Sau 1975, Văn học cũng như con người buộc phải
trốn chạy, tìm đường vượt biển. Tưởng chừng, nơi miền đất lạ, dòng
văn học tị nạn ấy sẽ chững lại. Nhưng không, nó như những nhánh sông
âm thầm vặn mình bồi lên mảnh đất khô cằn đó. Chiến tranh, người
lính vẫn là đề tài nóng bỏng để các nhà văn tìm tòi, khai thác.
Vào thời điểm ấy, những nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, Trần Hoài
Thư, Thế Uyên…đang ở độ chín và sung sức. Và sau đó, xuất hiện hàng
loạt nhà văn xuất thân từ những người lính chiến đã trải qua những
năm tháng tù đày, như: Phạm Tín An Ninh, Song Vũ hay Cao Xuân Huy… Tuy
văn phong, thi pháp riêng biệt, nhưng tựu trung, mỗi trang viết của họ
đều để lại những ấn tượng thật sâu sắc trong lòng người đọc. Nếu
văn của Phạm Tín An Ninh đẹp, sáng và nhẹ nhàng, thì từ ngữ trên
những trang viết của Cao Xuân Huy nặng tính khẩu ngữ trần trụi, mãnh
liệt. Có một điều rất thú vị, đọc Cao Xuân Huy, tôi lại nhớ đến nhà
thơ người lính Nguyễn Bắc Sơn. Bởi, tính đặc trưng ngôn ngữ làm nên
hình tượng, chất lính rất đặc biệt trong thơ văn của hai ông văn sĩ
này.
Cao Xuân Huy với tác phẩm “Tháng
Ba Gãy Súng)
Cao Xuân Huy sinh
năm 1947 tại Bắc Ninh. Năm 1954, ông theo mẹ di cư vào Nam. Tốt nghiệp
tú tài, năm 1968 ông vào lính. Tháng 3- 1975, Cao Xuân Huy bị bắt tù
cải tạo. Năm 1982 ông vượt biển, và định cư tại Hoa kỳ. Ông mất năm
2000, bởi căn bệnh ung thư.
Cũng như nhà thơ
người lính Nguyễn Bắc Sơn, Cao Xuân Huy có người cha ở bên kia của
chiến tuyến. Nhưng Cao Xuân Huy không hề có mâu thuẫn nội tâm, do dự
trên đầu súng như Nguyễn Bắc Sơn. Với ông, có sự phân định trách
nhiệm rạch ròi của người lính. Tuy nhiên, suốt những năm tháng dài
cầm súng, nhất là những ngày đầu năm 1975 buộc người lính phải buông
súng, di tản, luôn làm cho Cao Xuân Huy day dứt khôn nguôi. Một câu hỏi,
suốt những năm tháng tù đày, và nơi đất khách Cao Xuân Huy mải miết
đi tìm, song dường như, không lời giải đáp? Và đó cũng là mục đích,
tư tưởng trải dài trên những trang viết của nhà văn Cao Xuân Huy.
Cao Xuân Huy đến
với văn thơ khá muộn, viết ít, và rất chắt lọc. Cùng với Vài Mẩu
Chuyện, Tháng Ba Gãy Súng là tác phẩm chân thực, gây tiếng vang làm
nên chân dung nhà văn tài hoa dân dã Cao Xuân Huy. Nó là một trong những
tác phẩm hay và đặc sắc nhất viết về chiến tranh của nền văn học
Việt Nam.
Sự tàn khốc,
tính chân thực qua từng con chữ.
Nếu buộc phải
đưa ra một lời nhận xét về những tác phẩm viết về chiến tranh gần
đây, (bỏ qua tư tưởng, ý thức hệ) thì với tôi, Nỗi Buồn Chiến Tranh
của Bảo Ninh, và Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy là hai tác phẩm
tiêu biểu nhất. Cùng bóc trần sự tàn khốc của chiến tranh, nếu tài
năng phân tích, miêu tả diễn biến tâm lý của người lính làm nên Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, thì sự khắc họa hình ảnh, thân phận
bi thương của người lính, một cách trung thực nhất đã làm nên tác
phẩm Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy. Xuyên suốt dòng văn học sử
Việt, ta thấy, dường như có rất ít cuốn truyện dài, tiểu thuyết đầu
tay nào, đóng đinh vào lòng người đọc như tác phẩm Tháng Ba Gãy
Súng. Theo lời tự bạch của Cao Xuân Huy, ông viết cuốn hồi ký Tháng
Ba Gãy Súng theo bản năng, chứ chẳng có tí tẹo về khái niệm văn
chương, văn chiếc gì ở đó. Có lẽ, Cao Xuân Huy quá khiêm tốn đến mức
không cần thiết như vậy chăng? Bởi, ngay cái tựa Tháng Ba Gãy Súng đã
được tác giả hình tượng hóa từ nỗi đau, cùng sự tan đàn xẻ ghé
của người lính, với cái lệnh rút quân một cách quái đản ở Thừa
Thiên Huế, sau khi mất Buôn Mê Thuộc. Đây là cái tựa hay. Nó như một
cái hom giỏ đã tóm được toàn bộ hồn cốt của tác phẩm vậy. Với
tôi, Tháng Ba Gãy Súng là hình tượng hoán dụ hay hơn rất nhiều cái
tựa: Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh. Vâng, thưa hương hồn bác Cao
Xuân Huy, đó là văn, là câu trả lời, khi bác cứ phân vân tự hỏi, văn
chương là cái quái quỷ gì ấy nhỉ?
Tôi nghĩ, viết
Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy đã làm không vừa lòng rất nhiều
người, trong đó có cả một số người là đồng đội của ông. Thật vậy,
sự giết chết những người đồng đội khác binh chủng của nhóm lính
thủy quân lục chiến, chỉ vì tranh giành lên tàu khi di tản, làm cho
người đọc phải rùng mình kinh sợ. Là kẻ sinh sau đẻ muộn, nên đọc
nó, tôi không thể tin đó là sự thật, song hoàn toàn không tìm ra lời
giải đáp. Và có lẽ, chỉ còn có thể an ủi mình bằng cụm từ: Chiến
tranh điều gì cũng có thể xảy ra. Đoạn trích dưới đây, Cao Xuân Huy
cho chúng ta chứng kiến lại cái giờ phút lạnh lùng và bi thương ấy:
“…Chưa kịp tìm chỗ
ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai người lính Thủy
Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném
xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí súng vào đầu một
trung úy Bộ Binh ra lệnh:
“Ðụ mẹ, có xuống
không?”
“Tôi lạy anh, anh
cho tôi đi theo với.”
“Ðụ mẹ, tao đếm tới
ba, không nhảy xuống biển tao bắn.”
“Tôi lạy anh mà,
tôi đâu có gia đình ở ngoài này.”
“Ðụ mẹ, một.”
“Tôi lạy anh mà,
anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết. Tôi lạy
anh, tôi lạy anh.”
“Ðụ mẹ, hai.”
“Trời đất, mình đồng
đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh mà.”
“Ðụ mẹ, ba.”
Tiếng ba vừa dứt,
tiếng súng nổ.
Người trung úy Bộ
Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào
từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến khác khiêng
ném xuống biển…."
