23/06/2019
Ông Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương vừa có bài viết "Truyền
thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam" nói về những tiềm
ẩn nguy hiểm mà mạng xã hội có thể đem lại cho guồng máy chính trị hiện nay
(1). Bài viết công phu và nhìn nhận hai mặt tích cực và tiêu cực của người dùng
mạng xã hội trong nước nhằm đề ra biện pháp đối phó mà tác giả ghi nhận trong
“5 là” có nội dung định hướng cho giới chức trách mà tác giả chỉ ra gồm các cơ
quan đảng. cơ quan thực thi pháp luật, báo chí, các doanh nghiệp IT, và ngay cả
người dân có nhu cầu sử dụng mạng xã hội như YouTube, Facebook, Fanpage,
Twitter.
Mở đầu bài viết tác giả nhấn mạnh đến những phong
trào cách mạng màu với cái nhìn có thể chưa đủ thuyết phục: “Nhìn lại
các cuộc “cách mạng màu” hay các cuộc biểu tình bạo động mang hơi hướng của
“cách mạng màu” được hiện đại hóa trong mấy thập niên gần đây, chúng ta dễ dàng
nhận thấy rằng, chính truyền thông xã hội đã châm ngòi, thổi bùng bằng kích động,
tổ chức và thông tin, khiến ban đầu là các phong trào đường phố, đi đến bạo động
và hệ quả là sự suy yếu nhanh chóng của các chế độ như ở Đông Âu, Trung Đông, Bắc
Phi, Mỹ Latinh”.
Truyền thông xã hội không hề châm ngòi cho bất cứ cuộc
cách mạng nào mà nó chỉ là phương tiện để các cuộc cách mạng ấy lan rộng ra với
quần chúng. Châm ngòi cho các cuộc nổi dậy của quần chúng là các chế độ độc
tài, sống quá lâu trên mồ hôi nước mắt của nhân dân, bóc lột, đày đọa người dân
của họ bằng sức mạnh của nòng súng khiến sự căm phẫn dồn nén nhiều năm có cơ hội
nổi dậy từ một sự kiện bất công nào đó.
Viết về cuộc biểu tình dài ngày của “Áo Vàng” tại
Pháp, tác giả cho rằng “Phong trào lan nhanh bởi những lời kêu gọi phát
tán trên mạng xã hội đã thổi bùng cơn giận dữ, vượt xa mục tiêu ban đầu là kích
động biểu tình để phản đối chính sách, trở thành bạo loạn.” Nhưng trên
tờ Tuổi Trẻ đã trích dẫn lại thì khác với những gì mà ông Võ Văn Thưởng nhận định: “Nhà
nghiên cứu Romain Pasquier ở CNRS ghi nhận ngoại trừ vài thành phố lớn và thủ
đô Paris, phong trào biểu tình áo khoác vàng chủ yếu diễn ra ở khu vực ngoại ô.
Tham gia biểu tình gồm đủ thành phần, từ công nhân,
người thu nhập thấp cho đến người buôn bán, thợ thủ công. Họ là những người phải
lái xe hơi mỗi ngày, có thu nhập khiêm tốn và không phải là thành phần nghèo nhất
trong xã hội.”(2)
Tác giả Võ Văn Thưởng cũng nhấn mạnh ở điều mà ông gọi
là thông tin giả qua cái nhìn của Tuyên giáo: “Truyền thông xã hội, tin
giả đã trở thành từ khóa làm nhiều người liên tưởng tới những cuộc xuống đường
bạo động khiến cả châu Âu và thế giới đứng ngồi không yên suốt thời gian qua.
Ngay tại Mỹ, sau những cuộc biểu tình chiếm phố Wall (năm 2011), giới chính trị
gia đã chỉ trích đích danh Facebook, Twitter là “công cụ của bạo loạn.”
Báo chí phương Tây cũng đúc rút phương thức dùng
truyền thông xã hội tạo nên những “đám đông” kích động, đó là: châm ngòi xuống
đường; triệt để lợi dụng các sự cố, tai nạn, những cái chết để tạo cớ bạo loạn;
sử dụng điện thoại di động, mạng xã hội để kích động và liên kết trong, ngoài.”
