Saturday, June 5, 2010

NGHẸN vì "TRĂNG NGHẸN"

Nghẹn vì “Trăng Nghẹn”

Viết bởi Trần Việt Trình

Thứ sáu, 04 Tháng 6 2010 20:06

http://www.vietvungvinh.org/index.php?option=com_content&view=article&id=995:nghen-vi-trang-nghen&catid=46:chinh-tri-vietnam&Itemid=82

Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,
Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.

.

Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.

.

Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.

.

Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.

.

Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.

.

Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.

.

Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.

.

Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.

.

Trên đây là bài thơ Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong. Bài thơ được chấm giải nhất mà không được lãnh giải đã gây xôn xao dư luận trong nước thời gian gần đây. Đó là cuộc thi thơ do Liên Hội Văn Học Nghệ Thuật (VHNT) các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long phối hợp tổ chức luân phiên 3 năm 1 lần. Cuộc thi năm 2009 do thành phố Cần Thơ đăng cai. Trong thời gian phát động kéo dài 9 tháng, từ ngày 1 tháng 2 đến ngày 31 tháng 10 năm 2009, đã có 915 bài của 255 tác giả gửi dự thi. Kết quả bài Trăng Nghẹn của Hoài Tường Phong ở Cần Thơ đoạt giải nhất. Bài thơ Trăng Nghẹn đã làm cho chính quyền … mắc nghẹn!

“Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn” là sao? “Đồng bằng quê hương tôi … Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất, và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa” nghe sao bi quan thế? Chưa hết, “Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê” tác giả muốn ám chỉ gì đây? Không! Không được! “U ám quá!”. “Tối tăm quá!”. “Giới thẩm quyền” của Cần Thơ bèn yêu cầu ban giám khảo loại bài này và chọn bài khác để trao giải Nhất. Họ cho rằng “Trăng thì phải sáng, thậm chí rất trong sáng chớ không thể nào nghẹn được”. Ban giám khảo quyết định không chấm lại. Thấy không được, “giới thẩm quyền” quay sang tác giả. Ông Hoài Tường Phong cho biết Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Thành phố Cần Thơ Phan Huy yêu cầu ông làm đơn từ chối giải thưởng với lý do “Tác giả không có gởi thơ dự thi”. Hoài Tường Phong giữ vững lập trường khẳng định “Tôi đã gửi dự thi”. Thấy cũng không xong, Chủ tịch Hội lại yêu cầu ông làm đơn xin từ chối giải thưởng với lý do “Bài thơ có nhiều câu chữ không phù hợp với tiêu chỉ cuộc thi”. Ông trả lời “Đó là việc thẩm định của Ban Giám khảo”.

.

Ông Hoài Tường Phong cho biết, một lần ông được “giới thẩm quyền” cho xem tờ giấy ghi ý kiến của một nhà thơ ở Hà Nội đề nghị ông sửa lại bốn câu cuối. Sửa bốn câu thì ông không chịu nên lại được đề nghị sửa một chữ ở câu cuối, sửa chữ “chưa” thành chữ “sẽ” hoặc “chờ”, “chưa tỏa sáng” thành “sẽ tỏa sáng” hoặc “chờ tỏa sáng” để “thể hiện ý chí phấn đấu và lòng tin”. Ông Hoài Tường Phong nói thẳng với Chủ tịch trao giải thì ông nhận, không trao thì thôi, ông không bỏ giải. Có nhiều người gọi điện thoại ủng hộ quyết định của ông, ông chân chất thổ lộ “Bài thơ được một vài người nhận xét là có cảm xúc chân thành, chứ không phải xuất sắc gì”. Ông ngao ngán tiếp lời “Thơ là làm cho mình, ai chia sẻ hay không là quyền của người ta”.

.

Đọc bài Trăng Nghẹn chúng ta thấy những câu thơ rất chân chất, thật đơn sơ, mộc mạc như hương đồng gió nội của miền đồng bằng sông Cửu Long. Bài thơ nói lên được một thực trạng và từ thực trạng đời sống ấy bộc lộ được tâm trạng của tác giả .Tác giả sinh năm 1945, vào một đêm mưa gió thật sự nên không thể viết là trăng sáng được, nó cũng báo hiệu cuộc đời vất vả của ông sau này. Nghề làm răng giả hiện nay của ông chỉ đủ sống qua ngày. Vợ ông bán thức ăn ở chợ. Ba đứa con thì hai đứa lớn đã ra riêng, còn con gái út ở chung cũng chỉ buôn bán lặt vặt. Ngày trước vì ở quê nghèo ông phải bôn ba lên Sài Gòn kiếm sống. “Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen” là tâm trạng của ông. Ngày nay, “Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ. Lớp phèn hết bám chân ... tranh thủ những tháng hè ... về lại thăm quê” để thấy “Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi: Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất, Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất, và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa”.

