Từ Khâm sứ, Thái Hà nhìn ra Biển Đông: Hai việc làm, một bản chất, hai thái độ
J.B Nguyễn Hữu Vinh (Hà Nội)
Thứ Năm, ngày 11 tháng 6 năm 2009
http://www.vietvungvinh.com/Portal.asp?goto=VietNam/2009/20090611_01.htm
Hiểm họa xâm lăng đã rõ và thái độ của nhà nước
Khi những ngư dân Hậu Lộc đánh cá trên biển Việt Nam bị Trung Quốc (TQ) bắn chết ngày 8/1/2005, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam (VN) tuyên bố: “Việt Nam đã yêu cầu phía Trung Quốc có các biện pháp tích cực nhằm ngăn chặn và chấm dứt ngay những hành động sai trái trên, cho điều tra và xử lý nghiêm những kẻ bắn chết người". Và chỉ có thế.
Từ đó đến nay, TQ có “điều tra, xử lý” hay không thì VN cũng không hề hay biết, những ngư dân xấu số thì vẫn chịu cái chết oan khuất ngay trên mảnh đất Tổ Quốc mình bởi súng đạn ngoại bang. Nhưng, những người phản đối TQ đã bị cảnh sát VN giải tán không thương tiếc.
Khi TQ tuyên bố thành lập Tam Sa bao gồm lãnh thổ Việt Nam, VN phản ứng bằng cách cho người phát ngôn Bộ Ngoại giao: “Phản đối việc TQ thành lập TP hành chính Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam quản lý ba quần đảo trên biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của VN, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước".
Chẳng biết “nhận thức chung của lãnh đạo hai nước” là nhận thức nào, chỉ biết rằng nếu không có lãnh đạo TQ ra lệnh, hẳn TQ chẳng bao giờ có động thái càn rỡ tuyên bố lấy đất của thiên hạ làm nhà của mình.
Như vậy, nghĩa là lãnh đạo cộng sản TQ cũng vẫn sử dụng con bài nói một đằng, làm một nẻo. Và như vậy, ẩn chứa đằng sau “16 chữ vàng” của nhà cầm quyền TQ là gì?
Người ta chỉ mới thấy được rằng, đằng sau “16 chữ vàng” là Ải Nam quan đã biến mất về tay TQ. Thác Bản Giốc được chia đôi. Hoàng Sa và một phần Trường Sa đã “được” TQ “thống nhất quản lý” – nói theo ngôn ngữ của nhà nước Việt Nam khi nói về đất đai Công giáo.
Phẫn uất trước lãnh thổ thiêng liêng của đất nước, cơ đồ ngàn năm của cha ông bị xâm lăng, đã có nhiều người tập trung phản đối trước ĐSQ và Lãnh sự quán TQ. Nhà cầm quyền VN đã cho công an đã thẳng tay trấn áp và giải tán. Ông Lê Dũng giải thích: “Đây là việc làm tự phát, chưa được phép của các cơ quan chức năng VN. Khi vụ việc trên xảy ra, lực lượng bảo vệ của VN đã kịp thời có mặt, giải thích và yêu cầu bà con chấm dứt việc làm này".
Việc “giải thích” của lực lượng bảo vệ đó ra sao thì những hình ảnh đã có rất nhiều trên mạng Internet. Thậm chí một số người chỉ mang đề can ghi hàng chữ “Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam” như nhà văn Trang Hạ cũng đã bị bắt, câu lưu và thẩm vấn. Người ta đã tự phải hỏi nhau: “Lần sau, muốn không bị bắt, thì phải mang khẩu hiệu Trường Sa, Hoàng Sa là của TQ chăng?”
Những hình ảnh và động thái này, chắc chắn nhà cầm quyền TQ nắm rõ.
Nếu nhân dân không “tự phát” để chờ đợi nhà nước VN cho phép biểu tình hoặc tổ chức phản đối, thì chắc phải đợi đến “mùa quýt”?
Trước những phản ứng yếu ớt và vô vọng của VN cũng như những hành động khó hiểu là trấn áp lòng yêu nước của nhân dân trước mưu đồ bành trướng, TQ càng được thể lấn lướt.
Càng ngày họ càng gia tăng các bước tiếp theo của mưu đồ xâm lược. Không chỉ về lãnh thổ, mà cả những đối tác làm ăn của VN trên đất nước mình cũng đã bị nhà cầm quyền TQ đe dọa và can thiệp.
Hiện nay, hàng loạt tàu thuyền đánh cá VNđ ã bị nhà cầm quyền TQ ngang ngược ra lệnh “Cấm” đánh cá trong vùng biển VN. Những tàu ra khơi đã bị rượt đuổi và đâm chìm bởi “tàu của nước ngoài”(!).
Ngư dân đói dài trong mùa cá, tàu thuyền về bãi nằm phơi nắng. VN đã phản ứng bằng cách “giao thiệp” với Đại sứ quán TQ và “đề nghị phía TQ không có các hoạt động cản trở công việc làm ăn bình thường của ngư dân VN trên vùng biển thuộc chủ quyền của VN” - Theo lời Lê Dũng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN.
Người ta thấy lạ. Tại sao VN lại phải “đề nghị” với TQ khi chính nhà cầm quyền TQ đang ngang ngược xâm phạm cố ý chủ quyền đất nước ta mà không phải là “yêu cầu” hay “đòi hỏi”. Tại sao lại phải “giao thiệp” với ĐSQ TQ mà không phải là “triệu hồi” và đưa công hàm phản đối như ngôn ngữ thường dùng trong các trường hợp tương tự trên bình diện Quốc tế? Tại sao?
Những phản ứng thể hiện vị thế kẻ yếu, kẻ hèn ngay từ trong ngôn ngữ lạ tai như “đề nghị, giao thiệp” khi sự vi phạm chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc đã rõ ràng và nghiêm trọng đã là thông điệp để những âm mưu xâm lược, bành trướng không dừng lại ở mức độ này là có cơ sở.
Nếu như ngày mai, TQ ra lệnh cấm nông dân VN trồng lúa trên đất của mình, để dành đất cho sản xuất bô-xit, cấm sản xuất hàng tiêu dùng để dùng hàng TQ, cấm VN khai thác dầu khí để họ khai thác… thì VN có lại tiếp tục “đề nghị” và “giao thiệp” hay không?
Ai dám chắc chắn rằng hôm nay TQ cấm được ngư dân VN đánh cá trên biển VN, thì ngày mai TQ lại không cấm nông dân làm lúa trên đất liền VN?
Tất cả những điều này, đã thể hiện thái độ của một nhà nước đã nhu nhược trước mưu đồ bành trướng nước lớn ngang ngược của TQ đối với VN ngày càng rõ ràng, hoặc nói đúng hơn là lãnh thổ quốc gia, tinh thần dân tộc đã bị coi nhẹ?
Người dân Việt trong nước và khắp nơi đã luôn luôn quan tâm đến chủ quyền quốc gia và lãnh thổ cha ông đã tốn núi sông xương máu để lại. Vì vậy tất cả những gì liên quan đến vận mệnh đất nước đều được chú ý.
Những hành động và lời nói chính thức từ nhà nước, đã buộc người ta phải có những xem xét về cách hành xử với các vụ việc trong và ngoài nước có gì khác nhau. Người ta chứng kiến thái độ của nhà nước trước bọn bá quyền TQ trái ngược thái độ của nhà nước với những gì đã xảy ra trong lòng đất nước.
Hai sự việc, những điều tương ứng
Trong các đơn thư gửi tới nhà cầm quyền VN đòi lại đất đai, tài sản của mình bị chiếm đoạt, Tòa TGM Hà Nội và Giáo xứ Thái Hà luôn khẳng định “có đầy đủ bằng chứng thực tế và giấy tờ chứng minh” tài sản, đất đai đó là của mình. Nhưng nhà cầm quyền Hà Nội đã bất chấp, áp đặt ý muốn chủ quan của mình là chiếm đoạt bằng được khối tài sản có nguồn gốc của Giáo hội Công giáo.
