25/04/19
LTS/TL : Nhân dịp
ông Lê Đức Anh qua đời chúng tôi đăng lại bài sau đây để nhắc lại trách nhiệm của
ông Lê Đức Anh đối với đất nước trong một khúc quanh lịch sử quan trọng.
Lê Đức Anh đã là
nhân vật quyền lực nhất trong chế độ cộng sản Việt Nam trong giai đoạn Liên
Bang Xô Viết suy yếu rồi sụp đổ và nhiều năm sau đó. Quyền lực của ông có thể
còn hơn cả hai tổng bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười cùng thời với ông.
Sau khi chính thức về hưu năm 2001, Lê Đức Anh vẫn còn tiếp tục chi phối quyền
lực trong hậu trường cho đến đại hội 11 của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 2011. Với
ảnh hưởng đó Lê Đức Anh đã có thể chọn con đường dân chủ và đi vào lịch sử như
một con người mở ra một giai đoạn vinh quang cho đất nước, nhưng ông đã chọn
hàng phục Trung Quốc. Lê Đức Anh không gian nhưng thiển cận và đã đặt Đảng Cộng
Sản lên trên đất nước. Ông sẽ được nhớ tới như một người đã góp phần quyết định
đưa đất nước vào thảm kịch tụt hậu, mất chủ quyền, mất đất, mất đảo và mất biển.
Cũng cần lưu ý là
chính Lê Đức Anh và Nguyễn Văn Linh đã giúp cho Trung Quốc có mặt tại Trường Sa
từ năm 1988 sau khi đánh chiếm một số đảo của Việt Nam. Trung Quốc đã dựa vào sự
kiện này để vẽ ra đường lưỡi bò và xấc xược tuyên bố chủ quyền trên gần như
toàn bộ Biển Đông.
Nếu chính quyền cộng
sản Việt Nam làm quốc táng cho Lê Đức Anh thì đó sẽ là một xúc phạm lớn đối
nhân dân và lịch sử.
Thông Luận
*****************
Một nghi vấn về Trường Sa
Nguyễn Gia
Kiểng, tháng 3/2013
So với những thiệt
hại mà Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã gây ra cho đất nước việc Mạc Đăng Dung
dâng đất cầu hòa hồi thế kỷ 16 chẳng thấm vào đâu.
Hai người có trách nhiệm lớn nhất trong chọn lựa phục tùng Trung Quốc, mà
sự nhượng bộ tại Trường Sa là hệ quả, là Nguyễn Văn Linh (trái) và Lê Đức Anh
(phải).
Tháng 3 này là tròn
25 năm ngày hải quân Trung Quốc đánh chiếm nhiều đảo đá ở Trường Sa làm 64 chiến
sĩ hải quân Việt Nam thiệt mạng. Đây là dịp để đặt ra một câu hỏi lớn và nghiêm
trọng : Trung Quốc đã thực sự lấn chiếm Trường Sa hay đã có thỏa hiệp ?
Thỏa hiệp có thể chỉ
là một thỏa hiệp ngầm không thành văn tự, mà có thể cũng không cần được nói ra
một cách minh bạch để ai đó có thể ghi lại nguyên văn trong một báo cáo hay một
hồi ký. Nó có thể là sự hiểu ngầm giữa hai bên sau nhiều trao đổi.
Đàng nào thì câu hỏi
cũng rất nghiêm trọng. Nếu câu trả lời là Trung Quốc đã thực sự đánh chiếm Trường
Sa thì có lý do gì để Việt Nam chủ trương "giữ nguyên trạng" trên Biển
Đông như lời ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và hơn thế nữa còn trân trọng tình
hữu nghị "4 tốt, 16 chữ vàng" ?
Còn nếu ban lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận, dù là thỏa thuận ngầm, nhượng cho Trung Quốc một
phần Trường Sa thì họ đã mang một tội vô cùng lớn. Không phải chỉ là tội phản
trắc đối với các chiến sĩ hải quân đã hy sinh tính mạng. Cũng không phải chỉ là
tội làm mất một số đảo đá mà còn là, và nhất là, tội đã làm mất quyền lợi vô
cùng lớn của Việt Nam trên Biển Đông. Trước năm 1988 Trung Quốc không có mặt tại
Trường Sa, chỉ sau khi đã lấy được một số đá của Việt Nam họ mới có lý cớ để vẽ
ra cái lưỡi bò liếm gần hết Biển Đông. Tình trạng này đặt Việt Nam trong thế phải
mãi mãi tranh chấp với Trung Quốc trên một vùng biển đáng lẽ ra đương nhiên là
của mình.
Trung Quốc đánh chiếm
đảo Gạc Ma 1988 - VTV 15/03/2016
Trước mọi thảo luận
chúng ta có thể khẳng định hai điểm.
Một là, đối với các
chiến sĩ hải quân đã chiến đấu tại Trường Sa ngày 14/03/1988, nhất là đối với
64 người đã hy sinh, Trung Quốc đã lấn chiếm thực sự và họ đã chiến đấu để bảo
vệ tổ quốc. Sự hy sinh của họ phải được ghi nhận trọn vẹn. Nhưng họ có thể
không biết những tính toán của ban lãnh đạo cộng sản.
Hai là chắc chắn ít
ra đã có sự chấp nhận, dù là miễn cưỡng, để Trung Quốc chiếm một số đá trong
vùng của Việt Nam để có mặt tại Trường Sa. Bằng cớ là Trung Quốc đã đưa hải
quân đến Trường Sa ngay từ đầu năm 1988 và trong hai tháng 1 và 2 đã chiếm nhiều
đá trong khu vực thuộc Việt Nam nhưng chính quyền cộng sản Việt Nam đã hoàn
toàn không có phản ứng nào. Nếu họ dừng lại ở đó thì đã không có vấn đề gì. Hải
chiến chỉ đã xảy ra ngày 14/03/1988 khi Trung Quốc tấn công ba đảo đá mà hải
quân Việt Nam đang trấn giữ: Gạc Ma, Len Đao và Cô Lin.
Các diễn biến tại
Trường Sa đã xảy ra như thế nào ? Theo những tài liệu của chính quyền Việt Nam
thì từ đầu năm 1988 hải quân Trung Quốc đã đến vùng Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 31/01 họ chiếm đá Chữ Thập phía Bắc đảo Trường Sa Đông, ngày 18/02 chiếm
đá Châu Viên, ngày 26/02 chiếm đá Ga Ven sâu trong khu vực Việt Nam ngay kế bên
đảo Nam Yết, ngày 28 chiếm đá Tư Nghĩa (Hughes) kế cận và ở giữa hai đảo Sinh Tồn
và Sinh Tồn Đông. Chính quyền Việt Nam hoàn toàn không có phản ứng nào dù những
đá này đều là những đá mà Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền và thuộc hải phận Việt
Nam tính từ các đảo mà Việt Nam đã có chủ quyền từ lâu. Sự im lặng này không thể
có giải thích nào khác hơn là một sự chấp nhận, nếu không phải là một thỏa hiệp
từ trước.
Đầu tháng 3, Trung
Quốc lại tăng cường thêm lực lượng hải quân lên đến 12 tầu chiến. Ngày 14/03 hải
quân Trung Quốc tiến đánh các đá Gạc Ma, Len Đao và Cô Lin, bắn chìm ba tầu
HQ-604, HQ-505 và HQ-605 đang trấn giữ. Lực lượng quá chênh lệch đã khiến hải
quân Việt Nam không gây được một thiệt hại nào cho phía Trung Quốc. Điều lạ là
dù đã đánh bại hoàn toàn lực lượng phòng vệ Việt Nam Trung Quốc chỉ chiếm đá Gạc
Ma, được coi là có vị trí quan trọng nhất, mà không chiếm hai đá Len Đao và
Cô-Lin. Ngày 23/03 họ chiếm thêm đá Xu Bi. Mãi đến ngày 31/03, vào lúc trận chiến
đã chấm dứt hẳn từ hai tuần rồi, một lực lượng nhỏ của hải quân Việt Nam mới được
điều động đến nơi nhưng cũng tránh đụng độ với tầu Trung Quốc.
Những sự kiện quá
không bình thường trong biến cố này buộc người ta phải đặt câu hỏi phải chăng
giữa lãnh đạo hai bên đã có thỏa hiệp.
Tại sao chính quyền
cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn không có phản ứng nào, kể cả lên tiếng phản đối,
trong suốt hai tháng đầu năm 1988 khi Trung Quốc tuần tự chiếm đóng đá này rồi
đá khác trong khu vực của mình ? Cũng nên biết là chính quyền cũng như các cấp
lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước cũng như sau biến cố này,
chỉ có bộ ngoại giao ra một tuyên bố phản đối có lệ ngày 14/03. Rồi thôi.
Tại sao Trung Quốc
mặc dù đã đánh bại hoàn toàn hải quân Việt Nam lại chỉ chiếm đá Gạc Ma chứ
không chiếm hai đá Len Đao và Cô Lin ? Sau này bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố
rằng họ lấy làm tiếc rằng đã có sự "hiểu lầm" để xẩy ra đụng độ chứ họ
không có ý định đánh chiếm những đảo và đá mà Việt Nam có đóng quân (dầu vậy họ
vẫn giữ Gạc Ma). Như vậy nếu "hiểu đúng" thì họ có thể chiếm các đá
khác mà không xẩy ra đụng độ ? Người ta càng có thêm lý do để tin rằng đã có thỏa
hiệp.
Câu hỏi lớn nhất là
tại sao không quân Việt Nam đã không tham chiến dù chỉ cách Trường Sa một giờ
bay và có thừa khả năng tiêu diệt nhanh chóng toàn bộ lực lượng hải quân Trung
Quốc có mặt tại trận lúc đó mà không chịu một thiệt hại nào. Trường Sa nằm
ngoài tầm hoạt động của không quân Trung Quốc, các tầu chiến Trung Quốc tại đó
cũng quá sơ sài để có thể đương đầu với máy bay chiến đấu. Lý do chỉ có thể là
vì không quân Việt Nam đã nhận được lệnh cấm tham chiến và lệnh này chỉ có thể
đến từ ông Lê Đức Anh, lúc đó vừa là bộ trưởng quốc phòng vừa là cánh tay mặt của
tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nên lấn át cả ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch về mặt đối
ngoại. Mặt khác Trung Quốc cũng phải tin là không quân Việt Nam sẽ không can
thiệp mới dám hành động như thế.
Tất cả những sự kiện
trên đây đã quá đủ để tin là giữa hai chính quyền đã có thỏa hiệp để Trung Quốc
chiếm một phần Trường Sa, nhưng bối cảnh quan hệ Việt Trung vào lúc đó còn hỗ
trợ hơn nữa giả thuyết này.
Cần nhớ lại là chiến
thắng 30/04/1975 đã khiến Đảng Cộng Sản Việt Nam hân hoan đến mức gần như mất
trí. Họ tin mình là thiên tài, chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng, phong
trào cộng sản do Liên Xô lãnh đạo sắp thành công đến nơi, chủ nghĩa tư bản đang
giãy chết. Họ đặt điều kiện để cho phép Mỹ được bình thường hóa quan hệ ngoại
giao. Lúc đó họ đã đứng hẳn về phía Liên Xô trong cuộc xung đột giữa hai đàn
anh, quan hệ của họ đối với chế độ cộng sản Trung Quốc đã chuyển sang thế kình
địch. Trong Đại hội IV cuối năm 1976 của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Trung Quốc
không gửi phái đoàn sang tham dự. Dầu vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam bất chấp Trung
Quốc. Đại hội IV đã là đại hội liên kết toàn diện và tuyệt đối với Liên Xô,
thách thức cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc. Tháng 11/1978 Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gia nhập khối COMECON và ký hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô ; tháng
sau quân Việt Nam tràn qua Campuchia và đánh gục chế độ Khmer Đỏ thân Trung Cộng.
Tháng 2/1979 Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. Mặc dầu bị thiệt hại nặng,
chế độ cộng sản Việt Nam huênh hoang là đã chiến thắng ; họ hoàn toàn tin tưởng
vào hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô. Năm 1980 một hiến pháp mới của Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành với lời nói đầu coi "bọn bá
quyền Trung Quốc" là kẻ thù. Năm 1982 tại Đại hội đảng lần thứ 5, các phần
tử bị coi là thân Trung Quốc bị thanh trừng, trong đó có cả Nguyễn Văn Linh. Bản
điều lệ đảng cũng được sửa đổi để tuyên chiến với Trung Quốc.
Sự thức dậy đã rất
kinh hoàng. Liên Xô sụp đổ thay vì toàn thắng. Tháng 4/1984 Trung Quốc tung đợt
tấn công thứ 3 kéo dài hơn ba tháng vào Việt Nam, với cao điểm là trận Lão Sơn
được Trung Quốc coi là một chiến thắng lịch sử của họ trong đó báo chí Trung Quốc
cho biết là ba quân đoàn của họ đã đánh gục ba sư đoàn Việt Nam. Hà Nội cầu cứu
Liên Xô để chỉ được trả lời rằng Liên Xô đã kiệt quệ và Việt Nam nên cố gắng để
thương thuyết với Trung Quốc. Lúc đó Liên Xô đang sa lầy thê thảm tại
Afghanistan, Brezhnev đã chết và Andropov đang cố gắng hòa giải với Trung Quốc.
Trong cơn hoảng loạn tuyệt vọng đó, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã âm
thầm lấy quyết định đầu hàng, và đối sách với Trung Quốc đã thay đổi hẳn từ
tháng 7/1984. Xấc xược nhường chỗ cho khúm núm, thách thức nhường chỗ cho van
xin. Hà Nội khẩn khoản xin hòa và Trung Quốc đắc thắng làm cao.
Năm 1985 Nguyễn Văn
Linh, người đã thất sủng vì thân Trung Quốc, được đưa trở lại bộ chính trị và
làm thường trực ban bí thư, năm sau lên làm tổng bí thư. Trung Quốc chỉ chấp nhận
nói chuyện với những cấp lãnh đạo Việt Nam do họ chọn. Trong cuốn Hồi Ức và Suy
Nghĩ của ông Trần Quang Cơ, thứ trưởng ngoại giao đặc trách quan hệ Việt Trung,
tiết lộ : "từ năm 1980 đến năm 1988 ta đã ngót hai mươi lần đề nghị đàm
phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ". Đúng ra là từ 1984, vì trước đó Việt Nam
không sợ Trung Quốc. Còn 1988 ? Đó là năm Trung Quốc xâm chiếm Trường Sa.
Có mọi xác xuất Trường
Sa đã là cái giá mà chế độ cộng sản Việt Nam phải trả để được bình thường hóa
quan hệ đối với Trung Quốc. (Theo Trần Quang Cơ thì phải nói là để được lệ thuộc
Trung Quốc mới đúng). Người ta có quyền và phải tin như thế vì chỉ hai tháng
sau, ngày 25/05/1988, bộ chính trị họp và ra Nghị Quyết 13 khẳng định phải
"phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có
thể giải quyết sau". Các nghị quyết chiến lược của bộ chính trị đều được
chuẩn bị rất lâu trước khi công bố. Tháng 9, hiến pháp Việt Nam được tu chỉnh để
bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù. Thật là kỳ diệu, Trung Quốc không còn là kẻ
thù sau khi đã đánh chiếm Trường Sa ! Cũng kể từ đó đàm phán giữa hai bên đã
tăng vận tốc để nhanh chóng tiến đến tình hữu nghị "4 tốt, 16 chữ
vàng".
Cho dù có những dữ
kiện hội tụ đến đâu đi nữa thì cho đến khi các hồ sơ được mở ra và các nhân chứng
có đủ mạnh dạn để nói hết những điều họ biết, đây cũng chỉ mới là một giả thuyết,
dù là một giả thuyết gần như chắc chắn đúng, nhất các tiết lộ lẻ tẻ của những người
trong cuộc ngày càng xác nhận chính ông Lê Đức Anh đã ra lệnh cho không quân
không được can thiệp.
Điều hoàn toàn chắc
chắn là đụng độ đã chỉ xẩy ra và bộ ngoại giao Việt Nam đã chỉ lên tiếng phản đối
vì Trung Quốc đánh vào ba đá Gạc Ma, Len Đao và Cô Lin ngày 14/03/1988. Nếu
Trung Quốc chỉ chiếm những đá khác, như họ đã làm trong hai tháng trước đó, thì
tất cả đã êm xuôi. Như thế thì phải kết luận rằng đàng nào ban lãnh đạo cộng sản
Việt Nam cũng đã chấp nhận để Trung Quốc lấy một số đá của Việt Nam để hiện diện
tại Trường Sa. Sự kiện này đặc biệt nghiêm trọng vì nếu không có sự hiện diện
này thì Trung Quốc hoàn toàn vắng mặt tại nửa phía Nam của Biển Đông và không
có lý cớ gì để tuyên bố Biển Đông là vùng "quyền lợi cốt lõi" của họ.
Trận hải chiến chung quanh Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao không cần thiết cho Trung
Quốc và có thể chỉ là một dàn dựng, do phía Việt Nam yêu cầu, có mục đích cho
phép ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam biện luận trước nhân dân Việt Nam rằng
Trung Quốc đã đánh chiếm Trường Sa chứ không phải họ đã dâng đảo. Một lần nữa
không nên để cây che khuất rừng, điều nghiêm trọng nhất và vô cùng tai hại cho
Việt Nam là Trung Quốc đã có mặt tại Trường Sa để có lý cớ đòi quyền lợi trên
phần lớn Biển Đông, và điều này ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã chấp nhận. Họ
phải chịu trách nhiệm.
Nước ta là một dải
bờ biển. Biển là tài sản lớn nhất của chúng ta. Tài sản đó đang bị đe dọa vì chủ
trương đầu hàng Trung Quốc của ban lãnh đạo đảng cộng sản. Không phải là không
có chọn lựa nào khác. Một chọn lựa khác, hiển nhiên cho quyền lợi dân tộc, là
thẳng thắn bắt tay với Hoa Kỳ, Châu Âu và các nước dân chủ để được các thị trường
lớn, các nguồn đầu tư, các cơ hội chuyển giao kỹ thuật và đồng thời được bảo vệ
bởi công pháp quốc tế để có thể có quan hệ hợp tác lành mạnh với Trung Quốc.
Ban lãnh đạo cộng sản đã từ khước chọn lựa hiển nhiên đó bởi vì nó đòi hỏi phải
từng bước dân chủ hóa, nghĩa là sau cùng từ bỏ độc quyền chính trị. Đối với họ
giữ độc quyền chính trị là mục tiêu duy nhất, quyền lợi dân tộc nếu có cũng chỉ
đi rất sau quyền lợi của Đảng. Trường Sa chỉ là một thí dụ.
Hai người có trách
nhiệm lớn nhất trong chọn lựa phục tùng Trung Quốc, mà sự nhượng bộ tại Trường
Sa là hệ quả, là Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh. Họ là hai người quyền lực nhất
lúc đó và cũng là hai người quả quyết nhất trong chủ trương này. So với những thiệt
hại mà họ gây ra cho đất nước, việc Mạc Đăng Dung dâng đất cầu hòa hồi thế kỷ
16 chẳng thấm vào đâu. Nhưng họ cũng đã chỉ hành động như mọi lãnh tụ cộng sản
Việt Nam khác. Trước họ, Hồ Chí Minh, qua Phạm Văn Đồng, đã ký công hàm nhìn nhận
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc để được viện trợ trong cuốc nội chiến.
Sau họ, Lê Khả Phiêu đã ký hiệp định nhường cho Trung Quốc hàng ngàn kilômet
vuông trên đất liền và hàng chục ngàn kilômet vuông trên biển để được yên thân.
Các lãnh tụ cộng sản đều được đào tạo và sàng lọc như nhau qua các thế hệ theo
cùng một khuôn mẫu Stalin, một khuôn mẫu khủng bố trong đó quyền lực là tất cả
và tổ quốc vắng mặt.
Từ Hồ Chí Minh, Lê
Duẩn, Lê Đức Thọ đến Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng qua
Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đỗ Mười, họ có thể xung đột với nhau, thậm chí căm
thù nhau nhưng họ đều giống nhau trên ít nhất hai điểm : họ đều đặt quyền lực của
đảng lên trên hết và trước hết và đều chống dân chủ. Lợi ích dân tộc nếu có
cũng chỉ là thứ yếu. Họ có thể làm những điều khó tưởng tượng để giữ lấy quyền
lực. Họ đều tin rằng nhân dân Việt Nam thù ghét họ và sẽ bỏ phiếu sa thải họ nếu
được chọn lựa tự do. Nguyễn Minh Triết đã chỉ phát biểu lập trường chung của
ban lãnh đạo cộng sản khi ông ta nói "bỏ điều 4 là ta tự sát". Họ
không thể liên kết với các nước dân chủ bởi vì như thế cái giá phải trả cuối đoạn
đường là dân chủ. Não trạng đó buộc họ phải phục tùng Trung Quốc, không phải để
có chỗ dựa mà chủ yếu là để được nhẹ tay trong thế cô lập tuyệt vọng. Dù trong
thâm tâm không ai thực sự yêu Trung Quốc.
Phải hiểu não trạng
này để ý thức rằng không thể hy vọng có dân chủ chỉ bằng những yêu cầu và kiến
nghị. Người ta có thể ủng hộ Đảng Cộng Sản vì quyền lợi cá nhân nếu muốn nhưng
không nên ngộ nhận bản chất của nó. Đảng Cộng Sản không phải là một đảng yêu nước.
Nguyễn Gia Kiểng
(tháng 03/2013)
No comments:
Post a Comment