tác, được Mỹ giúp đỡ tận tình. Đặc biệt họ đã chọn được con đường phát
triển đúng đắn, xây dựng chế độ dân chủ với tam quyền phân lập, với xã hội dân
sự, toàn dân đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, thật lòng hợp tác với Mỹ, người
dân thực sự được tự do.
Còn ta, nghị quyết 102 của Đảng cấm
nói đến tam quyền, cấm nói đến xã hội dân sự, vẫn tuyên truyền thù hận “đế quốc
Mỹ” và tự kiêu về việc “đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào”. Rồi còn đặt ra điều luật
“Cấm lợi dụng quền tự do …” để kết án nặng những người bất đồng chính kiến, dám
phản biện.
Đổi mới từ năm 1986 thực chất là sửa sai, là cới
trói cho người dân. Ai sai, ai trói? Đảng chứ ai. Thế mà không một người nào
trong lãnh đạo công nhận điều đó, mà còn to mồm khoe khoang là nhờ sự sáng suốt
của họ. Kinh tế thị trường, phát triển kinh tế tư nhân là làm ngược lại với Mác
Lê, nhưng lại tuyên truyền là “vận dụng sáng tạo” với giải thích sáng tạo là gắn
thêm cái đuôi định hướng XHCN, là kinh tế thị trường đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
lấy nghị quyết của Đảng và kinh tế quốc doanh làm cơ sở. Đó là một sự cấy ghép,
lai giống giữa loài chim và cua cá để tạo ra một thứ bầy nhầy, một quái thai.
Mà kinh tế thị trường có sự quản lý phần nào của nhà nước thì có gì sáng tạo,
Nó đã được Ricardo (1773-1823) bàn đến cách đây trên hai trăm năm.
Một số năm trước đây, mức tăng GDP tuyệt đối của Việt Nam thực tế không
đáng bao nhiêu, nhưng tính ra số phần trăm khá cao là vì mẫu số để tính quá thấp,
thế mà theo tuyên truyền thì ta có chỉ số tăng GDP thuộc loại nhất thế giới.
Hơn nữa, việc tăng đó chủ yếu là do khai thác tài nguyên vô tội vạ, do giải
phóng sức lao động thô sơ, dựa vào tiền đi vay (chưa biết bao giờ mới trả hết nợ)
chứ chưa phải dựa vào lao động sáng tạo, không phải dựa vào công nghệ cao và phần
lớn sự tăng trưởng lọt vào túi các công ty nước ngoài.
Nhiều ý kiến cho rằng, để phát triển cần đổi mới chính trị. Nhưng ý kiến
đó chỉ được nói thầm với nhau, còn nếu bị mật vụ nghe thấy thì nguy cơ bị vu
oan để phải nhận bản án trên chục năm tù là khó tránh.
Theo ông Phúc thì, ông Đỗ Mười dặn phải học Nhật Bản để xây dựng đất nước,
nhưng Đảng lại ra nghị quyết cấm nhiều thứ quan trọng cần học. Thì ra, ông Mười
nói thế nhưng ông không biết phải học cái gì.
Chúng ta bị Mỹ cấm vận làm cho đã khổ càng khổ thêm. Chúng ta tuyên truyền,
đổ tội cho Mỹ mà không chịu nhận nguyên nhân chính là từ phía chúng ta. Cứ suy
theo lời ông Nguyễn Phú Trọng thì ta có như thế nào mới bị người ta cấm vận chứ.
Tại sao ta sử dụng kém hiệu quả sự giúp đỡ? Có vài nguyên nhân mà chủ yếu
là sự tham nhũng, là mua quan bán tước, là không xác định đúng nguyên nhân cơ bản
để hướng sự đấu tranh vào đúng chỗ. Những nhà lý luận của Đảng phải tốn nhiều
công sức mới rút ra nguyên nhân của tệ nạn là sự thoái hóa về đạo đức, sự tự diễn
biến, tự chuyển hóa của một số cán bộ ở mọi cấp, mọi ngành. Người ta tưởng như
thế là đã nắm được yết hầu của con ngựa tham nhũng, chỉ cần bóp mạnh một cái là
nó chết. Nhưng không phải, đó chỉ mới là vuốt đuôi. (mà không khéo còn bị nó đá
hậu).