( Tháng ba gãy
súng –chương 5)
Tuy nhiên, cách
nay mấy năm, khi đọc, viết phê bình cho một số nhà văn nguyên là sĩ
quan cấp tá Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và đều chỉ huy trung đoàn
ngoài mặt trận, tôi đưa ra những thắc mắc của mình. Rất may, các anh
đều viết trả lời, và giải thích khá tường tận. Nhân đây, cũng xin
phép các anh, tôi trích một đoạn bức thư ấy lên đây, để làm sáng tỏ
thêm những thắc mắc trong lòng người đọc chăng:
“2/- Về chuyện đám
lính TQLC bắn giết các quân nhân không cùng binh chủng trên các tàu di tản
(theo Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy) là chuyện có thật. Là một vết nhơ
đáng lên án…
Vì đám lính này thuộc
loại vô kỷ luật. (Có nhiều thanh niên du đảng, phạm pháp, sau thời gian thụ
xong án, cũng được đưa vào lính, bổ sung cho một số đơn vị hao hụt quân số). Với
bản chất ( xấu) ấy, lợi dụng khi đơn vị gặp lúc xáo trộn, mạnh ai nấy sống,
không còn được sự chỉ huy chặt chẽ nữa, thì những con người này trở về với bản
chất xấu của họ, giết người , cướp bóc. Vì vậy, sau khi các chiếc tàu di tản từ
miền Trung vào Nam, đã không cho cặp bến Vũng Tàu hay Sài gòn, mà tất cả được lệnh
cặp vào Đảo Phú Quốc. Một Tòa Án Mặt Trận đã được thành lập khẩn cấp tại đây, hầu
hết những người lính TQLC phạm tội đều bị xử bắn…"
Đọc và đi sâu
vào nghiên cứu, ta có thể thấy, sự thẳng thắn, dân dã của người
lính Cao Xuân Huy đã hiện lên rất đậm nét trên những trang viết của
mình. Tính hiện thực với khẩu ngữ trần trụi nhanh, dứt khoát làm
cho lời văn súc tích là bút pháp đặc trưng, xuyên suốt những tác
phẩm của ông. Tôi không dám nói, tính cách ấy, con người ấy của Cao
Xuân Huy là hình ảnh chung của người lính. Nhưng nó là một trong
những yếu tố, không thể thiếu để làm nên hình tượng người lính VNCH:
“…tôi cũng không phải
là một người lính gương mẫu, đúc khuôn theo những điều được huấn luyện trong
quân trường, thi hành đúng 8 điều, 10 điều tâm niệm của mấy ông Chiến Tranh
Chính Trị đẻ ra, mà chính mấy ông ấy lại không bao giờ thi hành. Tôi là một thằng
lính ba gai, cờ bạc, rượu chè, trai gái đủ cả, nhưng đánh giặc cũng rất tận
tình. Chưa một ai, thượng cấp cũng như thuộc cấp, phải than phiền về tôi trong
những trận đánh…” (Tháng ba gãy súng trang 6)
Nếu không có
lệnh buông súng, di tản tại mặt trận Thừa Thiên Huế, với những năm
tháng tù đày, rồi trốn chạy, tị nạn, thì có lẽ Cao Xuân Huy không
viết văn, và bất ngờ trở thành một nhà văn tên tuổi trên văn đàn.
Những trang viết ấy, như một lời tự sự, giãi bày của chính ông, của
đồng đội ông gửi đến quê hương đất nước và người đọc vậy. Không phân
bua, chạy tội, song ông cho ta thấy rõ, thân phận rẻ mạt của người
lính, và chỉ ra sự dốt nát, tàn nhẫn, hay những mệnh lệnh quái đản
của các cấp chỉ huy trong trận chiến này:
“Tại quán nhậu, tôi
gặp mấy người lính Lôi Hổ đóng tại Đà Nẵng, họ cho biết nửa khuya này họ phải
nhảy vào Ban Mê Thuột. Tôi nghĩ bụng, quả là chó má khi cố tình giết thêm một
ít người nếu đúng như họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Hy vọng điều này không
đúng với sự thật. Quyết định thí quân hay quyết định sai lầm của một cấp chỉ
huy có thể giết chết hàng đơn vị lớn cũng không đáng trách, nhưng quyết định thảy
một toán lính vào một nơi mà hàng Sư Đoàn không chống giữ nổi, kéo theo cả một
Quân Đoàn phải rút chạy thì cái chết của họ phí quá. Ai là người chịu trách nhiệm
về những cái chết kỳ cục vô ích này ? Lính cũng là người chứ đâu phải đồ chơi
cho những ông xếp lớn!” (Tháng ba gãy
súng trang 7)
Có thể nói, sau
thi sĩ, người lính Nguyễn Bắc Sơn, thì Cao Xuân Huy là người đưa nhiều
khẩu ngữ trần trụi, hay những câu đệm, chửi thề thẳng vào trang viết,
không cần gọt dũa. Tuy sinh động, và như những thước phim quay ngược
dòng thời gian đến với người đọc, song là một điều rất kị húy đối
với quan niệm văn thơ bác học từ trước đến nay. Ngôn ngữ điện ảnh
này, không còn xa lạ với văn học cũng như người đọc Âu- Mỹ. Và Cao
Xuân Huy là người đã thổi hồn nó vào Văn chương Việt, làm thay đổi
quan niệm mỹ học cho người đọc. Do vậy, văn của Cao Xuân Huy không chỉ
đến với người lính, giới bình dân, mà còn rung động cả giới trí
thức, người kén đọc. Ta có thể thấy, từ trước đến nay, phim ảnh,
kịch nghệ của Việt Nam rất ít người xem. Tôi có ông bạn mấy chục
năm, chưa khi nào xem hết một cuốn phim Việt, dù hắn cũng xuất thân
từ thứ nghệ thuật này. Có lẽ, trước nhất là ngôn ngữ phim, kịch
hiện nay, là thứ ngôn ngữ ở cõi trên, chứ không phải khẩu ngữ sinh
hoạt gần gũi thường nhật. Cho nên, phim, kịch rất rời xa với con
người, và xã hội đương thời. Lỗi này, thuộc về người viết, soạn
kịch bản chăng?. Dài dòng một chút như vậy, để ta thấy rõ, Tháng Ba
Gãy Súng của Cao Xuân Huy là một cuốn hồi ký văn học đích thực.
