Tuesday, June 23, 2009

NGƯỜI TRUNG QUỐC LAO ĐỘNG CHUI Ở VIỆT NAM

Người Trung Quốc lao động chui ở Việt Nam, vấn nạn và nguyên do
Lê Diễn Đức
24/06/2009 1:00 sáng
http://www.talawas.org/?p=6509
Vấn nạn người nước ngoài lao động “chui” nơi nào cũng có.
Điều nghịch lý là chuyện này xảy ra ở Việt Nam, một xứ nghèo, thu nhập tính theo đầu người nằm vào các quốc gia ở cuối bảng của thế giới. Hơn nữa, bản thân người Việt cũng đang khốn khổ vì thiếu việc làm. Theo VietNamNet ngày 5/06/2009, chỉ trong quý I, đội quân thất nghiệp đã kết nạp thêm khoảng 64 ngàn người và cả năm nay sẽ có thêm tới ba trăm ngàn. Đây mới chỉ là con số chính thức.
Song song, hàng trăm ngàn người Việt phải bỏ ra số tiền từ năm, bảy đến cả chục ngàn đôla cho môi giới chỉ để kiếm được một công việc phổ thông, cực nhọc ở nước ngoài. Họ bị lừa gạt, bị bóc lột và vô số trường hợp phải bỏ của chạy lấy người, chấp nhận tha phương cầu thực với một tương lai vô định.

Đúng ra, phải dân từ các quốc gia nghèo tìm cách qua những nơi giàu có hơn để kiếm tiền. Ai đời, nước chảy ngược! Những người nước ngoài lao động ở Việt Nam đông nhất lại là dân Đại Hán, tiềm lực kinh tế hàng đầu thế giới, chỉ ho một phát là đàn em Ba Đình run rẩy chân tay.
Báo chí trong nước cho hay, theo kết quả rà soát từ tháng 5 đến tháng 6, chưa có con số đầy đủ, nhưng Sở Công an Thành phố Hồ Chí Minh ước tính có khoảng 5 vạn, trong đó có 10.480 người được cấp thẻ tạm trú. Ngoài ra, ở Hà Nội có 15.537 người và hàng chục ngàn khác tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Nam, Lâm Đồng, Cà Mau…
Đây là một con số khủng khiếp cho bất cứ nước nào, đừng nói tới Việt Nam, thậm chí đối với cả những nước thuộc Liên hiệp châu Âu (EU) mở cửa thị trường lao động tự do cho các nước thành viên khác.
Ở các nước, đơn vị kinh doanh nếu có tuyển lậu người nước ngoài thường chỉ với số lượng ít, kín đáo, nhằm tránh con mắt xoi mói, kiểm tra. Còn ở Việt Nam hiện tại, mọi thứ đều khơi khơi, công nhân Trung Quốc làm việc, sinh hoạt tập thể ngay trước mũi chính quyền. Có nơi như tỉnh Quảng Nam, nguyên cả làng công nhân Trung Quốc tồn tại từ mấy năm nay.

Càng nghĩ càng thấy xứ Việt hôm nay toàn chuyện kỳ lạ, quái đản. Ông Phan Quốc Thái ở Cục quản lý Xuất nhập cảnh Bộ Công an mà còn tự nhận rằng, việc quản lý “không giống ai“.
Buồn cười hơn nữa, vấn đề này được đưa ra bàn ở kỳ họp Quốc hội vừa rồi, khi bị chất vấn, bà Bộ trưởng Lao động Nguyễn Thị Kim Ngân đùn đẩy trách nhiệm rất ranh ma. Trong khi các ông nghị gật và phóng viên báo chí cũng mù tịt nên không vạch ra được cái ranh ma ấy. Bà ta ranh ma hay cũng dốt nát luôn thì tôi không rõ lắm.
Ở bất cứ quốc gia nào, bộ trưởng lao động cũng là người chịu trách nhiệm trước chính phủ về chính sách lao động. Tôi không nghĩ rằng, bà Ngân hàng ngày vào cơ quan chỉ ngồi tỉa lông mày, đánh phấn, tô môi. Nhưng nghe bà ta van xin Quốc hội sớm ban hành luật lao động thấy mà ngán ngẩm.
Nếu đúng với nghĩa một quốc hội bình thường thì bất kỳ dân biểu nào cũng có quyền đưa ra sáng kiến, dự thảo một bộ luật trình cho quốc hội. Ở các nước dân chủ, nhiều bộ luật thông qua được mang tên dân biểu đó luôn. Là bộ trưởng, dưới trướng có hằng hà đa số tiến sĩ, giáo sư, bà Ngân không làm chuyện đó thì ai, sao lại đòi Quốc hội? Như vậy, cái gọi là Quốc hội này không bình thường, không được tự phép ra luật. Bà Ngân nói vậy có nghĩa là phải chắp tay xin mấy ông ở Bộ Chính trị Đảng phê duyệt trước.
Các dân biểu kêu trời về nguồn cấp visa cho người Trung Quốc quá dễ dãi nên không quản lý được số lượng vào. Đại đa số vào Việt Nam bằng visa du lịch rồi ở lại làm việc luôn. Thế là Bộ Lao động có cớ đổ lỗi cho Bộ Nội vụ, Bộ Nội vụ đẩy qua Bộ Ngoại giao, y chang con nít.