Nguyên nhân
cơ bản ở chỗ khác, từ trong học thuyết Mác Lê với độc quyền đảng trị, với việc
đồng nhất đảng và nhà nước, đồng thời đặt Đảng trùm lên mọi luật pháp, là những
sai lầm về đường lối mà không chịu nghe phản biện, mà tự kiêu cho rằng, Mác Lê
là chân lý vĩnh cửu, Đảng hoàn toàn đúng, ai nói gì khác là thù địch, phải bị
tiêu diệt.
Đường lối cán bộ của Đảng có một số điều phản dân chủ, phản khoa học, phản
tiến bộ nên mới để lọt vào một số lớn kẻ cơ hội, chúng có nhiều mưu ma chước quỷ
mà thiếu trung thực, thiếu trí tuệ, chỉ giỏi việc làm vinh thân phì gia, lôi bè
kéo cánh tạo đa số để thắng trong bầu cử, gạt ra ngoài những người liêm khiết,
có năng lực. Những “Lồng nhốt quyền lực”, nghị quyết về “Chống chạy chức chạy
quyền” chỉ là những quy định tầm phào, vô giá trị, phản khoa học.
Phòng chống tham nhũng là việc của nhà nước, nhưng Đảng tranh lấy để làm.
Đặt tên là Ban Phòng Chống tham nhũng, nhưng chủ yếu chỉ chờ người ta tham
nhũng rồi phát hiện và đốt lò, chứ chẳng thấy phòng chỗ nào, chống chỗ nào (để
nó không thể xảy ra).
Đọc sách của ông Phúc rồi đối chiếu với thực tế, tôi thấy những điều được
viết ra đều là sự thật, phản ánh sự suy nghĩ và hoạt động tích cực của một số
người thuộc tầng lớp tinh hoa, có may mắn lọt được vào những vị trí cần thiết để
thắp lên vài ngọn nến trong khu rừng đêm đầy bóng tối. Ông Phúc chưa đủ sức đụng
đến một phần khác của sự thật là những khu rừng âm u, tối tăm, đầy rắn rết. Dù
sao, được như thế đã là tốt.
***
Tôi biết Trung Cộng, một mặt rất chăm lo đội ngũ
tinh hoa của họ, mặt khác xúi giục lãnh đạo Việt Nam tìm cách hạn chế, tiêu diệt
tinh hoa của dân tộc (bằng cách vu cho họ tội chống Đảng, chống chế độ). Có diệt
được hết tinh hoa của Việt Nam thì Tàu Cộng mới dễ bề thi thố âm mưu thôn tính
lãnh thổ. Lãnh đạo Việt Nam vì kém trí tuệ nên mắc vào mưu thâm mà không biết.
Trước đây tôi tự hỏi, đất nước bị toàn trị như vậy, bị tham nhũng như vậy,
nhân quyền bị coi rẻ, giáo dục, đạo đức xuống cấp, thế mà đa số người dân vẫn sống
được qua ngày, nhờ vào đâu? Nghị quyết Đảng viết rõ ràng là, nhờ sự lãnh đạo của
họ. Nhưng không phải. Đảng càng tăng cường lãnh đạo thì sai càng nhiều. Tôi cho
rằng nhờ vào một số cán bộ như ông Phúc, họ là đảng viên, nhưng trước hết là
tinh hoa của dân tộc.
Chính nhờ những người này gặp may mắn, giữ được vài vị trí xứng đáng mà
phát huy được tác dung tích cực. Chính nhờ họ mà phát triển được kinh tế, dù rằng
châm chạp. Cứ cho rằng bọn tham nhũng ra sức vơ vét, nhưng chúng không thể vơ
vét cạn kiệt mà còn phải chừa một số ít cho dân, để cho dân còn thở được.
Tuy vậy trong lúc giới tinh hoa làm được vài việc tốt thì khá nhiều bọn
cơ hội kéo bè kết cánh để xâu xé, để trục lợi. Người tinh hoa thường chỉ thích
làm việc mà không thích đấu tranh. Nếu xảy ra cuộc đấu tranh giữa những người
tinh hoa, trung thực, với bọn cơ hội thì phần thắng thường nghiêng về bọn cơ hội,
vì chúng có nhiều mưu mô xảo trá, lại dựa được vào nguyên tắc của Đảng là thiểu
số phải phục tùng đa số.
Vậy làm sao để những người tinh hoa của dân tộc thoát được âm mưu của
Trung Cộng để khỏi bị hủy diệt và liên kết được với nhau để phát huy sức mạnh.
Đến lúc đó may ra mới thắng được phần nào bọn cơ hội để phát triển đất nước như
nhiều người mong đợi.
.
No comments:
Post a Comment