26/06/2019
Tôi nhận được từ nhà văn Nguyễn Văn Sâm một
cuốn sách mà ông vừa cho xuất bản. Nói rằng đây là một tác phẩm văn nghệ hay một
cuốn biên khảo, một sách dịch đều đúng mà cũng đều không đúng. Lý do là cuốn
sách của ông, với những dòng chữ ngoài bìa: Kho tàng văn học Thế Kỷ
19-Thơ Nôm Miền Nam-Thạch Sanh Lý Thông là một sự pha trộn giữa tất cả những gì
đã nói .Biên khảo về văn học , một loại văn học đặc thù của những
người đi khai phóng vùng đất mới. Những người này sống với những nỗi
lo sợ đối với thiên nhiên và vì không phải là những người chỉ sống về thơ phú,
chữ nghĩa thánh hiền nên họ có một nền văn hóa khác, không chau chuốt nhưng có
những nét độc đáo riêng.Chứng tích của nền văn hóa này là một cuốn sách cổ.
Ông NVS đã tìm được cuốn sách
này sau khi nó đã nằm yên trong bao nhiêu năm trong Thư Viện Quốc Gia Pháp
.Sách không viết bằng chữ quốc ngữ, nhưng nếu nói là nó là một cuốn sách dịch
thì sai. Sai ở chỗ nếu là sách dịch thì người dịch phải dùng một ngôn
ngữ khác với ngôn ngữ của nguyên bản. Điều này không đúng vì ở đây
là cùng một ngôn ngữ nhưng cách viết khác nhau. Phải nói cho đúng là ông phiên
âm một cuốn sách cổ viết bằng chữ Nôm mà ngày nay, số những người biết đọc chắc
chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay. Với tôi, thì chữ Nôm viết cũng bí hiểm như
Chử Hán, hay chữ Nho, nhưng hình như chữ Nôm khi đọc lên, lại là ngôn ngữ mà
người Việt Nam dùng để nói với nhau hàng ngày. Không biết có đúng không, xin
tác giả cho biết, nhưng với một kẻ chỉ biết dùng tiếng quốc ngữ, thì thấy cuốn
Truyện Thạch Sanh Lý Thông của NVS rất cần thiết.
Cuốn sách mà tôi có trước mặt gồm 2 phần, trang bên
trái in những chữ Nôm mà tôi không đọc được, và trang bên phải là chữ quốc ngữ
mà tôi đọc được tuy chỉ hiểu độ 80%. Tôi nghĩ rằng tác giả Nguyễn Văn Sâm chỉ
viết lại bằng chữ quốc ngữ những gì ông đọc được bên chữ nôm, nghĩa là ông thấy
sao đọc vậy, đọc sao viết vậy bằng chữ quốc ngữ. Ông phiên âm nhưng không sáng
tác. Phần khó nhọc của tác giả chỉ là giải thích cho người đọc hiểu những lời
này., Nếu không có phần chú thích này, không sao hiểu hết những câu thơ
mà ngay chính ông Nguyễn Văn Sâm cũng còn bí với
nghĩa của một số câu.
Trở lại với truyện Thạch Sanh Lý Thông, là người Việt
Nam, chắc là ai cũng biết một chút về chuyện cổ tích này. Với tôi, chỉ là hai
câu thơ :
Đàn kêu tích tịch tình tang.
Ai đem Công Chúa dưới hang trở về.
Không hiểu vì sao hai câu thơ này lọt vào óc tôi
nhưng chắc chắn không do đọc sách, mà sách đâu mà đọc ?? Theo Nguyễn Văn Sâm,
thì câu chuyện Cổ tích này phải xuất hiện sau thời ông Nguyễn Ánh và người ta truyền
khẩu cho nhau, đời nọ cho đến đời kia. Cuốn sách mà ông Nguyễn Văn Sâm tìm được
do lý do đó, người có tên trên trang đầu chỉ ghi chép lại chứ không
phải là tác giả như nghĩa mà chúng ta thường hiểu về một tác phẩm văn chương.
Tác giả của nó vô danh. Chuyện kể trong dân gian mà người sau chép lại thành
thơ. Hiện nay, người chép lại thành thơ truyên TS< nhiều, nhưng những câu
thơ in trên internet lại do họ đặt ra, dựa vào tình tiết câu chuyện.
Cuốn sách do
ông Sâm tìm được có lẽ được xuất bản vào năm 1885. Vì vậy, trên trang bìa, người ta thấy hàng chữ : Kho Tàng Văn Học
Thế Kỷ 19. Người có tên tuổi trên trang đầu gốc tích rõ ràng. Đó là ông
Dương Minh Đức. Người hiệu đính là ông Duy Minh Thị.
Không có chứng cớ gì về sự lưu truyền của truyện Thạch
Sanh-Lý Thông trong dân gian và nếu căn cứ vào cuốn sách, thì câu truyện này có
ít nhất là hai thế kỷ rồi. Theo Nguyễn Văn Sâm thì đây là văn bản sớm nhất của
câu chuyện Thạch Sanh-Lý Thông.
Lý trí cho tôi một kết luận là nếu không tìm được bản
sớm hơn, thì tác giả của truyện này phải là ông Dương Minh Đức , trên lý thuyết.
Dương Minh Đức là ai?? Ông Sâm viết : Một người Minh Hương sống ở Xóm Dầu,
Chợ Lớn, Quận 6 ngày nay. Ông này và người hiệu đính truyện TS< đều là
người Minh Hương, trong nhóm các ông gọi là Nhóm Phật Trấn thực hiện các bản
Nôm, hoạt động vài ba chục năm trước khi người Pháp đến Việt Nam, xin mọi người
để ý đến chi tiết này. Bản chữ Nôm ghi là : Dương Minh Đức Thị Soạn ( 1 )
và Duy Minh Thị đính chánh ( 2). Do hai câu này. Ông Sâm kết luận là theo
ông : Sau khi nghe chuyên Thạch Sanh ông DMD chấp bút (chữ
ông Sâm dùng) viết lại thành thơ.
Vậy thì Truyện TS< có 2 phần :
1-Cốt chuyện : Dân Gian??
2- Thơ (bản văn) : Dương Minh Đức : ‘’Chép Lại”
hay ‘Đặt Ra”??
Trả lời cho câu hỏi thứ nhất, ông Nguyễn
Văn Sâm viết : Truyện thơ TS< xuất phát từ nhu cầu thực tế của lưu dân từ
Trung vào Nam trong giai đoạn Nam Tiến qua vùng Đồng Nai đất đỏ tới vùng sông rạch
đất thấp, nơi có nhiều rừng rậm, nơi sấu cọp , voi còn lởn vởn quanh nhà
(Tr.16).
Câu hỏi thứ 2 : Trang 8 : Sau khi nghe chuyện được kể
trong dân gian, ông ( Dương Minh Đức) chấp bút viết lại thành thơ. Không hiểu
chữ chấp bút dùng ở đây là chép lại hay sáng tác. Cũng may dưới đó,
trong cùng trang 8, ông Sâm cho rằng căn cứ ở câu Duy Minh Trị đính chánh, thì
ông này đã đính chánh lại câu văn của Dương Minh Đức cho có vẻ văn chương hơn.
Vậy là có sự ,’’gọt rũa” tại đây chứ không phải chỉ là chép lại.
Nói gì thì nói, bản văn cũng phản ảnh văn chương Nam
Kỳ Lục Tỉnh, mang nhiều từ ngữ Nam Bộ không thể thấy ở vùng ngoài. Không thể thấy
ở vùng ngoài, đã đành, nhưng nhiều chữ cũng không còn thấy trong Nam Bộ ngày
nay. Những chữ quá cổ khiến ông Ngyễn Văn Sâm kết luận : Từ mấy chữ quá cổ đó
ta có thể an tâm kết luận rằng quyển TS< này ra đời trễ nhất là khoảng
hai ba thập niên đầu thế kỷ 19 nhưng không thể sớm hơn thời gian lên ngôi của
Nguyễn Ánh .
Muốn biết những chữ quá cổ của ngôn ngữ Việt Đàng
Trong là gì, muốn biết người lưu dân thời đó có tâm trạng ra sao, muốn biết những
câu văn mộc mạc đó nội dung thế nào, thiết nghĩ không gì hơn là liên
lạc với tác giả samnguyen20002002@yahoo.com
để có được một cuốn sách.
Ngôn ngữ hay tiếng nói của một dân tộc thay đổi với
thời gian. Ngay như chúng ta, ngày nay, không hiểu được những chữ mà người
trong nước dùng. Bản thân tôi, lần đầu nghe tiếng dã ngoạn, muốn té ngửa vì
không biết dã ngoạn là gì. Tiếng nói đã vậy, chữ dùng để ghi lại cũng không
khác gì. Các cụ ngày xưa dùng tiếng Hán, rồi dùng tiếng Nôm. Nay thì người Việt
Nam đa số mù tịt cả Hán lẫn Nôm. Vì thế, công của các nhà làm văn hóa rất lớn.
Không có họ, tất cả sẽ mai một dưới lớp bụi thời gian, và chúng ta khi muốn tìm
lại một Thời Đẫ Mất thì vô phương. Với những sự đe dọa Hán
Hóa, e rằng một ngày nào đó, chúng ta sẽ mất cả tiếng nói lẫn chữ viết. Bởi vậy
cho nên phải có những người như Nguyễn Văn Sâm, và những công tác Bảo Tồn Văn
Hóa mà ông đã và đang làm. Xin Cám ơn ông.
Trần
Mộng Lâm
No comments:
Post a Comment