Bởi, nó gắn chặt với thân phận, cũng như tiếng nói và tâm tư, hành
động của người lính một cách chân thực nhất. Đoạn trích dưới đây,
không chỉ cho ta thấy, cái giá trị ngôn ngữ trần trụi bình dân ấy,
mà còn bật lên nỗi đau của người lính, trước sự hèn nhát của những
tướng tá, quan lại:
“Một nỗi buồn dâng
lên trong tôi, không khóc nhưng mắt tôi đoanh tròng. Bao nhiêu gian truân, bao
nhiêu xương máu, bao nhiêu xác người, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của bạn bè, của
anh em đồng đội tôi đã đổ xuống cho cái vùng địa đầu nghiệt ngã này. Bản thân
tôi cũng đã hai lần đổ máu ở nơi này, bây giờ bỗng chốc bỏ đi, hỏi ai là người
không tức tưởi. Đù má, những thằng chịu trách nhiệm trong vụ bỏ Huế này, lịch sử
sẽ bôi tro trát trấu vào mặt chúng! Những ai đã từng tuyên bố, từng hô hào tử
thủ Huế giờ này ở đâu?
Khốn nỗi, những thằng
đánh trận mà luôn luôn đi đàng sau và luôn luôn bỏ chạy trước lại là những thằng
có quyền, có quyền mà hèn nhát, đốn mạt nên bây giờ bao nhiêu người khốn đốn,
rút chạy như một lũ thua trận. Nhưng thực sự chúng tôi đã đánh nhau đâu để bị gọi
là thua! Đồ tiếp liệu trong Thành Mang Cá dư sức cung cấp cho Lữ Đoàn tôi ít nhất
là ba tháng, tại sao không cho chúng tôi vào Thành Nội ? Ờ mà tử thủ làm chó
gì, bao nhiêu thằng xếp cút mẹ nó hết rồi, vợ đẹp con khôn và tiền bạc bao năm
ăn bẩn không lẽ lại vứt bỏ.” ( Tháng ba
gãy súng- trang 25)
Nếu chưa đọc
những tác phẩm viết về chiến tranh, và người lính của Mikhail
Sholokhov, Trần Hoài Thư, hay Thế Uyên…thì có lẽ, tôi không thể tin,
người lính đi vào cái chết, dưới ngòi bút của Cao Xuân Huy bình thản
đến vậy. Vâng, với người lính, chiến tranh như một trò đùa chăng?.
Không, tôi không nghĩ như vậy. Bởi, sự chết chóc của người lính là
điều không thể tránh khỏi. Nó diễn ra bình thường như miếng ăn, nước
uống hàng ngày của họ vậy. Chỉ có tiếng cười, đùa tưởng chừng vô
cảm ấy mới vơi đi nỗi đau tâm lý, nỗi sợ hãi của con người. Do vậy,
đọc Cao Xuân Huy, càng cho ta thấy sự tàn khốc của chiến tranh, và
xót xa cho những thân phận mỏng mảnh của người lính:
“…cứ thế họ đặt
súng chỗ này bắn một hai quả, đặt súng chỗ khác bắn một hai quả. Vừa bắn vừa cười
nói bô bô. Một viên đạn bất ngờ ghim sâu vào ngực người lính cầm mũ sắt, quả đạn
bên tay phải rơi phịch xuống cát, mũ sắt bên tay trái văng ra xa. Một người
lính khác tay cầm mũ sắt, chạy tới nhặt quả đạn tiếp tục bắn. Người lính ôm
nòng súng nhìn người bạn vừa ngã chết, miệng cười tươi như không có gì xảy ra:
- Đụ má, chết sớm
dzậy mày?
Người xạ thủ thứ
hai rướn người lên rồi ngã xuống vì viên đạn trúng vào bụng.
Người thứ ba cầm mũ
sắt chạy ra. Vừa ra đến nơi chưa kịp bắn viên nào thì cả xạ thủ lẫn người ôm
nòng súng ngã vật ra chết. ” (Tháng Ba Gãy
Súng)
Lệnh di tản,
dưới ngòi bút của Cao Xuân Huy, ta có thể thấy, như một sự bức tử
đối với người lính chiến. Họ không chỉ chết dưới tầm đạn pháo của
địch, hay tranh giành nhau lên tàu rút chạy, hoặc đầu bị nghiền nát
bởi những cái bánh xích, mà còn ngồi tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ,
rồi tự sát bằng một quả lựu đạn nổ bung ở giữa. Cùng tự sát, với cái
chết tập thể như vậy, có thể nói là tận cùng của sự chán chường,
và bi quan. Tuy nhiên, phần nào cho ta thấy được khí tiết, cũng như sự
phản kháng của người lính.
Vâng, cái chết
của những người lính chiến ấy đọc lên, ai cũng phải xót xa, và căm
phẫn. Và có lẽ, nhìn lại chiều dài lịch sử của dân tộc, chưa có
cuộc chiến nào tàn khốc, đau thương đến vậy:
“…Dòng người chúng
tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một người khác cũng tách
dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư, người thứ năm nhập bọn, họ
ngồi tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng
tôi tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người
thứ ba, người thứ tư... nhập bọn, lại tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, lại
một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng
tôi vẫn cứ tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ
hai, người thứ ba, người thứ tư...
Tôi không thể nhớ để
mà đếm nổi là đã có bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ ở giữa những vòng tròn người
như vậy…" (Tháng ba gãy súng)
Tuy bút pháp
hiện thực, cùng khẩu ngữ dân dã, làm cho câu văn sinh động, song những
trang văn thường trải dài, thiên về cảm xúc, cho nên Cao Xuân Huy mắc
khá nhiều lỗi về câu cú. Có lẽ, đây cũng là nhược điểm chung của
dạng văn này. Câu văn dưới đây, ta có thể thấy, tác giả đã lặp lại
đến bốn lần đại từ nhân xưng tôi. Nó làm cho lời văn thừa, lòng
thòng rối rắm, và tối nghĩa:
“Ăn nhậu ở đây quá
phí tiền nên không đợi Tiểu Đoàn Trưởng gia hạn giấy phép, tôi biết chắc chắn
là tôi sẽ không được gia hạn và cũng không đợi để đi theo chuyến liên lạc, tôi
tự động coi như mình đã hợp lệ chuyện kéo dài ngày phép, tôi lên xe đo về Sài
Gòn sau một chầu nhậu say mèm với bọn đệ tử ở hậu cứ.” ( Tháng ba gãy súng- trang 4)
Tính nhân đạo qua
tiếng cười hài ước, trữ tình.
Đến với Vài Mẩu
Chuyện, ta có thể thấy, nghệ thuật cũng như bút pháp trong truyện
ngắn của Cao Xuân Huy tinh tế và sâu sắc hơn. Tính hài ước, dí dỏm
mang đến cho người đọc tiếng cười cảm thông, và chua xót. Đọc Vài
Mẩu Chuyện, trong đầu tôi bất chợt bật ra một câu hỏi: Chẳng biết,
Cao Xuân Huy và Tưởng Năng Tiến có quan hệ (huyết thống) gì hay không?
Mà cái tính phúng dụ trong truyện của hai ông nhà văn này, cho tôi
cảm xúc gần nhau lắm. Nếu ta đã cảm được nỗi đau và tình người, khi
đọc truyện ngắn Trận Cuối Cùng của Tưởng Năng Tiến, thì mới thấy
hết giá trị của hòa bình, tình yêu của con người, dù ở hai đầu
chiến tuyến trong Chờ Tôi Với. Một truyện ngắn thấm đấm nước mắt
của Cao Xuân Huy. Tôi đã đọc khá nhiều truyện ký của cả hai phía
viết về lệnh ngừng bắn, ở nơi chiến trường của những ngày đầu năm
1973. Nhưng có thể nói, Chờ Tôi Với của Cao Xuân Huy là một truyện
ngắn hay nhất về đề tài này. Cái sự cả tin của những người lính ở
cả hai phía, nơi chiến trường, phải trả bằng mạng sống của mình,
trên bàn cờ của những kẻ bán mua chiến tranh. Hình ảnh tương phản
dưới đây, không chỉ cho ta thấy, cái chết của họ (những người lính ở
cả hai phía), mà còn thấy được ngòi bút nhân bản của nhà văn. Vâng!
Nếu nói đến tàn nhẫn, thì đây là sự tột cùng của đểu cáng, và
tàn nhẫn, buộc những thanh niên, người lính Việt Nam phải gánh chịu:
“Lính hai bên ùa
lên phía trước, ôm nhau hò hét:
“Hết đánh nhau rồi!
Hết chiến tranh rồi!”
Những bộ quân phục
rằn ri miền Nam trộn lẫn những bộ quân phục cứt ngựa miền Bắc. Cố không khóc
nhưng nước mắt Toàn cứ ứa ra, không kềm được. Nhưng việc gì phải kềm chứ! Toàn
mặc cho nước mắt trào ra.
Có tiếng nghẹn ngào
bên cạnh:
“Anh khóc đấy à?”
Toàn quay qua, một
người bộ đội nước mắt cũng đang nhòe nhoẹt. Chẳng nói chẳng rằng, cả hai ôm chầm
lấy nhau…
Đêm thứ hai của
ngày hòa bình, đơn vị Toàn bị tấn công…Khi địch tràn ngập, lưỡi lê và lựu đạn
thay cho súng. Sau một lúc quần thảo bằng lưỡi lê, Toàn gập người, ngã chúi xuống
phía trước, mắt hoa đi, mũ sắt văng ra. Mất mũ là mất mạng. Phản xạ tự nhiên của
bản năng sinh tồn bật dậy, Toàn nhoài người, với… Cuối cùng, tay Toàn cũng chạm
được vào cái mũ…Mắt Toàn dại đi, cái mũ trong tay không phải là mũ sắt, mà là
mũ cối…Tiếng gào thét giết chóc vẫn vẳng vào tai cùng lúc loáng thoáng hình ảnh
Toàn sánh vai người bộ đội đồng hương lang thang bên hồ Hoàn Kiếm… Đột nhiên, một
tiếng gọi bật ra trong
đầu Toàn: Anh bộ đội
ơi, chờ tôi với….”
Chiến tranh kết
thúc, nhà tù là nơi người lính thất trận buộc phải đến. Thông
thường, hình ảnh những hung thần cai tù, quản giáo là nhân vật, đề
tài cho các nhà văn tìm tòi và khai thác. Tuy nhiên, đọc Vài Mẩu
Chuyện, ta có thể thấy, Cao Xuân Huy đã đi ngược lại lẽ thông thường
ấy. Hành động, tâm lý của con người trong chốn lao tù mới là đối
tượng, khía cạnh chính Cao Xuân Huy đưa vào những tác phẩm của mình.
Cái sự phân cấp nhìn từ đồ tiếp tế, với miếng ăn hàng ngày, trở
thành nhân cách để Cao Xuân Huy soi rọi vào tác phẩm của mình. Miếng
Ăn là một truyện ngắn được Cao Xuân Huy viết thông qua cái nhìn như
vậy. Miếng ăn dường như, đã tạo nên khoảng cách giữa những người
lính trong lao tù ấy. Tuy không phải là điển hình, nhưng tôi nghĩ, một
chi tiết nhỏ đôi khi cũng đủ làm nên một tác phẩm văn học đặc sắc.
Phải nói, nhà
văn Cao Xuân Huy có tài sử dụng hình ảnh, hình tượng so sánh ẩn dụ.
Nghệ thuật này, thường tạo nên những bất ngờ, mang đến tiếng cười
chua cay cho người đọc. Truyện ngắn Ngu Như Lợn là tiêu biểu cho thi
pháp này của ông. Đọc nó,làm tôi nhớ đến những tiếng cười (phê
phán) trong truyện ngắn của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ: Azit Nêxin. Viết về
những người lính trong tù cải tạo, dường như lời văn Cao Xuân Huy nhẹ
nhàng và sâu cay hơn. Để bóc trần giá trị con người và đạo đức trong
một cái xã hội đảo lộn tùng phèo ấy, ông đi sâu vào khai thác triệt
để đặc điểm, tính cách, mâu thuẫn diễn biến nội tâm của nhân vật.
Và tiếng cười được bật ra, khi nút thắt được cởi bỏ ở kết đoạn,
hay những con chữ cuối cùng. Thật vậy, ta có thể thấy, nếu người
bác sĩ tên Thông (trong truyện Vải bao cát) bỏ dao băm bèo cám lợn để
đi thẳng vào phòng cầm dao mổ người, thì bác sĩ Mạnh chuột (trong
truyện Ngu như lợn) phải nuôi chuột tăng gia, bà đỡ cho lợn. Những
hình ảnh điển hình bi hài này, có thể nói, như nhát dao chọc thẳng
vào ung nhọt của xã hội vậy. Một bi hài kịch trong trích đoạn
truyện Ngu Như Lợn dưới đây, không chỉ thấy tài năng nghệ thuật so
sánh của Cao Xuân Huy, mà còn cho ta tiếng cười ứa ra nước mắt, ngậm
trong nỗi đau thân phận con người, và xã hội:
“…Mạnh chuột bị gọi
lên chất vấn để bổ túc thêm cho bản lý lịch.
“Anh học đến đâu?”
“Bác sĩ.”
“Chúng tôi biết anh
là bác sĩ rồi, nhưng anh học đến đâu?”
“Bác sĩ y khoa.”
“Này, tôi không đùa
đấy nhé. Anh là bác sĩ thì chúng tôi biết rồi, nhưng anh học đến lớp mấy?”
Mạnh chuột ngớ ra.
Cán bộ y tế vừa để khoe và cũng vừa để giải thích thật cặn kẽ cho tên bác sĩ Ngụy
ngu dốt này hiểu câu hỏi:
“Tôi biết anh là
bác sĩ rồi, nhưng anh học đến lớp mấy. Như tôi cũng là bác sĩ, tôi vừa học bổ
túc xong lớp sáu…”
Nếu Tháng Ba Gãy
Súng lời văn khẩu ngữ trần trụi, thì đến Vài Mẩu Chuyện, văn của
Cao Xuân Huy nhẹ nhàng, đằm thắm hơn. Với tôi, Vải Bao Cát là truyện
ngắn hay nhất của Cao Xuân Huy. Bởi, cái chất trữ tình, với những phân
tích diễn biến tâm lý sâu sắc. Và nó là một trong những đặc điểm
làm nên truyện ngắn này, cũng như tập truyện ngắn Vài Mẩu Chuyện
của ông. Nếu ở truyện ngắn Quyền Tối Thiểu, người lính tù từ chối
được hưởng ân huệ ngủ với vợ, khi đến thăm, thì người lính tù ở
Vải Bao Cát đã mua người bạn tù bằng một bữa cơm sáng, để được cầm
đèn, và cởi quần áo cô gái trúng mảnh đạn cho bác sĩ phẫu thuật.
Cái khao khát sinh lý của người lính tù lâu ngày: “Toàn háo hức
đắm chìm theo những tưởng tượng… Bất chợt, hai mắt đang hau háu chợt dịu lại.
Lúng túng. Hai tay đang tụt quần cô gái chợt khựng lại.”. Vâng, và bàn
tay ấy dừng lại, bởi chiếc quần lót của cô gái nghèo bằng vải bao cát,
dùng để làm hầm trú ẩn trong chiến tranh. Và tình người của người
lính tù đã vượt lên cái ham muốn tầm thường ấy. Có thể nói, đây là
những trang văn trữ tình, tuyệt đẹp về những ước vọng của Cao Xuân
Huy, cũng như của cả dân tộc này:
“… Nhưng chiến
tranh đã qua rồi, chiến tranh đã qua lâu rồi mà, mọi chuyện rồi sẽ phải qua đi.
Yên tâm đi cô bé, vết thương cô sẽ lành. Mọi vết thương đều sẽ phải lành. Ngủ
yên đi cô. Thôi nhé, hãy ngủ yên và đừng sợ hãi. … Một ngày nào đó, chúng ta sẽ
không còn phải dùng bao cát để làm gì nữa. Không dùng bao cát để làm hầm trú ẩn,
không bao cát để đắp giao thông hào. Và, như những phụ nữ may mắn được sống
trong những nước không bị tan nát bởi chiến tranh, như đất nước chúng ta, cô sẽ
có lụa là mềm mại để mặc lên thân mình con gái, chứ không còn phải dùng bao cát
để làm vải che thân nữa! Chiến tranh đã hết rồi mà…” (trích Vải bao cát)
Khi người lính
được bước ra khỏi cái nhà tù nhỏ, Cao Xuân Huy đã mượn cái ham muốn
tầm thường, để thông qua truyện ngắn Trả Tiền, đề cao sự cảm thông
và tình người cao cả. Đây là truyện ngắn độc đáo, với những câu đối
thoại cực ngắn cộc lốc. Dạng truyện ngắn này khó viết, bởi tính
chặt chẽ của bố cục, và thiếu một từ, sai một chữ, truyện trở nên
nhạt phèo. Nhưng có thể nói, với truyện này, Cao Xuân Huy đã thành
công. Văn của Cao Xuân Huy không hề có sự thù hận, và yêu ghét cũng
không mang tính cực đoan. Đọc truyện ngắn Trả Tiền, cho tôi một cảm
giác như đang xem một bức tranh vậy. Có lẽ, Cao Xuân Huy muốn lật cho
chúng ta thấy có một bức tranh (xã hội) khác, con người khác, tình
người khác ở đằng sau cái xã hội thối nát, và nhem nhuốc này:
“…Tiếng gã phân
bua:
“Tôi mới được thả.
Lâu ngày… Thèm quá…”
Tên dân phòng nhỏ
giọng:
“Anh tui cũng bị mấy
năm như cha, mà đâu có tầm bậy tầm bạ như dzầy. Phải kiếm chỗ kín kín một chút
chớ.”
“Tôi cũng muốn vậy,
nhưng tiền đâu mà mướn phòng.”
“Nó lấy cha nhiêu?”
“Năm đồng.”
“Năm đồng?” Tên dân
phòng bật tiếng cười.
Quay sang phía ả
đàn bà, hắn ra lệnh:
“Trả lại tiền cho
người ta!”
--------
Ả ngập ngừng định
lên tiếng, nhưng đành im lặng trả lại tiền.
Gã đàn ông lên xe,
đạp đi. Đợi tên dân phòng đi khuất, hắn vòng lại, đến gần ả.
“Này, tôi trả lại
năm đồng.”
Ả quay lại. Cái
nhìn đậu trên mặt gã vài giây, rồi nói:
“Thôi, giữ lấy xài
đi.”
Cũng như những
người lính viết văn Phạm Tín An Ninh, hay Song Vũ… Cao Xuân Huy đến với
văn chương bởi ám ảnh, với sự thôi thúc của đồng đội (cả những
người còn sống, hay đã hy sinh). Tuy viết rất ít, nhưng có thể nói,
mỗi trang văn của Cao Xuân Huy không chỉ làm sáng tỏ cho một giai đoạn
đắng cay của Quân sử, mà còn như lời giãi bày, tình tự của ông,
đồng đội ông gửi đến người đọc. Nếu nói: Văn là người, thì chắc
chắn, tư tưởng, cách sống nhập vào hồn vía, văn phong của ông không
thể lẫn lộn với bất kỳ văn nhân, thi sĩ nào. Chính vì vậy, dù đã
đi hết cuộc đời, song Cao Xuân Huy vẫn không thể thoát ra khỏi cuộc
chiến này.
Leipzig ngày
28-4-2019
No comments:
Post a Comment