Hồ Bạch
Thảo
29/04/2019
Lịch
Sử Việt Nam Thời Tự Chủ
2. Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán, củng cố nền độc lập
[939-944]
Hồ Bạch Thảo
Ngô Quyền người xã
Đường Lâm tỉnh Sơn Tây [theo An Nam Kỷ Yếu, quê tại
châu Ái, Thanh Hóa], là tướng giỏi của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, nên được
Tiết độ sứ gả con gái cho ; rồi cho giữ Ái Châu. Sau khi phản tướng Kiều Công
Tiện giết Dương Đình Nghệ [937], Ngô Quyền mang quân từ châu Ái ra Bắc, đánh Kiểu
Công Tiện ; Công Tiện không chống nỗi, bèn mang của cải đút lót cho vua
Nam Hán để xin cứu viện.
Đối phó với thù
trong giặc ngoài, tướng Ngô Quyền ra tay diệt tan bè lũ Kiều Công Tiện trước, rồi
chuẩn bị chiến trận chống chống Nam Hán. Vua Nam Hán muốn nhân loạn chiếm nước
Việt, bèn sai con là Vạn vương Hoằng Thao mang thuỷ quân sang đánh, riêng Vua
Hán đóng quân tại cửa biển để làm thế yểm trợ. Hậu quả Hoằng Thao chết trận,
quân tan, vua Hán khóc ròng, rút quân trở về nước, Tư Trị Thông Giám của
Tư Mã Quang chép về sự kiện này như sau :
« Tư Trị,
quyển 281, Tấn Cao Tổ năm Thiên Phúc thứ 3 [938],
Tháng 10, tướng cũ
của Dương Diên Nghệ [楊延藝] 1 là
Ngô Quyền mang quân đánh Kiểu Công Tiện tại Giao Châu ; Công Tiện sai sứ hối
lộ cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Hán muốn thừa lúc loạn đánh lấy, bèn cho con là Vạn
vương Hoằng Thao làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ tiến phong Giao vương, mang quân
cứu Công Tiện ; vua Hán đích thân đóng tại cửa biển để làm thế thanh viện.
Vua Hán hỏi Sùng văn sứ Tiêu Ích về sách lược, Ích tâu :
« Nay
trời mưa lâm râm suốt tuần, đường biển xa xôi hiểm trở, Ngô Quyền lại là tay kiệt
hiệt, nên không thể khinh địch. Đại quân cần từ từ thận trọng, dùng nhiều hướng
đạo dân địa phương, mới nên tiến. »
Vua không nghe, ra
lệnh Hoằng Thao điều chiến thuyền theo sông Bạch Đằng tiến vào Giao Châu. Lúc
này Quyền đã giết Công Tiện, chiếm toàn Giao Châu, rồi mang quân đánh ngược lại.
Trước hết tại cửa biển cho chôn cọc vót nhọn có bọc sắt ; lại sai khinh
binh khiêu chiến rồi giả thua rút. Hoàng Thao xua quân đuổi ; chẳng bao
lâu thuỷ triều xuống, tàu vướng cọc sắt không rút lui được, quân Hán thua to,
quan quân bị lật tàu chết trôi quá nửa. Hoằng Thao chết, vua Hán gào khóc, thu
tàn quân trở về. Trước đó, Tả lang hầu Dung khuyên vua Hán bớt việc binh để yên
dân, nay do dùng binh không phấn chấn, bèn qui lỗi cho Dung, sai phá quan tài
phơi thây. »
(楊延藝故將吳權自愛州舉兵攻皎公羨於交州,公羨遣使以賂求救於漢。漢主欲乘其亂而取之,以其子萬王弘操為靜海節度使,徙封交王,將兵救公 羨,漢主自將屯於海門,為之聲援。漢主問策於崇文使蕭益,益曰:「今霖雨積旬,海道險遠,吳權桀黠,未可輕也。大軍當持重,多用鄉導,然後可進。」不聽。命弘操帥戰艦自白籐江趣交州。權已殺公羨,據交州,引兵逆戰,先於海口多植大□弋,銳其首,冒之以鐵,遣輕舟乘潮挑戰而偽遁,弘操逐之,須臾潮落,漢艦皆礙鐵杙不得返,漢兵大敗,士卒覆溺者太半;弘操死,漢主 慟哭,收餘眾而還。先是,著作佐郎侯融勸漢主弭兵息民,至是以兵不振,追咎融,剖棺暴其屍。益,仿 之孫也。)