Rất tiếc, tác giả không nghĩ xa một chút về các cuộc
biểu tình ở phương Tây và đặc biệt là Mỹ. Nếu ông được lớn lên trong cuộc chiến
tranh Việt Nam ông sẽ thấy rằng lúc mà Internet chưa được sinh ra người Mỹ đã
có những cuộc biểu tình long trời lở đất chống chiến tranh Việt Nam, dẫn tới cuộc
rút quân của quân đội Mỹ và tạo tiền đề cho ngày 30 tháng 4. Lập luận mạng xã hội
gây nên những cuộc bạo loạn là không thuyết phục.
Nếu đi sâu hơn về thông tin giả mà tác giả lo ngại,
đối với Việt Nam có lẽ trong vị trí của một người đứng đầu ban Tuyên giáo ông
nên nhìn lại những gì mà Đảng Cộng sản đang làm hiện nay có thể bị cáo buộc là
đang thực hiện những thông tin giả một cách công khai bất kể sự hiểu biết của
dân chúng đã trưởng thành sau nhiều năm sống dưới chế độ.
Có những thông tin giả chỉ vài giờ là nhận ra nhưng
cũng có những thông tin đến vài năm người dân mới phát hiện. Thí dụ ông Nguyễn
Thiện Nhân trong khi giữ chức Bộ trường Bộ Giáo dục đã điềm nhiên công bố “đến
năm 2010, giáo viên có thể sống được bằng lương” (3) và thông tin này sau đó được
toàn thể nhân viên của Bộ giáo dục chứng minh là “giả”.
Mạng xã hội có thể là nơi duy nhất để người dân bàn
bạc thảo luận hay chia sẻ những gì họ quan tâm, tuy nhiên có những chủ đề chính
đáng lại bị nhà nước cho là “nhạy cảm” và ngăn cản mặc dù cũng chính nhà nước
khuyến khích người dân “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Sau khi bài
viết của ông Võ Văn Thưởng xuất hiện thì tạp chí Cộng sản phát hành ngày 21
tháng 6 năm 2019 nhắc lại câu này như một khẳng định của chân lý: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” không chỉ là khẩu hiệu dân vận hoặc
phương châm thực hiện chủ trương, đường lối mà phải trở thành một định chế và
quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa.” (4)
Với tinh thần của bài báo này thử hỏi khi dân chúng
nêu câu hỏi về Hội Nghị Thành Đô trên Facebook có phải là phản động hay không mặc
dù trên mạng Internet đã xuất hiện dầy dặc những thông tin về vấn đề này. Chẳng
hạn như bài viết của Hồng Khiêm, Nguyên Tham tán Bộ Ngoại giao về Hồi ký
Trần Quang Cơ, có đoạn: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì
chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn
cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và
CNXH thế giới, chống lại hiểm hoạ ‘diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do
Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm ““giải
pháp Đỏ”. (5)
Nếu nhà nước không bưng bít thông tin như lâu nay
thì làm gì người dân có cơ hội bàn tán trên mạng xã hội, thay vì vui chơi, mua
sắm hay khoe hình ảnh gia đình, con cháu của mình?
Đã từ lâu báo chí bị cấm nhắc tới hai chữ Trung Quốc
khi những chiếc tàu này đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam mà phải dùng từ “tàu
lạ”. Chính từ ngữ tránh né này đã chọc giận tinh thần dân tộc khiến người dân
Việt Nam bùng lên những cơn biều tình chống Trung Quốc chứ không phải do mạng
xã hội kích động như ông Võ Văn Thưởng biện bạch. Những nguyên nhân tiềm ẩn này
nhà nước phải thấy trước khi người dân bùng lên như ngày 10 tháng 6 năm 2018
khi hàng chục ngàn người biểu tình đòi bải bỏ dự luật Đặc khu.
Điều thú vị là cuộc biểu tình này nhà nước không tìm
ra chứng cứ nào từ internet hay mạng xã hội có sự kích động nhưng nó vẫn xảy
ra. Vậy thì trước khi lo nó tác động tới người dân gây hậu quả nghiêm trọng thì
chính bản thân Đảng, chính phủ phải nghiêm khắc nhìn lại chính mình trước khi
lên án một phương tiện đang giúp cho người dân sống cuộc đời đáng sống.
No comments:
Post a Comment