Đăng bởi anhbasam on 16/11/2009
http://anhbasam.com/2009/11/16/362-d%c6%a1n-ki%e1%ba%bfn-ngh%e1%bb%8b-g%e1%bb%adi-ubtvqh-c%e1%bb%a7a-ts-nguy%e1%bb%85n-quang-a/
Kính gửi các phương tiện thông tin đại chúng,
Căn cứ vào Luật Khiếu nại và Tố cáo, tròn một tháng trước, ngày 16-10-2009 tôi đã có gửi một kiến nghị đến Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội (37- Hùng Vương- Hà Nội). Xin gửi các quý vị bức thư đó trong tệp đính kèm. Tôi cũng gửi kèm theo biên nhận về việc gửi bức thư đó (file pdf). Cho đến ngày hôm nay, 16-11-2009, tôi không hề nhận được bất cứ hồi âm nào:
không nhận được biên nhận chứng tỏ rằng UBTV Quốc Hội đã nhận được bức thư đó;
không nhận được chính bức thư đó (nếu giả như không có người nhận thì Bưu điện phải gửi lại cho người gửi);
không nhận được bất cứ hồi âm nào từ UBTV Quốc hội.
Tôi chưa rõ vì sao, do lỗi của “cô văn thư” hay “ông/bà Bưu điện” hoặc UBTVQH không muốn trả lời. Tôi sẽ làm rõ với Bưu điện sau.
Tôi hy vọng không phải là vì lý do sau cùng. Chính vì thế tôi nhờ các phương tiện thông tin đại chúng công bố bức thư ngày 16-10-2009 của tôi và đề nghị quý bạn đọc chuyển đến cho từng thành viên của UBTV Quốc Hội (do đã công bố nên các tài liệu đính kèm nêu trong thư ngày 16-10-2009 không được gửi kèm theo email này).
Xin chân thành cảm ơn.
Nguyễn Quang A
——————————-
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Hà nội ngày 16-10-2009
Đơn kiến nghị Ủy Ban Thường Vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành
Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
và trình Quốc hội bãi bỏ quyết định đó
Kính gửi: Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Căn cứ vào:
- khoản 2, Điều 1,[1] các Điều 2, Điều 9, Điều 16, Điều 57, Điều 85 và 86 của Luật Khiếu nại Tố cáo (1998, sửa đổi 2004);
- các khoản 2, 4 Điều 67 của Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật (sửa đổi 2008, có hiệu lực 1-1-2009);[2]
- Nghị quyết số 71/2006/QH11 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO);[3]
Tôi, công dân Nguyễn Quang A, chứng minh thư nhân dân số 11542826, hộ khẩu tại 19, Đoàn Nhữ Hài, Hoàn Kiếm, Hà Nội, khẩn thiết kiến nghị Ủy Ban Thường Vụ Quốc hội:
1) Xem xét ra quyết định đình chỉ việc thi hành Quyết định 97/2009/QĐ-TTg theo thẩm quyền của Quý Ủy Ban được quy định tại (điểm 5)[4] Điều 7 của Luật Tổ chức Quốc hội số 30/2001/QH10 và trình Quốc hội bãi bỏ Quyết định 97/2009/QĐ-TTg theo (điểm 9)[5] Điều 2 của Luật Tổ chức Quốc hội số 30/2001/QH10;
2) Trả lời tôi bằng văn bản về việc thụ lí và giải quyết đơn này theo quy định của Điều 34 và Điều 36 của Luật khiếu nại tố cáo[6];
3) Giám sát để ngăn chặn khả năng các cơ quan quyền lực có thể trù dập, đe dọa, trả thù tôi và buộc họ phải thi hành nghiêm Điều 16 của Luật khiếu nại tố cáo[7].
Lý do: Ngày 24-7-2009 Thủ tướng chính phủ đã kí ban hành Quyết định 97/2009/QĐ-TTg. Việc xây dựng, thẩm định dự thảo Quyết định 97/2009/QĐ-TTg đã vi phạm nghiêm trọng trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Nghị quyết số 71/2006/QH11 của Quốc hội và tại Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật sửa đổi 2008 (cụ thể là đã không tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; và đã không đưa dự thảo lên trang thông tin điện tử ít nhất 60 ngày để lấy ý kiến)[8]; (đó là chưa đề cập đến các sai phạm nghiêm trọng về nội dung của Quyết định 97/2009/QĐ-TTg mà một phần đã được phân tích trong kiến nghị ngày 6-8-2009 của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS gửi Thủ tướng Chính phủ [xem văn bản đính kèm]).
Xin gửi Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội lời chào trân trọng.
Nguyễn Quang A
[1] Khoản 2 Điều 1 của Luật Khiếu nại tố cáo viết: “công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại… quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
[2] Các khoản 2 và 4 của Điều 67. “Xây dựng, ban hành quyết định của Thủ tướng Chính phủ” của Luật này viết:
…..
2. Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm đăng tải toàn văn dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.
Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo, cơ quan soạn thảo gửi dự thảo lấy ý kiến của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan.
…..
4. Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu ý kiến của cơ quan thẩm định, ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chỉnh lý dự thảo và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
[3] Nghị quyết số 71/2006/QH11 của Quốc hội (có hiệu lực thi hành từ 11-1-2007) nêu rõ:
“… Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới.
Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm” …
Theo Phụ lục đính kèm:
“Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Cơ quan chủ trì soạn thảo phải đăng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ trên Trang tin điện tử của Chính phủ và dành thời gian không ít hơn 60 ngày, kể từ ngày đăng dự thảo để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý vào dự thảo”.
[4] Điểm 5 của Điều 7 quy định Ủy Ban Thường vụ Quốc hội có quyền “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”;
[5] Điểm 9 của Điều 2 quy định Quốc hội có quyền “Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”
[6] Điều 34 quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đơn phải thông báo bằng văn bản cho tôi biết việc thụ lí có được tiến hành hay không, nếu không phải nêu lí do; Điều 36 (sửa đổi 2005) quy định thời hạn giải quyết không được quá 30 ngày (trong mọi trường hợp không được quá 45 ngày) kể từ ngày thụ lí.
[7] Điều 16 quy định: “Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại, tố cáo;…”
[8] Tôi cũng đã có một thư ngỏ ngày 27-9-2009 gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp phân tích việc này (đáng tiếc không có tờ báo chính thức nào đăng), và một thư đảm bảo gửi ông Bộ trưởng ngày 1-10-2009 mà ông đã nhận được ngày 2-10-2009; sau 14 ngày (luật quy định không quá 10 ngày) tôi chưa nhận được trả lời của Bộ trưởng. Xin đính kèm thư đó và 1 bài phân tích chi tiết của tôi đã gửi đến 2 tạp chí của Bộ KHCN và Bộ Tư pháp nhưng không được đăng.
———————-
* Biên lai chuyển phát nhanh:
UBTVQH_ChungTu_GuiThu_16_10_2009
* Các báo khác:
Cc: Bauxite
No comments:
Post a Comment