Một bộ sử khác của
Trung Quốc, Tân Ngũ Đại Sử do Âu Dương Tu soạn, cũng
chép tương tự :
« Năm thứ
10 [937], Nha tướng Giao Châu Kiểu Công Tiện giết Dương Đình
Nghệ lên ngôi; tướng cũ của Đình Nghệ là Ngô Quyền đánh Giao Châu; Công Tiện
xin quân Nam Hán tiếp viện. Cung phong cho con, Hồng Tháo là Giao vương, ra
quân đánh tại sông Bạch Đằng ; Cung đóng quân tại cửa biển. Quyền sau khi
giết Công Tiện, đánh ngược ra cửa biển, cắm cọc sắt. Quân của Quyền chờ thuỷ
triều lên bèn rút ; đợi thuỷ triều xuống bèn quay thuyền lại đánh,
thuyền quân Nam Hán vướng phải cọc đều lật đổ ; Hồng Tháo chết, Lưu Cung
thu tàn quân trở về. » [Tân Ngũ Đại Sử, Quyển 65, Nam
Hán, Thế Gia quyển thứ 5]
(十年,交州牙將皎公羨殺楊廷藝自立,廷藝故將吳權攻交州,公羨來乞師。龑封洪操交王,出兵白藤以攻之。龑以兵駐海 門,權已殺公羨,逆戰海口,植鐵橛海中,權兵乘潮而進,洪操逐之,潮退舟還,轢橛者皆覆,洪操戰死,龑收余眾而還。)
Lợi dụng thủy triều
để tranh thắng ; điều quan trọng là thời gian phải chính xác. Lịch sử thế
giới ca tụng danh tướng MacArthur đã thành công trong cuộc đổ bộ bất ngờ nguy
hiểm tại hải cảng Inchon cách thủ đô Seoul Hàn Quốc 25 dặm, vào ngày
15/10/1950 ; cắt bán đảo Triều Tiên làm 2, khiến quân Bắc Hàn trên đường tấn
công tại phía nam bị đánh tan, loại ra ngoài vòng chiến. Các nhà quân sự Bắc
Hàn lúc bấy giờ cho rằng cảng Inchon nước cạn không thể dùng tàu đổ bộ, nên
không chú ý đề phòng ; nhưng họ không tính đến nước thủy triều lên cao
trong một vài giờ, và tướng MacArthur đã dám chọn thời gian nghiệt ngã bất ngờ
đó để tranh thắng. Thời MacArthur có đồng hồ chính xác từng giây, hải quân Hoa
Kỳ thống kê mức thuỷ triều lên xuống từng phút ; mà vẫn bị coi là liều
lĩnh. Riêng Ngô vương phải sai người cắm cọc sắt như thế nào để lúc thuỷ triều
lên địch không phát hiện được, thuỷ triều rút có thể đâm thủng thuyền giặc, rồi
thời gian rút lui, thời gian tấn công cần phải chính xác ; công việc tính
toán về thủy triều cũng phải làm như MacArthur thực hiện khoảng 1.000 năm
sau ; so sánh như vậy thấy được Ngô vương là một thiên tài về quân sự.
Cùng một dòng, 2 lần
đại phá quân địch ; một việc ít khi xảy ra trong lịch sử chiến tranh thế
giới. Tuy cũng là thuỷ chiến, cũng đóng cọc trên sông ; hơn 300 năm sau
[1288] Hưng Đạo vương lại tiêu diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, bắt và giết
các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp ; chỉ khác một chi tiết là đánh giặc khi
chúng rút lui từ trong nội địa Đại Việt ra biển. Một dòng sông khác, cách sông
Bạch Đằng không xa ; đó là sông Như Nguyệt [sông Cầu], Lý Thường Kiệt từng
chế ngự giặc thành công, trong cuộc chiến tranh Lý Tống năm 1076.