Thông thường mỗi quốc gia có chính sách riêng, nhưng quy trình thủ tục về việc cho phép người nước ngoài làm việc na ná như nhau.
Công ty tuyển dụng (bất luận dạng nào, nội địa, liên doanh hay 100% vốn nước ngoài) muốn tuyển người nước ngoài qua làm việc thì trước hết phải ưu tiên cho người bản xứ. Công ty đó phải đăng tải trên báo tại địa phương nơi có ý định cho người nước ngoài làm việc, nói rõ lý do, yêu cầu về số lượng, nghề nghiệp, công việc, thời gian, lương bổng, v.v… Một số nước bắt buộc phải đưa lên mạng tìm việc làm và niêm yết tại Sở Lao động. Sau thời gian quy định, nếu ở địa phương đó không có ai quan tâm, đơn vị tuyển dụng mới nộp hồ sơ lên cơ quan quản lý lao động xin giấy phép. Cấp nào cấp giấy phép thì tuỳ theo quy định của từng nước, nhưng trên cơ sở một chính sách thống nhất toàn quốc. Có giấy phép, đương sự sẽ đến đại diện ngoại giao tại nước mình cư ngụ để xin visa lao động.
Trong các loại visa, xin visa lao động là khó nhất, được cấp có thời hạn, ít khi quá một năm, gia hạn cũng không kém phần phức tạp. Vào bằng visa du lịch mà được chuyển sang visa lao động là chuyện rất hi hữu. Khi cấp visa du lịch hoặc business rất nhiều quốc gia ghi rõ luôn trên visa “No work” hay ”Employment prohibited” (không được lao động).
Dù có giấy phép, cơ quan ngoại giao vẫn có thể từ chối cấp visa lao động nếu như phát hiện đương sự có vấn đề không minh bạch. Cửa kiểm soát thứ hai là biên phòng. Nơi đây, sĩ quan cửa khẩu có quyền chất vấn và quyết định cuối cùng, có đồng ý cho đương sự nhập cảnh hay không. Với những trình tự đã nêu và số liệu được đưa vào máy vi tính lưu trữ, không có khó khăn gì khi muốn thống kê số người nước ngoài vào lao động bao nhiêu, ở đâu, v.v… Cái vụ này thiết nghĩ nhà cầm quyền Hà Nội rất giỏi vì đã có kinh nghiệm cập nhật tên tuổi những phần tử thù địch với chế độ, khó ai thoát khỏi con mắt của an ninh cửa khẩu.

Nghe ông Phạm Quốc Thái than mới thấy “ở nước ta thì ngược lại“. Người nước ngoài (tất nhiên trừ các phần tử non grata, bị ghi sổ đen) bằng các loại visa khác nhau nhập cảnh vào rồi mới đi trình báo, đăng ký, xin giấy phép. Ông Nguyễn Văn Tiến, Chánh Thanh tra Bộ Lao động nói rằng, “thông thường họ làm việc được ba tháng mới xin giấy phép. Có những lao động gần kết thúc hợp đồng mới xin phép“. Thảo nào, loạn là phải!

Thế ở các nước khác người ta làm gì với những người lao động bất hợp pháp?
Nói chung, nước nào cũng hạn chế tối đa tuyển dụng người nước ngoài làm việc để bảo vệ thị trường nội địa. Một số nước chỉ giới hạn trong những ngành kỹ thuật, công nghệ cao. Ngay như Pháp, Đức cũng còn chưa mở thị trường lao động cho công dân một số thành viên khối cựu cộng sản, mặc dù các nước này đã gia nhập EU và đi lại tự do trong 27 nước thuộc không gian Schengen.
Ở các nước, thanh tra lao động địa phương và của Bộ lao động thực hiện kiểm tra tính hợp pháp của người lao động. Người nước ngoài làm việc không có giấy phép là phạm pháp, bị phạt tiền, tạm giữ, đưa ra toà. Khi toà án có phán quyết trục xuất, thủ tục tiếp theo thuộc về Sở Ngoại kiều/Bộ Nội vụ.
Thế nhưng, biện pháp trừng phạt cá nhân chưa đủ răn đe. Trong nhiều trường hợp không dễ dàng trục xuất vì không xác minh được căn cước của đương sự. Để khắc phục yếu tố này, các nước đánh mạnh vào các đơn vị tuyển dụng, bằng cách phạt tiền rất nặng, chịu hết nổi luôn và nếu vi phạm ở mức độ lớn, nghiêm trọng có thể bị thu hồi giấy phép kinh doanh. Cho nên, các công ty đàng hoàng, có danh tiếng rất sợ tuyển dụng lậu người nước ngoài.
Trong khi đó, ở Việt Nam, cũng theo ông Chánh Thanh tra Nguyễn Văn Tiến, khi phát hiện có lao động làm việc không giấy phép, “chỉ phạt hành chính và kiến nghị chủ sử dụng xin phép cho người lao động“.
Đúng là không có một chút kỷ cương phép nước nào.

Tôi không phải là người nghiên cứu về luật lao động, nhưng đã đi nhiều nước và từng va chạm với vấn đề này. Từ kinh nghiệm bản thân, tôi chỉ có thể phác hoạ những nét cơ bản với mục đích cho mọi người thấy rằng, nếu muốn làm đến nơi đến chốn, hoạch định một chính sách lao động xuyên suốt, tìm đối sách chẳng có gì quá khó khăn. Khó chăng là có muốn làm hay không thôi.

Như đã nói, Việt Nam “không giống ai“. Ăn thì thích nhiều, nhưng làm lại lười biếng vì sợ trách nhiệm, căn bệnh thâm căn cố đế của quan chức Việt Nam thời cộng sản. Càng để nhập nhằng bao nhiêu, càng dễ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Ngoài ra, càng có nhiều khe hở, khó kiểm soát, thì cơ hội tham nhũng, tư túi càng nhiều, Bộ Lao động, Ngoại giao hay Nội vụ, ai cũng có phần cả.

Vì thế mới có chuyện bàn tùm lum ở Quốc hội, nhưng rồi đâu lại vào đấy. Bao nhiêu vụ chất vấn, biểu diễn cho bà con xem xong đã tan thành mây khói. Nếu ai chóng quên, tôi xin nhắc lại kỳ họp trước. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân bị chất vấn lên bờ xuống ruộng về số tiền chính phủ trợ cấp cho người nghèo trong dịp Tết bị ăn chặn. Cứ tưởng phen này có những con chuột tham nhũng bị lôi ra xử. Thế mà, cho đến nay chẳng còn ai nói tới, kể cả báo chí. Tất cả im như thóc!

Về người Trung Quốc lao động bất hợp pháp, tôi mới chỉ nói qua vấn đề thủ tục, để thấy nguyên do nằm ở đâu và những tác hại với thị trường lao động Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống người nghèo. Tôi chưa đề cập đến an ninh xã hội. Chỉ cần vào trang VieNamNet, cơ quan truyền thông chính thống của CHXHCN Việt Nam ở chuyên mục Xã hội thôi, chúng đã thấy bao điều nhiễu nhương, đảo lộn cả cuộc sống, văn hoá làng thôn của người Việt ở những nơi có nhiều công nhân Trung Quốc.
Còn về an ninh quốc phòng. Chúng ta đã biết rất nhiều nhận định qua vụ bauxite, tôi không cần phải nói thêm.

Ông Lê Thanh Phong, phó bí thư tỉnh uỷ Lâm Đồng, một đệ tử của ông Thủ tướng Dũng, kết thúc bài viết giúp tôi bằng câu nói vừa bạc nhược vừa ngu xuẩn của ông ta: “Do quan hệ quốc tế của hai bên, không phải muốn làm gì cũng được“. ■

© 2009
http://ledienduc.wordpress.com
© 2009 talawas blog

Các tư liệu và lời trích trong bài dẫn được lấy từ: BBCvietnamese.com9/05/2009-Vietnamnet Online15/02;12/04;26/05/2009;22/06/2009 - Sài Gòn Tiếp thị Online 1/06/2009.

No comments: