Về nơi hoang dã: Sáu tâm hồn Việt ở Tahoe...
Nguyễn-Khoa Thái Anh
Đăng ngày 18-5-2009
http://danchimviet.com/articles/1132/1/V-ni-hoang-da-Sau-tam-hn-Vit--Tahoe/Page1.html
APRIL is the cruellest month, breeding
Lilacs out of the dead land, mixing
Memory and desire, stirring
Dull roots with spring rain.
Winter kept us warm, covering
Earth in forgetful snow, feeding
A little life with dried tubers.
...
(T.S. Eliot - The Waste Land)
Tháng Tư là tháng tàn khốc nhất, sản sinh
trên dãy đất chết những bụi hoa tử dinh hương
Trộn lẫn dục vọng và ký ức, mưa làm sống dậy chùm rễ khô.
Mùa đông giữ ấm chúng ta, bao che
Mặt đất với lớp tuyết lãng quên, nuôi củ rễ khô cằn
bằng sự sống nhỏ.
...
Bài thơ The Waste Land (Miền Đất Hoang Phế -1922) của thi sĩ, văn sĩ, nhà soạn kịch Anh gốc Mỹ đa tài (ông đổi sang quốc tịch Ăng lê năm 39 tuổi, đoạt giải Nobel Văn chương năm 1948) T.S. Eliot (1888-1965) dài trên 430 dòng. Nhưng có lẽ câu được trích dịch nhiều nhất trong bài thơ là: "April is the cruellest month" Tôi xin mượn ý mấy câu ngắn ngủi đầu bài thơ này để dẫn nhập nỗi niềm của một tâm hồn lạc lõng nói lên sự tồn đọng khốc liệt của tháng Tư và sự tái sinh của mùa Xuân chưa đến (nhưng hy vọng sẽ đến). Trong mấy câu thơ tạp ghi sau đây xin được nhắc đến chuyện ký ức một lần nữa nhưng sẽ không quên gieo hạt cho mùa Xuân nẩy mầm.
Tháng Tư độc địa vừa qua
Đem theo nó mùa Xuân
Vội vàng
Chôn đi những ký ức
đen, đen tối...
Khi người ta lỡ dại, lỡ dại ở lại,
và người lỡ dại ra đi
nhưng không quên cội nguồn
của sự đau khổ
Băm tư (34) mùa Xuân năm cũ
Nhiều người hồ hỡi
Nhiều người tuyệt vọng
Ai người hy vọng?
Ai người hoang mang?
Bao nhiêu người xây dựng mãi một mùa Xuân không tới?
Mỗi năm định kỳ như kinh cầu hồn phải có
Lại nhắc đến chuỗi ngày
tang thương của kiếp người
Lớn lên trong lửa đạn
Một phần tư thế kỷ
Tôi hỏi:
Hằng triệu người
Hy sinh
Mạng
sống
Để làm gì?
Rồi từng mùa Xuân đến
Đừng nên tưởng nhớ
Cớ sao ăn mừng
Mấy mươi năm vùi dập cơ thời?
Thờ ơ mãi tháng ngày
dằng dặc
Thời gian chẳng vô tình
Hãy chết tiệt đi
cột mốc tàn bạo
Làm ngã rẽ chia cắt
Người Việt
Nhiều chốn tha hương?
Bỗng dưng tôi chợt nhớ
huyền sử Âu Cơ
50 người con lên non
Năm mươi người con xuống biển
Ra đi, ra đi mãi
Như những dòng sông chảy vào đại dương
"Bố ơi về cứu chúng con!"
Mấy vạn nghìn năm trước Lạc Long Quân hẹn
Sẽ trở về.
Dường như tôi còn nhớ
Một mùa Xuân xa lắm
Xôn xao, xôn xao
Một chiến thắng bất ngờ
Phủ lên đầu con dân
Sống cũng dở mà chết cũng dở
Hai mươi sáu năm trước
Một nửa hình hài ngỡ đã chết đi
Bỗng dưng sống lại
Kéo cả một miền đất nước đứng dậy
Đổi mới...
Rồi bao nhiêu năm sau
Cả miền đất nước sẽ đứng dậy
Đổi mới?
Làm sao cho tôi quên
Làm sao cho tôi quên
Thân phận Việt
Nửa đời còn lại tìm hạnh phúc?
Hôm nay chúng tôi tìm về
Vùng cao nguyên Tây Bắc Mỹ
Lake Tahoe nơi cô đọng tình thương
Của những kiếp lạc loài
Tìm hơi ấm tình người
Trong những mảng tuyết loang lỗ
Còn vương vãi trên ngàn
Thái Anh (Đầu tháng Năm, 2009)
Tháng Tư khốc liệt còn đau đáu trong lòng những mặc cảm bất lực và nỗi đau triền miên của nhiều mất mát: mất biển, mất đất, mất chủ quyền, mất đảo, từ cao nguyên cho đến chuyện khai thác Bô xít cũng như sự tràn ngập công nhân và đội quân thứ Năm của Trung quốc sang Việt Nam, thì ngược lại tháng Năm, từ bên kia bờ đất nước (Thái bình Dương) diệu vợi xa cách đã mang lại những đàn anh chùng một tơ lòng, đến chia sẻ và cảm thông nỗi niềm đau buồn của người Việt với nhau.
Trước tiên là anh chị Tiêu Dao Bảo Cự, bất kể chuyện chăm chú, thăm dò của nhà nước trước khi cho ra đi, rốt cuộc hai vợ chồng đã được toại nguyện, sang đến Mỹ bình an vô sự. Sau cùng, một người anh muộn màng, hiền từ, kể chuyện năm 2000 (Chuyện Kể Năm 2000) từ dạo nào. Nhận mình là người viết văn, nhưng không bao giờ tự cho mình là một người làm chính trị. Bùi ngọc Tấn, một đàn anh Hải Phòng truân chuyên bao nhiêu năm, bây giờ người hải ngoại mới được nhận diện. Chờ anh từ năm ngoái, nhưng anh không qua vì nước Mỹ rộng lớn không có người đẫn đường, đến bây giờ hội ngộ trùng phùng, lần đầu chúng tôi mới có dịp đưa anh đi chơi San Francisco cùng anh Nguyễn chí Thiện, một ngục sĩ gần nửa đời bị giam hãm tuổi thư sinh trong cay nghiệt của Cộng sản.
Một người văn nghệ và tâm giao khác, đạo diễn Trần văn Thủy (Hà Nội Trong Mắt Ai, Chuyện Tử Tế), một người cũng đang chán đời vì chuyện đất nước, cũng đã đến Mỹ tuần trước. Anh Trần văn Thủy và anh Hoàng Khởi Phong (Người Trăm Năm Cũ, Cây Tùng Trước Bão), một nhà văn, nhà thơ, nhà báo nổi tiếng của Miền Nam, Nam Cali và hải ngoại hiện nay, tuy quen biết nhau trong vòng 5, 6 năm nay nhưng không phải bỗng dưng mà hai anh trở thành bạn cố tri, nếu không cùng một nhịp cầu tri âm.
Hai ông anh định bù khú với nhau, xa lánh chuyện đời, xa lánh đám đông ồn ào náo nhiệt, đang có xu hướng cố thủ Miền Nam (Cali) cố định một chỗ không đi đâu, khiến tôi phải thuyết phục hai anh lên vùng Vịnh Nam Tào Bắc Đẩu một chuyến cho bằng hữu có cơ hội gặp gỡ, hàn huyên, thế mà vẫn chưa có gì ghê gớm hấp dẫn lắm, hai anh vẫn bình chân. May thay, trong hai người chưa có người nào đã đi thăm vùng Bồng Lai tiên cảnh ở Lake Tahoe, nên khi nghe tả cảnh thiên nhiên hoang sơ và một hồ nước to trong, xanh leo lẻo giữa vùng đồi núi, họ bèn nhận lời ngao du một chuyến.
Thế là sau đó mọi chuyện trôi chảy, đã có căn nhà chòi lý tưởng của chị Tuyết trên Lake Tahoe, đủ yên tĩnh cho một cuộc retreat (tĩnh hội) xa lánh hồng trần. Đêm thứ Bảy là một buổi họp mặt ở tệ xá với một số bạn bè thân hữu. Sau một đêm chuyện trò cho đến khuya với biệt tài kể chuyện thu hút của anh Thủy, ngày hôm sau hội chúng tôi lái chiếc xe van do Hạnh, một giáo sư Việt ngữ ở đại học Berkeley cho mượn, chở đúng 6 người trong nhóm lên đường. Đây là một con đường thân thuộc mà tôi và nhiều người bạn đã chạy qua hàng trăm bận đi ski nhiều mùa Đông. Họa chăng kỳ này không có ai hăm hở chuyện trượt tuyết, thời gian và tâm trạng luống vô tình! Còn đâu những ngày không vướng bận ưu sầu Việt Nam?
Hội chúng tôi gồm đạo diễn Trần văn Thủy, nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh chị Tiêu Dao Bảo Cự (Nửa Đời Nhìn Lại, Mảnh Trời Xanh Trên Thung Lũng), chị Nguyễn Bạch Yến, người bạn đồng hành kiên trường của anh Cự, chị Trần Khánh Tuyết, một người làm chuyện xã hội cho Việt Nam nhiều thập niên nay và tôi, Nguyễn Khoa Thái Anh, dạy học.
Chúng tôi những người có những gốc gác hoàn toàn khác nhau: Anh Trần văn Thủy, sống cả đời ở Việt Nam, khoảng hai thập niên sau này, du lịch, làm công tác quay và trình chiếu phim anh nhiều nơi trên thế giới; anh Tiêu Dao Bảo Cự, lần đầu tiên sang Mỹ, là một người Huế ở Miền Nam, theo lý tưởng cách mạng, chống chiến tranh, chống quân đội Mỹ đổ bộ Việt Nam, theo Mặt Trận Giải Phóng (giúp nhiều người Miền Nam sang Mỹ và 5 châu) sau này mới vỡ mộng, nhận thực mình giúp cho một chế độ tồi tệ hơn Miền Nam gấp bội phần.
Khi còn học ở Đại học Berkeley, tôi đã biết đến chị Tuyết và ông chồng hiền lương của chị, Chris Jenkins, nhưng thời đó Việt Nam chưa mở cửa và nhiều người như chị Tuyết cũng chưa mở mắt, cho nên chúng tôi dù quen biết nhưng ít giao du vì tôi còn nguyền rủa bóng tối, hờn giận sự ngây thơ và hồn nhiên của những tâm hồn quảng đại (Việt kiều yêu nước). Ngày nay chúng tôi đều chia sẻ chuyện cải tổ Việt Nam.
Thời đó anh em sinh viên chúng tôi chống Cộng hơi tận tình. Tôi không nghĩ bản chất mình đã thay đổi theo thời gian, nhưng một hôm ở Hà Nội trong quán Nghệ sĩ ở phố Hai Bà Trưng, anh đạo diễn Đặng Nhật Minh, Nguyễn quí Đức, Gerry (chủ quán) và tôi ngồi nói chuyện. Không nhớ rõ chúng tôi nói nói chuyện gì, bỗng dưng khi Gerry vừa bước đi, Nguyễn Quí Đức quay sang anh Minh, mách: "Ông Thái Anh này ngày xưa chống Cộng ghê lắm, chắc gì đã chịu về Việt Nam giao lưu?". Thú thật tôi ngượng cũng hơi chín cả người. Ai lại dám "tố cáo" một thằng hiểu biết như tôi là cực đoan? Làm thế nào tôi có thể cố chấp đến độ không chịu về Việt Nam, không chịu tìm hiểu dân tộc mình! Láo thật!
Từ nhà chị Tuyết ở Berkeley, chúng tôi trực chỉ xa lộ 80 đến gần Sacramento lấy Freeway 50 đi mạn Nam Hồ Tahoe (South Lake Tahoe), chạy khoảng tiếng rưỡi đồng hồ trên đường đèo 50, xuyên qua những thành phố nhỏ và những con rừng thông, rồi đến những cao nguyên, đồi núi chập chùng. Khi qua đèo cao thuộc dãy núi Sierra Nevada, nhìn xuống thung lũng, anh chị Bảo Cự không ngớt lời ngợi khen cảnh đẹp, tuy rằng hai người là dân Đà Lạt. Cả thảy, chúng tôi mất khoảng 3 tiếng lái xe từ vùng Vịnh để đến trung tâm thành phố Lake Tahoe. Căn nhà gỗ xinh xắn của chị Tuyết nằm trên đường 89 cách trung tâm phố xá chỉ khoảng 7,8 phút lái xe. Chị Tuyết rất chu đáo dễ thương, ghé chợ Raley's gần nhà, mua ít lương thực về nấu cơm, cho tôi đưa các anh Phong, Thủy, Bảo Cự và chị Bạch Yến đi ngoạn cảnh.
Theo thiển ý, Lake Tahoe đẹp nhất vào mùa Đông, vạn vật phủ một lớp tuyết trắng, khoác lên sự sống mới, mát mắt và nổi bật. Thiết nghĩ, không phải đây là tư duy của giai cấp bourgeois, tư sản. Bởi vì anh Thủy, một người đã du lịch nhiều xứ tuyết, trong khi chúng tôi đi quanh hồ tìm chất xốp trắng, đã thốt lên: "Ở miền tuyết đẹp thật, nhưng thực sự sống vào mùa Đông trong những cơn bão tuyết lầy lội mới biết cái khổ sở của tuyết!"
Ngoài kia, những mảng tuyết cũ còn vương vất hai bên đường, trên bệ núi. Có nhiều ngọn núi ở phía Tây hồ tuyết còn phủ trắng xóa, không gian còn ươm ướp lạnh, trời trong xanh, những loài thông trường sinh cành lá xanh rờn, và nhiều cây có sợi lá thẫm đậm. Không khí mát rợi, nắng ấm mơn man, tràn ngập lối đi. Khi chúng tôi vừa đến bãi Baldwin ở mạn Tây Lake Tahoe thì cũng đã hơn 4 giờ chiều. Lái đến chòi canh, tôi định trả 7 đô để lái ra bãi, gặp phải ông Mỹ quản lý rừng tử tế, khuyên chúng tôi đậu xe ở bên ngoài và đi bộ vào bãi, khoảng 1/4 dặm phía trước, như thế tốt, tiết kiệm và bảo trì thiên nhiên cho bãi hơn. Anh Bảo Cự, người sống ở cao nguyên Trung phần, hình như đang nghĩ đến chuyện Bô Xít đe dọa môi trường sống của mình nên đã thốt lên: "Khi nào thì Việt Nam mới biết bảo vệ môi trường?".
Tiếng chân chúng tôi khua trong không gian tĩnh mịch và hoang vắng. Tiếng côn trùng rả rích chung quanh tạo nên một âm ba thời gian êm trôi bất tận. Cuốc bộ nói chuyện thật thú vị, qua những lời khen đế quốc Mỹ rộng lớn, các anh hình như có ý so đo với chuyện hụt hẫng về môi sinh tại Việt Nam, cưa cây đốn rừng, phá hoại mội trường của người Việt, từ chuyện xả rác, cho đến cảnh quang ô nhiễm. Từ những con gấu grizzly bears cho đến cây cối, bầu trời, hình như cái gì của Mỹ cũng vĩ đại (có thể như thế được không?). Tiền thuế của dân (người Mỹ ghét thuế, nhưng họ sẵn sàng đóng vì được thụ hưởng những công ích như đường xá, các công viên, biễn, nơi cắm trại...)
Sau đó chúng tôi đi thăm Vịnh Emerald Bay và một cái đảo đá núi duy nhất, (Fannette Island, còn gọi bằng nhiều tên như Emerald Isle) nằm chơ vơ giữa hồ, ở trên có một dinh thất (Tea House) do một bà nhà giàu Mỹ (bà Knight) xây vào khoảng 1928-1929. Muốn thăm đảo này (mở cho du khách từ 15 tháng Sáu cho đến đầu tháng 2 mỗi năm) này phải đi bằng tàu máy. Căn nhà Teahouse này hiện nay bỏ hoang và bị nhiều kẻ phá hoại, trộm và lột sạch đồ nội thất.
Đọc những tin tức về Hồ Tahoe trên các biển du lịch cho mọi người nghe, anh Phong trổi giọng baritone chuông đồng của mình lên: "Hồ Tahoe xuất hiện khoảng 2 triệu năm trước, trong thời kỳ Đại băng dương, những gì chúng ta thấy đây là do các tảng băng qua bao nhiêu nghìn năm đào lên. Hồ Tahoe dài 22 dặm (35 km) rộng 12 dặm, diện tích 191 dặm vuông (490 km vuông) sâu 501 mét, hồ Tahoe là hồ sâu thứ nhì trên nước Mỹ (sau Crater Lake, sâu 594 mét, bang Oregon). Dung lượng: 300 triệu tấn nước, có thể bao phủ mặt phẳng của bang California dưới 4 tấc nước (150, 682, 249 km khối). Hai phần ba hồ nằm trong biên giới California, 1/3 thuộc bang Nevada. Chung quanh hồ có những thành phố chính như Tahoe City, South Lake Tahoe, Stateline, Carson City, và những khu nhà giàu đẹp như King's Beach, Incline Village.
Về đến nhà, tôi chọc chị Tuyết: "Chị ở nhà có gấu nào đến chơi không?"
"Ô, em đừng đùa nhe, mấy tuần trước khi chị lên đây, nghe tiếng động trước cửa nhà (có ô kiếng), chị ra tới cửa thì trời ơi, có một con gấu to gấp ba anh Phong (ra điều anh Phong râu ria to lớn), không phải đầu gấu như ở Việt Nam, đứng trước cửa dòm ngó nhau một hồi, thấy chị không mở cửa, nó hục huỵch bỏ đi qua nhà hàng xóm xin ăn".
Tối hôm đó rủ các anh chị đi ra sòng bài (ở South Lake Tahoe - cũng như ở Reno, cách chúng tôi khoàng 45 phút lái xe - có mấy casino khách sạn, có thể coi show, nướng cháy kim tiền trong những canh bạc thâu đêm suốt sáng. Nhưng mấy anh chị hiền lành quá (vì không nhiều tiền như mấy ông Đào Đình Bình, Bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải và ông Tổng Giám Đốc Bùi Tiến Dũng và Nguyễn Việt Tiến - vụ PMU 18) nên không thích thử thời vận, đòi ở nhà hàn huyên đầm ấm hơn.
Trong khi đó anh Phong bị thôi miên bởi đám củi nổ lách tách và ngọn lửa bập bùng, hừng hực cháy, nên cả một khoảng thời gian dài anh chỉ lo chụm củi ở lò sưởi, không hiểu trong óc anh đang vẩn vơ chuyện gì (chắc là chuyện hòa bình chứ không phải khói lửa chiến tranh). Đến 12 giờ khuya, chúng tôi, ba người dưới nhà, ba người lên gác lửng ngủ. Đêm đó chúng tôi đồng sàng, đồng mộng bay về Việt Nam.
Đêm đó, tôi có những giấc mơ rất kỳ quặc, không đầu không đuôi, nhiều hình ảnh chắp víu và gián đoạn. Như nghe anh Cự hát trên sân khấu (mà quả thật, sáng hôm sau anh Cự trong lúc dọn dẹp sau khi ăn sáng, hát một lúc mấy bài tiền chiến và tình ca liền, được anh Thủy khen giọng anh truyền cảm và rất trữ tình.
Làm tôi cũng buột mồm hỏi mấy anh: những nhà cách mạng Việt Nam khi xưa có ướt át đa tình không? Anh Phong trả lời ngay: "Em à, anh không nói chuyện mấy ông, nhưng anh biết chắc anh không có hình bóng người đàn bà nào trong lòng anh hết! Chị Tuyết cười to: "Có ai nói tới đàn bà đâu mà anh đính chánh?"
Vậy mà trong giấc mơ tôi gặp người đẹp trên tuyết. Không hiểu đây có phải là kết hợp của những hình ảnh năm nào không, nhưng trong cũng như sau giấc mơ, tôi cứ bị ám ảnh mãi bởi ánh mắt nụ cười trìu mến và ướt át của một kiều nữ nào đó (Hà thành?). Đúc kết của những chuổi ngày không toại nguyện hôm nay và những ngày vô tư hơn của thuở đam mê tình người hơn tình non nước chăng? Hay là ký ức của những năm còn sôi nổi, yêu đời, yêu người và yêu mình lại trở về mãnh liệt như một đoạn phim màu:
Cric-cric-cric...
Tiếng rúc rích của dây cáp treo quay qua cua-roa tạo nên những âm thanh đều đặn và nhẹ buồn rơi trong hư vô, những hàng ghế treo, lác đác vài bóng người ngồi, tiến dần lên cao. Cả một vùng tuyết phủ trắng xóa dưới chân, trên cao và quanh mình. Bao nhiêu cây thông, tùng, bách với những cành trĩu nặng dưới lớp tuyết dày trắng tinh trong một sớm ban mai, tạo nên một quang cảnh đẹp diệu vợi. Buổi sáng tinh sương trên Heavenly, một vùng ski ở phía Nam Lake Tahoe. Trời trong xanh vút, tuyết trắng ngần chung quanh, chẳng bù với trận bão tuyết chiều hôm qua, mù mịt, tăm tối, khi chúng tôi vừa lái lên từ vùng Vịnh San Francisco. Tôi ngồi cạnh người bạn, co ro dưới lớp áo ski, găng tay và nón nỉ ấm, kính chắn gió-tuyết đeo trên mặt, chân mang đôi hia bảy dặm gắn liền với cặp ski trượt tuyết. Ngần ấy thứ bao kín thân thể, chẳng bù đêm qua, hai thân thể lõa lồ, man dại, quấn quít lấy nhau trong cơn vân vũ, tưởng như không rời dứt.
Qua bao nhiêu năm mài miệt, tôi và một số bạn ski như bị sái thuốc phiện, nghiện ngập mê mải, cuốn hút vào cuộc chơi, không thể bỏ được. Đây là một thú vui tìm cảm giác mạnh, lướt trên tuyết, nhịp nhàng, chân co chân duỗi, tay đánh nhịp với hai cây gậy chống tuyết, vuốt ve mặt tuyết trắng, nghe gió lùa qua tai, dòng máu nóng rần rật trong cơ thể, giá lạnh ươm ướp chung quanh, cuốn hút.
Ở vùng Vịnh, chỉ cách Hồ Tahoe 3 tiếng lái xe, có một mùa Đông, tám chín tuần lễ liên tiếp, tôi cùng bạn hữu khăn gói quả mướp lên đường đi ski vui chơi tưởng chừng không tận, bỏ bê những ngày cuối tuần ở thành phố cho những bạn chưa khám phá ra thú tiêu khiển (môn thể thao) này. Có một người bạn Pháp một năm đi chơi chung ở Val d'Isère, phải thốt lên: "Tôi không hình dung được người Việt như anh lại mê ski như vậy!" Môn trượt tuyết của chúng tôi gọi là down-hill skiing (ngồi ghế treo cho kéo lên đỉnh núi rồi trượt xuống dốc), nhiều năm bọn chúng tôi cố tìm những vùng tuyết mới để đi ski du lịch.
Có thể ngờ không, trong một lần đi ski ở Kirkwood, một khu trượt tuyết khác ở Lake Tahoe (Tahoe có cả thảy 12 nơi ski chính), chúng tôi gồm bốn Việt (kiều) vùng Vịnh, trút bỏ tất cả phiền lụy trong cuộc sống ở thành thị, ngồi trên ghế treo (chairlift) vui sướng quá, quên hết chuyện đời, bèn la tướng lên bằng một giọng rất ư là Hà Nội:
"Sướng quá bác Hồ ơi!" - vì nhờ bác giải phóng mà chúng tôi mới học và hưởng thụ được trò chơi này - không khác gì ngày xưa nghe các ông lính Việt Nam Cộng Hòa (người Quảng Nam) được cho nghỉ phép về quê thăm vợ con, mừng quá vội la lên: "Sướng quá tổng thống ơi!" Không ngờ những người ngồi ghế treo trước chúng tôi là du sinh từ Việt Nam, quay lại nhìn chúng tôi chằm chặp. Giờ cơm trưa hôm đó, tình cờ chúng tôi lại gặp lại những du sinh này. Khi xếp hàng mua thức ăn, nghe họ nói chuyện với giọng Hà Nội đặc sệt, mới vỡ lẽ:
"Hình như bọn họ là Việt kiều đấy!" nào là, "Không nghe lúc nãy ai trong chúng nó hô Sướng quá bác Hồ ơi à... giọng Bắc Kỳ chính cống đấy chứ?" Nghe lỏm được những lời đối đáp này, tôi buồn cười quá, khi một cậu da trắng trẻo nhận ra tôi, họ bấm nhau, im bặt. Tôi tươi cười, định chường mặt ra bắt tay họ, xổ giọng Bắc kỳ điêu (luyện) của mình: "Các bác du học ở vùng nào thế?" Nhưng thấy họ có vẽ e dè, ngaị ngùng nên tôi bấm bụng bảo thôi. Không ngờ hơn mười năm sau, vào mùa Đông 2003, Cao Ngọc Quỳnh và một số bạn hữu Đàn Chim Việt từ Balan sang chơi, chúng tôi lại rủ nhau đi ski ở Lake Tahoe. Nam Bắc đề huề. Sau đó khoảng ba bốn năm sau, khi anh Quỳnh định cư ở Mỹ, chúng tôi lại có dịp đi ski với nhau vài lần nữa. Anh Quỳnh là một người vui nhộn gặp tôi là một người tếu, thích bỡn cợt nên làm bạn thân thích dễ dàng.
Nhưng không phải người Việt ai cũng vậy, sau những năm huynh đệ Nam Bắc tương tàn, cái hố sâu chia rẽ vẫn chưa san bằng được. Cho nên vẫn có những vụ chụp mũ, vu cáo như vụ báo Người Việt ở Quận Cam bị nhóm Ngô Kỹ cắm lều ăn vạ. Tức cười, nhân buổi kỷ niệm 30 năm thành lập nhật báo Người Việt, Cao Ngọc Quỳnh lái chiếc Mercedes SL 550 mui trần đến tòa soạn người Việt, thì ông Ngô Kỹ đã cầm loa la lối: "Đả đảo Cộng sản, Đả đảo bọn Việt gian, tay sai Cộng sản! Cao ngọc Quỳnh vốn là một người táo tợn và... tếu nên đã bước thẳng đến trước mặt Ngô Kỷ la lên, rất đỗi là kinh ngạc:
"Ủa, sao ông hay ghê, biết ngay tôi là Việt Cộng dzậy?"
Ngô Kỷ không ngờ bị một người gan góc chơi một vố như vậy nên á khẩu, ngọng nghịu không nói được một câu nào. Trong khi đó ở bãi đậu xe, trước cửa tòa báo Người Việt nhiều bá quan văn võ đã tụ tập đông đủ đến mừng lễ sinh nhật - kể cả 2 cảnh sát Mỹ giữ trật tự - bảo đảm cho mọi người quyền hội họp và biểu tình: thể theo tu chính án số 1 của Hiến chương Hoa Kỳ - khiến nhiều người phải cười ồ lên vì chuyện bất ngờ này.
Trong lúc nhiều người lớn tiếng hô hào dân chủ, đa nguyên cho Việt Nam, thì cũng rất nhiều người trong bọn họ lại đả đảo chụp mũ những người có ý tưởng dân chủ, chấp nhận sự phóng khoáng, khác biệt của người khác. Trong nước thì đương quyền bắt bớ những người bất đồng chính kiến, ở hải ngoại thì người ta la ó, chụp mũ, vu khống, chống đối những người hiểu biết, từ tốn, không cực đoan hay quá khích như họ.
Thật đáng đời khi tòa Thượng Thẩm quận Thurston, bang Washington đã xử phạt nhóm chống Cộng cực đoan $225,000 ngàn Mỹ kim vì tội vu khống làm tổn hại danh dự cựu trung úy Việt Nam Cộng Hòa, Đức Tấn, cộng thêm $85,000 Mỹ kim bồi thường cho tổ chức cộng đồng Việt ở thành phố Olympia do ông Tấn sáng lập.
Thế kỷ 21 rồi, người ta vẫn không biết sáng suốt nhận diện vấn đề, không có lý do nào họ phải rơi vào cái bẫy của Cộng sản, đã thành công trong việc tạo nên sự ly gián, nghi kỵ và giữa những người Việt. Thay vì chung lưng đấu cật, kết hợp trong và ngoài nước, tạo ra một sức ép đáng kể làm thay đổi vị thế của cầm quyền, họ đã cố tình chia rẽ, tạo chiến tuyến trong hàng ngũ những người Việt ở ngoài nước, hoặc giữa trong và ngoài nước.
Lúc nào cũng to mồm cho rằng mình chỉ chống đối và khác biệt với nhà cầm quyền, nhưng không có vấn đề với dân tình quốc nội, nên bai bãi bài bác chuyện cần hòa giải, hòa hợp với người trong nước. Vậy mà hễ có sự hiện diện của bất cứ một nhân vật tên tuổi nào trong nước ra ngoài là họ cho là kiều vận hay làm tay sai, đặc công văn hóa cho Cộng sản, hoài nghi tất cả những thiện chí, những cố gắng của những người này, tuyệt đối loại bỏ những khó khăn, những chuyện tế nhị và điều kiện phức tạp mà những nhân vật này phải đương đầu với.
Từ Bùi Tín, Nguyễn chí Thiện, Vũ thư Hiên, Dương thu Hương, đến Hoàng minh Chính, Nguyễn chính Kết, đạo diễn Trần văn Thủy, và bây giờ Tiêu Dao Bảo Cự và Bùi ngọc Tấn, tất cả dưới một góc độ nào đó đều bị tình nghi hoặc đố kỵ. Tôi không nói là tất cả những nhân vật này đều mang một tâm sự hoàn toàn giống nhau, hoặc có hoàn cảnh hay tánh khí như nhau, nhưng có lẽ tôi có thể khẳng định một điều: họ đều mang một nỗi đau của dân tộc và cầu mong có một sự thay đổi tốt đẹp cho đất nước thật sớm sủa.
Chấp nhận những nhân vật này và những hoài bảo họ đang theo là thấu hiểu được sự khó khăn trong tình cảnh của mỗi người. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải nhìn nhận đường lối hoặc chủ trương trong quá khứ mà mỗi người đã chọn là đúng, nhưng đối với tôi đó không phải là điều kiện tiên quyết để tôi phải cách biệt họ mà trái lại xét trên tổng thể tình thế của đất nước và tình huống của mọi cá nhân và con dân Việt Nam, chúng ta đều là những nạn nhân của thời cuộc và chế độ ngoại lai quái ác này.
Dù muốn dù không, chúng ta phải sáng suốt nhận thực rằng lãnh đạo Cộng sản đã khá khôn ngoan trong việc cho những người bất đồng chính kiến xuất ngoại. Họ đã tạo được hai lợi thế:
1) đối với thế giới người ta sẽ cho rằng Đảng Cộng sản đã tiến bộ, khoan hồng và dân chủ hơn vì đã cho phép những người chống đối mình tự do đi lại.
2) bằng cách cho những nhà văn nghệ sĩ đối kháng đi du lịch, họ đã tạo được sự nghi vấn trong những nhóm cực đoan hải ngoại, vì sao những người như Tiêu Dao Bảo Cự lại được xuất ngoại, có phải anh ta đang thỏa hiệp với đảng để làm công tác kiều vận không?
Cũng trong tinh thần đó lúc nào tôi cũng cố tìm hiểu và đón nhận những người ở trong nước, dù cho họ có những quá trình cách biệt, những hụt hẫng và quá khứ đau buồn riêng của bản thân họ. Tôi không phải là quan tòa xét xử chuyện quá khứ. Đối với cá nhân tôi, chuyện cảm thông, hòa giải, cùng nhau tìm mẫu số chung, tìm một lối thoát cho dân tộc, cho đất nước khi đang có mối hiểm họa đe dọa lớn của Bắc triều mới đáng kể. Tất cả khác biệt cá nhân, quá khứ là chuyện thứ phụ, hạ hồi phân giải.
Tôi cảm ơn trời đã cho tôi một khối óc, một quả tim để tìm đến những tấm lòng Việt đang ưu tư, khắc khoải vì chuyện đất nước, bất kể đại dương cách trở, tôi ưa tìm đến những tình người chân thật và tử tế. Thiện nghĩ đây là một niềm an ủi lương thiện (tuy đơn lẻ) cho những ai đang cảm thấy mình bất lực trước tình thế hiện nay.
© 2009 Đàn Chim Việt Online
No comments:
Post a Comment