Đất nước Việt Nam
ta núi sông hiểm trở không thiếu, tại địa danh sông Chi Lăng [thượng lưu sông
Thương], vua Lê Đại Hành dụ bắt giết Hồng Nhân Bảo, chấm dứt cuộc chiến tranh
vào Lý Tống năm 981 ; lại gần 500 năm sau [1427], dưới thời chống quân
Minh, tướng Liễu Thăng mang đại quân sang cứu viện, bị nghĩa quân của Vua Lê Lợi
đánh tan tại ải Chi Lăng.
Kỵ binh là sở trường
của quân phương Bắc, đạo quân của Nùng Trí Cao dưới thời Tống từng hoành hành tại
2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông như chỗ không người ; chỉ trong vòng 2 tháng,
đánh chiếm hàng chục châu quận trong đó có thành lớn Ung châu [Nam Ninh] ;
nhưng cuối cùng bị Địch Thanh dùng kỵ binh đánh tan trong một buổi sáng, tại
cánh đồng bằng phẳng Qui Nhân Phố dưới chân núi Côn Lôn. Trong cuộc chiến tranh
Lý Tống Quách Quì dùng 1 vạn kỵ binh ; thời nhà Trần, quân Mông Cổ dưới
quyền Trấn nam vương Thoát Hoan sử dụng ưu thế kỵ binh hầu mong nuốt chửng nước
ta ; nhưng địa thế nước ta khó có thể dàn trận lớn bằng kỵ binh, lại bị
quân ta đánh tiêu hao người, ngựa, bằng chiến tranh hầm hố, nên hai lần xâm
lăng đều bị thất bại. Thời hiện đại gọi xe tăng thiết giáp là kỵ binh [Armoured
cavalry], địa thế tại Việt Nam miền Bắc, và Trung phần lớn núi rừng, miền Nam đất
mềm nhiều sinh lầy, nên thiết giáp chỉ phụ cho bộ binh ; chứ không thể dàn
hàng ngang hàng trăm chiếc để làm chủ chiến trường, như quân Đồng Minh và Đức từng
tung hoành tại sa mạc châu Phi thời Thế chiến thứ 2.
Trong chiến tranh
Nga Nhật năm 1905, hạm đội Nga trú an toàn tại hải cảng Cam Ranh nước ta, Nhật
không có cách gì tiêu diệt, cuối cùng phải dùng biện pháp ngoại giao với Pháp,
đuổi tàu Nga ra khỏi lãnh hải Việt Nam để đánh. Hải trình huyết mạch quốc tế từ
ngàn xưa đến nay chạy dọc theo biển Đông tức ven biển miền Trung ; Cam
Ranh nước ta là vị trí chiến lược tối quan trọng, với vũ khí hiện đại có thể kiểm
soát hải trình này, và chống lại các thế lực vượt trội ta ngoài biển khơi.
*
Tóm lại, trong 3 yếu
tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, tổ tiên ta đã phấn đấu hàng ngàn
năm để dành phần “ địa lợi ” cho con cháu ; Ngô vương Quyền là bậc
thầy muôn đời trong việc dùng địa lợi vào lãnh vực quân sự.
Sau khi dẹp xong
ngoại xâm, năm Kỷ Hợi (939) Ngô Quyền tự xưng Vương, đóng đô tại Cổ Loa, thuộc
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay ; lập Dương thị làm hoàng hậu.
Dương Hậu là con gái Dương Diên Nghệ ; thời Ngô vương Quyền làm nha tướng,
được Diên Nghệ gả con gái cho.
Năm Giáp Thìn [944]
Ngô vương Quyền mất. Lúc bệnh nguy kịch, trối trăng dặn Dương Tam Kha, em ruột
Dương hậu, giúp con mình là Xương Ngập nối ngôi.
Sử thần Lê Văn Hưu
đời Trần có lời bàn về Ngô vương Quyền, tuy ngắn nhưng nội dung có thể tóm tắt
được sự nghiệp :
“ Lê Văn
Hưu nói :
Tiền Ngô Vương có
thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng
Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể
nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ
xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt
ta, ngõ hầu đã nối lại được.” [Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư, Ngoại kỷ, quyển 5]
Sau khi Ngô vương mất,
Tam Kha cướp ngôi của cháu, tiếm xưng là Bình vương ; Xương Ngập sợ, chạy
đến Nam Sách Giang, ẩn náu tại nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương 2. Tam
Kha nuôi con thứ hai của Ngô vương Quyền là Xương Văn làm con mình. Các con vợ
thứ của Ngô vương là Nam Hưng, Kiền Hưng còn nhỏ, đều theo Dương hậu.
Tam Kha sai Quan sứ
Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi lùng Xương Ngập : trước sau đến
ba lần đều không bắt được. Được tin Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập giấu trong động
núi ; Tam Kha cho sục sạo, cuối cùng vẫn không tìm thấy. Tam Kha lại
sai Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc cùng Xương Văn đem quân đi đánh hai thôn ở
Thái Bình 3. Khi
đi đến huyện Từ Liêm, Xương Văn bảo hai Quan sứ rằng :
“ Đức trạch
của Tiên vương 4 ta
thấm khắp lòng dân, tất cả các chính lệnh thi hành không ai là không vui lòng
theo cả. Chẳng may Tiên vương ta mất đi. Bây giờ Bình vương là kẻ bất nghĩa, tự
cướp lấy ngôi, còn tội gì hơn nữa ! Nay lại sai chúng ta đi đánh các ấp vô
tội kia, may mà được, nếu họ không phục thì làm thế nào ? ”
Hai Quan sứ Dương
Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc trả lời :
“ Tướng
quân bảo như thế nào chúng tôi cũng xin vâng mệnh ”.
Xương Văn bảo :
“ Ý tôi muốn
đem quân quay về đánh úp Bình Vương để phục lại cơ nghiệp của tiền nhân, có nên
không ? ”.
Hai Quan sứ đều cho
là phải. Bấy giờ mới trở về đánh úp được Tam Kha ; mọi người muốn giết đi,
nhưng Xương Văn bảo :
“ Bình
vương đối với ta cũng có ơn, nỡ nào đem giết ? ”.
Rồi giáng Tam Kha
xuống làm Trương Dương công, nhân chỗ ở ấy cho làm thực ấp 5 ;
Tam Kha tiếm ngôi 6 năm.
Năm Tân Hợi (951],
Ngô Xương Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn vương ; rồi sai Sứ đón Xương Ngập ở
tôn Trà Hương về kinh đô, cùng nhau trông coi việc nước. Sau đó Thiên Sách
vương Xương Ngập chuyên quyền, nên Nam Tấn vương không tham dự chính sự nữa. Do
đó hai anh em có sự xích mích ; đến năm Giáp Dần [954], Xương Ngập mất,
Nam Tấn vương mới chính mình cầm chính quyền ; rồi sai Sứ sang xin mệnh chúa
Nam Hán là Lưu Thạnh phong chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ kiêm An Nam đô hộ ; Tư
Trị Thông Giám 6 chép :
“ Chu Thế
Tông Hiển Đức năm thứ nhất [954]
Tháng giêng [2/954], trước kia Tĩnh hải tiết độ sứ Ngô Quyền mất, con
là Xương Ngập lập. Xương Ngập mất, em là Xương Văn [昌文] lập. Tháng này mới bắt đầu xin mệnh Nam Hán ; Nam Hán
phong Xương Văn Tĩnh hải quân tiết độ sứ kiêm chức An Nam đô hộ.”
(初,靜海節度使吳權卒,子昌岌立。昌岌卒,弟昌文立。是月,始請命於南漢,南漢以昌文為靜海節度使兼安南都護.)
Năm Ất Sửu [965],
Nam Tấn vương đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình. Quân đến nơi, cắm thuyền,
lên bộ đánh nhau ; Nam Tấn vương bị trúng tên mai phục chết ; trị vì
được 15 năm.
Nhà Ngô mất. Ngô
vương Quyền khởi lên từ năm Kỷ Hợi, mất năm Giáp Thìn, được 6 năm
[939-944] ; Nam Tấn Xương Văn lên ngôi từ năm Tân Hợi đến năm Ất Sửu
[951-965], được 15 năm (951-965) ; cộng tất cả là 21năm.
Từ khi Tam Kha cướp
ngôi nhà Ngô, thổ hào các nơi đua nhau nổi dậy. Xương Văn tuy lấy lại được nước,
nhưng hai anh em bất hòa, không thể thống nhất được ; đến khi đi đánh Thái
Bình, bị chết trận, từ đó trong nước rối loạn. Một viên tướng người họ Ngô là
Ngô Xương Xí tụ tập quân giữ Bình Kiều. Nha tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ
Động Giang. Thổ hào các nơi khác cũng nổi lên mỗi người giữ một nơi, ai cũng
xưng hùng trưởng. Sau Tiên Hoàng nhà Đinh nổi lên, dẹp yên được cả, từ đấy
giang sơn mới thống nhất.
Các hùng trưởng cát
cứ các nơi, sử gọi là Thập Nhị Sứ Quân, xin liệt kê như sau :
1. Trần Lãm, tự
xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải khẩu [thị xã tỉnh Thái Bình] ;
2. Kiểu Công Hãn tự
xưng là Kiểu Tam Chế, giữ Phong Châu [huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú] ;
3. Nguyễn Khoan tự
xưng là Nguyễn Thái Bình, giữ Nguyễn Gia Loan ở Tam Đái [huyện Vĩnh Lạc, tỉnh
Vĩnh Phú] ;
4. Ngô Nhật Khánh tự
xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm [Ba Vì, Hà Tây] ;
5. Lý Khuê tự xưng
là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại [huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc] ;
6. Nguyễn Thủ Tiệp
tự xưng là Nguyễn Lệnh công, giữ Tiên Du [tỉnh Bắc Ninh] ;
7. Lữ Đường tự xưng
là Lữ Tá Công, giữ Tế Giang [huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc] ;
8. Nguyễn Siêu tự
xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt [Thanh Trì, Hà Nội] ;
9. Kiểu Thuận tự
xưng là Kiểu Lệnh Công, giữ Hồi Hồ [huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú] ;
10. Phạm Bạch Hổ tự
xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu [huyện Kim Thị, tỉnh Hải Hưng] ;
11. Ngô Xương Xí
chiếm giữ Bình Kiều [huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa] ;
12. Đỗ Cảnh Thạc
chiếm giữ Đỗ Động [Thanh Oai, tỉnh Hà Tây] 7.
*
Ba nhân vật lịch sử
phải chịu trách nhiệm về mối loạn 12 sứ quân cuối triều Ngô : trước hết phải
kể đến Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, dùng binh đánh dân vô tội ; kế đến
Ngô Xương Văn vì tình riêng không có thái độ dứt khoát với Dương Tam Kha, nuôi
dưỡng kẻ phản bội ; riêng Ngô Xương Ngập được em đón về lại giành chức của
em. Các biến cố xảy ra khiến
nhân tâm chia rẽ, chính quyền mới bắt đầu xây, điều hành lỏng lẻo, không có kỷ
cương ; đó là nguyên nhân chính gây nên loạn Thập nhị sứ quân.
Hồ Bạch Thảo
1 Dương Đình Nghệ : vì chữ Đình [廷] và chữ Diên [延] viết giống
nhau, nên có sách chép là Dương Diên Nghệ.
3 Thôn Thái Bình : theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục, nay thuộc huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình.
7 Danh sách và vị trí Thập Nhị Sứ Quân, căn cứ vào Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục tiền biên quyển 5; riêng Việt Nam
Sử Lược của Trần Trọng Kim, bản điện tử, trang 34 ; chép Ngô
Xương Xí giữ Bình Kiều thuộc tỉnh Hưng Yên.
No comments:
Post a Comment