Khi đó nhà nước đã tuyên bố “đất đai do nhà nước thống nhất quản lý”, hoặc áp đặt Nghị Quyết 23/QH/2003 để không trả lại. Mặc dù nhà nước đã không có một thứ giấy tờ nào hợp pháp khi chiếm giữ khu đất đó cũng như đất đai tôn giáo đã bị chiếm đoạt đó không nằm trong bất cứ diện nào của Nghị quyết nói trên.
Điều này làm người ta liên tưởng đến việc nhà cầm quyền cộng sản TQ cũng đòi “quản lý” Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Trong khi giấy tờ, bằng chứng xác định chủ quyền thì “VN có đầy đủ” – Theo Lê Dũng. Bất chấp các cơ sở, bằng chứng thực tế và lịch sử, nhà cầm quyền TQ cộng sản đã dùng vũ lực để đánh chiếm bằng được quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN với sức mạnh của nòng súng đầy tàn bạo.
Sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Giáo hội Công giáo đang có đơn từ theo đúng thủ tục pháp luật, nhà cầm quyền Hà Nội đã cắt đứt quá trình đối thoại, dùng sức mạnh của cảnh sát, chó nghiệp vụ và hàng loạt cán bộ, cũng như nhân tài vật lực hùng hậu để cưỡng chiếm và làm hai vườn hoa Tòa Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà một cách nhanh chóng đặc biệt đầy sự khó hiểu đến lạ lùng.
Mới đây, sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm TQ tại hội nghị Bác Ngao với những trở về lời lẽ đầy phấn khởi, TQ đã ra lệnh cấm đánh bắt trên biển VN. Và ngay lập tức, những đoàn tàu đánh cá VN bị rượt đuổi đến tuyệt vọng trên biển.
Khi nhà cầm quyền Hà Nội chiếm đoạt đất đai Tòa Khâm sứ, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội tuyên bố: “cực lực phản đối và yêu cầu chấm dứt ngay hành động phong tỏa và phá hoại tài sản… đồng thời trả lại nguyên trạng khu đất để phục vụ cộng đồng…” và “Chúng tôi có quyền sử dụng những khả năng có thể để bảo vệ tài sản của chúng tôi”.
Lời tuyên bố của Tòa TGM Hà Nội về “quyền sử dụng những khả năng có thể để bảo vệ tài sản” của mình là một phản ứng hoàn toàn cần thiết và đúng đắn khi tài sản của mình bị xâm phạm. Điều đó hoàn toàn đúng với pháp luật và được lẽ phải, công lý ủng hộ. Chỉ những kẻ ươn hèn mới không dám “sử dụng những khả năng có thể” để bảo vệ tài sản của mình mà thôi. Nhưng lời tuyên bố này đã bị quan chức Việt Nam và báo chí VN coi như đó là một sự thách thức và lấy đó làm cớ nhục mạ và xuyên tạc trước cộng đồng dân tộc.
Phải chăng vì trót đã lên án Đức TGM Hà Nội, nên nhà cầm quyền VN đã không thể tuyên bố “sử dụng những khả năng có thể” để bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng của TQ mà chỉ “đề nghị” và “giao thiệp”
Khi VN “giao thiệp” và “đề nghị” TQ không cản trở ngư dân trên vùng biển chủ quyền VN thì được nhà cầm quyền TQ đáp lại đầy trịch thượng: “Lệnh cấm đánh cá ở Biển Đông là không thể bàn cãi".
Điều này làm người ta nhớ lại điều 1 của Nghị quyết 23/QH/2003: “Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất”
Có phải vì nhà cầm quyền TQ chưa biết sử dụng Nghị quyết 23 để khẳng định: “TQ không thừa nhận việc đòi lại đất đai mà TQ đã quản lý trước năm 2009” nên Việt Nam còn có lý do để đòi lại?
Khi TGM Ngô Quang Kiệt thẳng thắn khẳng định “quyền tự do tôn giáo không phải là ân huệ xin – cho” và phát biểu chân thành ước nguyện của mình xây dựng đất nước lớn mạnh thoát khỏi nỗi nhục của người Việt Nam khi đi nước ngoài bị kỳ thị, thì đã được báo chí, quan chức nhà nước xuyên tạc và bóp méo. Để rồi Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND TP Hà Nội ngang xương ra “công văn cảnh cáo” lạ đời(!)
Mới đây, Việt Nam và Malaysia nộp cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hiệp quốc một báo cáo chung về thềm lục địa kéo dài liên quan tới hai nước thì TQ cũng đã “cảnh cáo: chớ có đụng vào biển Nam Trung Quốc”.
Hai sự việc trên, tuy ở cấp độ khác nhau, một về quan hệ giữa các quốc gia, một về quan hệ giữa nhà nước và tổ chức cộng đồng tôn giáo ngay trong lòng đất nước.
Nhưng cả hai đã cùng được hành động với phương thức: “Sức mạnh vũ lực là chân lý, đối thoại chỉ là con bài thời cơ”.
Phải chăng, đó là lý thuyết chung của những nhà nước cộng sản, lý thuyết sử dụng sức mạnh bạo lực?
Chỉ tiếc rằng, sức mạnh và bạo lực được mua sắm từ những đồng tiền của người dân đã không được đem ra bảo vệ đất nước và nhân dân khi cần thiết trước bọn xâm lược. Ngược lại, đã được đem ra thi thố trước mặt dân lành trong nước.
Vài điều dị biệt
Người ta thấy lạ ở một điều, với mảnh đất Tòa Khâm sứ, Giáo xứ Thái Hà và hai phiên tòa Sơ, Phúc thẩm 8 giáo dân, nhà cầm quyền Hà nội đã huy động hàng ngàn cảnh sát, chó nghiệp vụ, máy móc tối tân, trang bị tận răng dùi cui, hóa chất… để đối phó.
Với lực lượng hùng hậu như vậy, người ta nghĩ rằng đất nước chúng ta không thể thiếu người, thiếu phương tiện để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Nhưng khi Hoàng Sa rồi Trường Sa bị xâm lược, khi ngư dân bị bắn chết, khi nhân dân bị đuổi chạy tán loạn phải về nằm nhà, thì tịnh không thấy bóng lực lượng đó cùng những trang thiết bị kia đâu để bảo vệ họ.
Phải chăng, những đội quân ấy, những công cụ ấy chỉ nhằm để diễu võ dương oai sẵn sàng trấn áp nhân dân trong nước mà thôi?
Nhưng, đứng trước hàng rào sắt, cảnh sát và chó với những dụng cụ bạo lực, là hàng ngàn giáo dân Công giáo yên bình không một tấc sắt trong tay, hiền hòa cầu nguyện nói lên nguyện vọng của mình một cách anh dũng.
Trước sự đe dọa súng đạn của TQ, chính phủ VN đã chỉ “giao thiệp” và “đề nghị” một cách yếu ớt.
Một điều khác lạ hơn nữa, là theo lời của Lê Dũng, những người dân “tự phát” đều có mặt qua hai sự việc này. Chỉ khác một điều là những người dân “tự phát” biểu thị lòng yêu nước bị trấn áp thẳng tay, còn những người tự phát…tiền, thì được dùng vào việc quấy nhiễu nơi thờ tự, đe dọa giết người cả đêm, gây rối nơi tôn nghiêm và bệnh viện cho phù hợp với tên gọi là “những kẻ vô đạo”.
Vài lời kết
Một đất nước muốn khẳng định vị thế của mình, thì yếu tố cần thiết nhất là giàu và mạnh. Tuy nhiên, để có thể giàu và mạnh, thì cần nhất là sự đồng tâm, đoàn kết. Muốn đoàn kết không thể bằng con đường trấn áp, hay bạo lực. Một nhà nước không thể mạnh khi trong ngoài lục đục, trên dưới không yên, thiên hạ bất đồng, nhân tâm ly tán.
Những hành động vừa qua đã đạt được kết quả gì và hậu quả gì trong lòng dân tộc và đất nước? Đó là điều bất cứ kẻ cầm quyền nào cũng nên suy nghĩ để tự xét mình mà điều chỉnh hành vi. Một sự nhân nhượng, hi sinh nếu có cho chính gia đình mình, anh em mình dù lớn, bao giờ cũng có ý nghĩa hơn nhiều sự hạ mình hèn hạ trước kẻ thù dù rất nhỏ.
Có thể có người cho rằng “việc này đã cũ” như lời ông Phó Trưởng ban Tôn giáo chính phủ Nguyễn Thanh Xuân đã nói.
Nhưng, cũ hay mới là từng sự việc và tính chất cụ thể.
Những việc tưởng như mới, nhưng bản chất nó đã bộc lộ từ lâu, người ta không lạ. Điển hình như việcTQ cấm ngư dân trong biển VN dù mới xảy ra, nhưng trước đó chúng biết rất rõ rằng những người phản đối TQ xâm lược đã bị trấn áp bởi chính công an VN. Vì vậy, chúng chẳng còn phải lo ngại nhân dân Việt Nam, còn chính phủ Việt Nam chỉ “đề nghị” và “giao thiệp” thì càng chẳng có gì đáng ngại.
Có con thỏ nào trước nanh vuốt của con cọp đói mồi lại “đề nghị anh đừng ăn thịt tôi” mà có kết quả hay không?
Một việc khác là dự án khai thác bôxit ở Tây Nguyên, bây giờ bàn dân thiên hạ mới biết và tưởng mới. Nhưng thực ra là việc đã cũ, người TQ đã vào Tây Nguyên, dân Tây Nguyên đã phải dọn nhà đi cho dự án. Đến khi nhân dân cả nước được biết thì mới tá hỏa: Nóc nhà Đông Dương đang có nguy cơ trở thành nơi để các “đồng chí anh em” phương bắc vốn ngàn đời chưa bao giờ từ bỏ âm mưu thôn tính đất nước ta đứng chân.
Có thể mọi việc cũng sẽ êm xuôi như Trần Đình Đàn đã tiên đoán: “Quốc hội sẽ hoàn toàn ủng hộ việc khai thác bôxit”. Dự đoán này không phải không có cơ sở, vì trong Quốc hội Việt Nam, 92% đại biểu là đảng viên cộng sản, mà việc khai thác bôxit đã là “chủ trương lớn của đảng” thì có đảng viên nào dám chống lại không?
Nếu đúng như lời của Trần Đình Đàn “tiên tri”, thì khi “bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược” – Theo Hiến pháp VN năm 1980- vào khai thác, canh giữ Tây Nguyên, với thế chiến lược gọng kìm, đất nước chúng ta sẽ được sống thêm vài ngàn năm Bắc thuộc.
Và một vấn đề đã cũ, nhưng vẫn còn rất mới, đó là dã tâm xâm lược đất nước chúng ta bởi những cái đầu nóng Trung Nam Hải, thì muôn đời nay vẫn còn mới.
Bên cạnh đó lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam dù bất cứ lứa tuổi, tôn giáo, vùng miền nào vẫn luôn luôn cháy bỏng khi được đánh thức.
Khi người dân đã nhìn rõ bộ mặt thật của thù và bạn, khi ngọn lửa yêu nước được đốt cháy lên, nó sẽ “nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Hà Nội, Ngày 12 tháng 6 năm 2009
J.B Nguyễn Hữu Vinh
No comments:
Post a Comment