Phê phán bài Trăng Nghẹn là bi quan, đen tối, nói xấu Đồng bằng sông Cửu Long ư? Bài thơ không có gì u ám, đen tối như người ta vu cho nó. Sự thật là vậy! Ngày trước miền Đồng bằng sông Cửu Long “Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất”, ngày nay dân ở nhiều xã bị đói phải ăn cháo thay cơm, thanh niên phải vay nợ đi làm công, thiếu nữ phải đi làm đầy tớ ở nước người, các em bé gái bị ép buộc làm nô lệ tình dục ở các động bên Kampuchia, phụ nữ phải rời bỏ quê nhà đi làm vợ, làm điếm khắp nơi trên thế giới, bệnh HIV lan rộng, thì tại sao chính quyền địa phương lại không dám nhìn thẳng vào vầng trăng u ám đó, vào chính cái nghèo đói tả tơi của cả vùng đồng bằng đang đẩy con người rời bỏ quê hương? Tại sao chính quyền CSVN họ vẫn trơ tráo che đậy, không cho ai nói lên sự thật? Mà che đậy làm gì? Thế giới đâu còn lạ lùng gì nữa! Trăng Nghẹn đã làm giới chức có thẩm quyền “mắc nghẹn”, đã làm cho họ mất ăn mất ngủ vì sợ mất ghế, mất chỗ ăn trên ngồi tróc. Họ mắc nghẹn vì Trăng Nghẹn đã phơi bày ra sự thật quá đỗi đau đớn, quá sức xót xa của một vùng quê từng vang bóng là vựa lúa của cả nước.

.

Chiều ngày 3 tháng 3, bất chấp sự phản đối của giới văn học trong nước, ban thường vụ Liên Hội VHNT thành phố Cần Thơ đã họp và chính thức quyết định loại bỏ giải nhất của bài thơ Trăng Nghẹn. Điểm đáng chú ý đây là giải thưởng của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, vậy mà một Hội văn nghệ địa phương đã lộng quyền áp chế cả một khu vực. Rõ ràng đây là một sự lạm quyền và lộng quyền thô bạo chưa từng có của một hội văn nghệ địa phương. Thật không còn gì để nói! Thật đáng ghê sợ và ghê tởm sức mạnh cùng sự thô bỉ của “giới thẩm quyền”!

.

Sáng ngày 14 tháng 4, sau những xôn xao kéo dài trong dư luận, Liên hiệp các hội VHNT thành phố Cần Thơ cuối cùng đã tổ chức lễ trao giải cho các tác giả tham gia cuộc thi thơ. Kết quả chỉ có 2 giải nhì, 3 giải ba và 5 giải khuyến khích. Không có giải nhất. Tác phẩm Trăng Nghẹn của tác giả Hoài Tường Phong được ban giám khảo cuộc thi chấm giải nhất ngày 20 tháng 2 đã bị loại, không được trao giải.

.

Trước nay, ở trong nước, các cuộc thi văn học nghệ thuật đều bị chính quyền khống chế và thường thì bịcan thiệp ngay từ đầu, chẳng hạn như đề nghị tác giả rút khỏi danh sách dự giải, nếu không chính quyền cũng không ngần ngại làm công việc tự loại bỏ. Còn một khi kết quả đã công bố rồi mà còn lấy lý do này lý do nọ để gạt đi thì là chuyện chưa từng có. Một khi ban giám khảo đã chọn trao giải cho một tác phẩm, mọi người cần phải tôn trọng sự đánh giá ấy. Ban giám khảo đã làm theo quy trình văn học nhưng rõ ràng họ chịu áp lực phi văn học. Trăng Nghẹn đã được chấm theo qui trình của một giải thưởng văn học, dù chỉ là giải thưởng cấp tỉnh, chính quyền sau đó lại dùng một qui trình khác, phi văn học để giải quyết vấn đề văn học thì quả là phản nghệ thuật, phản văn học, và bỉ ổi! Sức mạnh phi văn học (và vô văn hoá) đã đánh bật văn học!

.

Văn học phải được phát triển bởi tự thân nó chứ không thể có cơ quan nào định hướng và khống chế. Đó là ở các nước Tự Do. Ở Việt Nam, hội nhà văn hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp nên nhiệm vụ chủ yếu là phải tuyên tuyền cổ động cho các chủ trương của Nhà nước. Hội trung ương thì tuyên truyền cho Chính phủ, các bộ các ngành, hội địa phương thì tuyên truyền cho ủy ban tỉnh và thành phố. Các giải thưởng cũng không ngoài mục đích đó. Hội nhà văn VN không phải sinh ra để trao các giải thưởng văn học mà để trao các giải tuyên truyền cổ động. Phải là một bài nào đó ca ngợi cuộc sống trong thời kỳ đổi mới. Phải viết về công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về phát triển và hội nhập của đất nước.

Sau 20 năm “đổi mới” văn học, nhiều người nhẹ dạ cứ lầm tưởng những sự can thiệp của chính quyền không còn nữa, nhưng điều đó vẫn xảy ra! Dưới chế độ cộng sản, văn học tuyên truyền là mục tiêu hàng đầu và là vũ khí tối cần thiết nên CSVN không bao giờ nhân nhượng một lề thói tư duy nào có hại cho con đường đi tới của họ. Nếu như những người có trách nhiệm ở địa phương biết xấu hổ vì sự kém cỏi ở địa phương và nếu như những người có trách nhiệm trên bình diện quốc gia biết xấu hổ vì sự kém cỏi của họ thì tình hình nước nhà đã đổi khác. Chế độ CSVN mang nợ rất lớn đối với tổ tiên và dân tộc. Đó là món nợ đã vùi dập bao thế hệ văn nghệ sĩ bằng chính sách kiểm soát điên cuồng ở miền Bắc, và cái tội thiêu hủy cả một nền văn học 20 năm muôn màu vạn trạng của miền Nam qua phong trào đốt sách năm 1975 khi họ chiếm được miền Nam, và treo bút, vùi dập, tù đầy, đầy đoạ những văn nghệ sĩ miền Nam còn kẹt lại.

Trần Việt Trình
4 tháng 6 năm 2010

.

.

.

No comments: