Nguyễn Khắc Mai
20/10/2015
Nhân
đọc báo thấy anh Trọng TBT đảng, đọc diễn văn chào mừng đại hội đảng bộ tp HCM,
có nêu bảy vấn đề gửi gắm. Là một người có sự gắn bó với thành phố này từ hồi
“Chín năm”, tôi cũng có bảy điều gởi gắm cho Sài Gòn.
Nhưng
trước hết phải bàn đôi điều về bảy vấn đề của anh Trọng. Bảy vấn đề ấy là tóm tắt
những gì đã được nêu trong báo cáo. Những người học vấn trung bình đọc báo cáo
cũng có thể chắt lọc ra những vấn đề như vậy. Điều bây giờ tôi có thể kết luận
mà không sợ sai rằng đã trở thành một thói quen, lâu ngày đã thành tật xấu. Đó
là lối phát biểu kiểu “kanguru”, như nhà báo Tô Văn Trường đặt tên. Kiểu
kanguru là lối phát biểu không có ý tứ gì, vô thưởng vô phạt. Tôi còn nhớ hồi
ông Mạnh hai khóa liền làm TBT , ông đã để lại một giai thoại, nói giai thoại
là nói chữ, chứ thật ra là cười ra nước mắt. Ai đời, một nhà lãnh đạo mà đi tỉnh
nào cũng mấy câu hỏi, “tỉnh nhà nên trồng cây gì, nuôi con gì cho sinh lợi”.
Thét rồi bà con ngao ngán liền cho một câu trả lời, cứ trồng cây thuốc phiện,
nuôi con va ve là có lời nhất! Nhiều vị xuống địa phương phán: Tỉnh, thành ta
phải phát huy thế mạnh, vươn lên để có công nông nghiệp phát triển, giải quyết
công ăn việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lao động, v.v. Phát biểu của anh
Trọng không có gì sai, nhưng chỉ dừng lại như “một đại cử tri” vẫn thường họp với
các anh trước một kỳ họp Quốc hội. Người ta chờ đợi ở một người lãnh đạo tầm quốc
gia có suy nghĩ gì, hứa hẹn gì, chỉ ra cho được để làm bảy vấn đề ấy thì Sài
Gòn cần những điều kiện thể chế, pháp lý nào, phương thức đầu tư nào, những khó
khăn nào phải vượt qua, và phải chỉ ra thành phố làm được đến đâu, TƯ làm đến
đâu, những gì. Khiến tôi cứ nghĩ rằng các anh ở TƯ rất hời hợt và lười biếng, rất
ngại khó, không dám đương đầu suy nghĩ về cái “sự thật” mà cấp dưới và chính
mình đang đương đầu. Nội một quy chế đặc thù cho Sài Gòn bàn mãi vẫn chưa có kết
luận.
Tôi
không xui Sài Gòn phá rào nữa, bởi qua đại hội vừa kết thúc, tôi thấy dường như
điều ấy ngoài cái tầm và cái tâm của các anh, chị. Tôi xin nêu bảy điều gởi gắm
của tôi.
Một
là về
cái mục tiêu: ”TP văn minh hiện đại, nghĩa tình, giữ vai trò đầu tàu và kinh tế-xã
hội, sớm trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương
mại. khoa học-công nghệ của khu vực Đông Nam Á”. Có thể đây là một mục tiêu đã
được un đúc trăn trở, muốn tìm lại vầng hào quang xưa của ”Hòn ngọc Viễn Đông”
mà chính mình đã cố tình đánh mất. Tôi nghĩ đây là hoài bão đẹp, đáng bỏ công bỏ
sức bỏ tâm huyết để thực hiện. Gian nan, chắc thế. Phải lột xác, phải chuyển kiếp,
phải vươn lên một nhân cách mới, thay đổi bản chất con người, bản chất xã hội,
cả cái bản chất của chế độ, thì may ra mới làm được. Tôi thấy Sài Gòn trong 40
chục năm qua có đổi thay nhiều. Nhưng nói như câu thành ngữ La tinh mà Mác hay
dùng là “cacatum non es pictum” (cái bôi bác không phải bức tranh). Sài Gòn
chưa là bức tranh! Chỉ riêng cái mơ ước rất nhân văn, rất Việt là xây dựng một
thành phố “nghĩa tình”. Có hai ví dụ về vấn đề này. Một là chuyện cô sinh viên
Phương Uyên bị đuổi học chủ yếu chỉ vì cô ấy yêu nước không theo sự lãnh đạo;
Phương Uyên đã đi trước nhiều ủy viên Thành ủy khi sớm cảnh tỉnh và lên án hoạ
xâm lược của Trung Hoa. Thành phố đã nghiến răng đuổi học một người trẻ yêu nước
đáng kính phục, vì chính kiến và tư duy của họ vượt lên cao hơn chúng ta. Chúng
ta đuổi học vì em yêu nước không như chúng ta suy nghĩ. Đây là việc có nghĩa
hay có tình? Ví dụ thứ hai để thấy chúng ta thật chưa có nghĩa có tình. Ở Sài
Gòn vẫn còn nhiều thân nhân của những chiến binh hải quân của VNCH. Chồng, cha,
và ông của họ là những chiến sĩ đã chiến đấu , hy sinh để bảo vệ Hoàng Sa thân
yêu của chúng ta. Chúng ta đang đối xử với họ rất kém nghĩa tình. Xây dựng
Thành phố Nghĩa tình, đó là minh triết của Dân tộc trong thời đại mới. Sài Gòn
đã bao giờ nghe nói tới chỉ số hạnh phúc quốc gia của Bhutan chưa. Chúng ta phải
hình thành chỉ số nghĩa tình của mình.
Hai
là, hơn
ở đâu trên nước ta, Sài Gòn là nơi tiếp biến sớm nhất, lâu dài nhất với văn hóa
và văn minh Tây phương. Sài Gòn đã từng sống với những mô hình xã hội với những
hình thức chính trị, kinh tế, văn hóa tiến bộ hợp lý. Chính Nhật Bản, Hàn quốc,
Sing-ga-po… nhờ biết tiếp biến những giá trị thời đại như thế mà họ ngày càng
đi càng phát triển. Còn Việt Nam ta do một u mê ám chướng của số phận khiến đã
vứt cái thật nhảy vồ lấy cái ảo ảnh, y hệt câu chuyện ngụ ngôn mà thế hệ Quốc
văn giáo khoa thư đã học được. Vì sao Sài Gòn có thể phá rào, vì Sài
Gòn đã được sống trong cái tâm thức và chút ít kinh nghiệm từ các mô hình hợp
lý đó. Hãy biết nâng niu, giữ gìn và làm cho những giá trị của mô hình chính trị
xã hội hợp lý ấy được tiếp biến thành bài học nhuần nhuyễn một cách khôn ngoan,
thông minh, thành một giá trị chân lý, thành bản thể của xã hội mới của Sài
Gòn.
Điều
rất trớ trêu, là từ năm 1937 Tố Hữu làm bài thơ có hình tượng ông lão nhà quê
miệt vườn Nam Bộ ngồi vót nan và mơ tưởng nước Nga, thì sau 1975 Sài Gòn và cả
nước đã đem úp cái mô hình Nga xô viết vào Việt Nam, tôi nghĩ rằng chúng ta thật
như con chó trong chuyện ngụ ngôn “thả mồi bắt bóng”. Cũng năm 1937, khi
Einstein và André Gide trở về từ Liên Xô họ đã viết bài phê phán và tiên đoán
cái mô hình xã hội xô viết không hợp lý kia chắc là không “thọ” được. Thế mà
nhiều trí thức của Sài Gòn nay vẫn thờ cái mô hình xã hội đã phá sản!
Sài
Gòn hãy làm lại, hãy đi tìm lại và ứng dụng (cố nhiên là trong chừng mực cho
phép, vì cái HP 2013 vẫn còn đó) những giá trị của dân chủ dân quyền của kinh tế
thị trường đích thực (thậm chí dẫu có phải thò cái đuôi XHCN [trong ngôn từ]
thì trong hành động cũng phải vứt bỏ nó). Đó là nói về các nhà cầm quyền hiện tại.
Còn như xã hội thì hãy giành lấy tự do để suy tư để kiếm tìm và thực hành ngay
những giá trị phổ quát của nhân loại hiện đại.
Ba
là, Sài
Gòn là nơi sớm nhất tiếp nhận, tranh luận, thực hành những tư tưởng dân chủ , tự
do, những giá trị văn hóa phương Tây, mà ngày nay đã trở thành giá trị phổ quát
nhân loại. Hãy quay về đầu thế kỷ trước tim hiểu tư tưởng và hành trạng chỉ của
năm vị họ Phan thôi, chúng ta sẽ thấy những giá trị thật vẫn còn “kim nhật, kim
thì”. Năm vị họ Phan là Phan Châu Trinh, Phan văn Trường, Phan Văn Hùm, Phan
Khôi, Phan Thanh, họ đều là những chiến sĩ dân chủ tiên phong ở nước ta. Chỉ
riêng hai cụ Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường là người đã sáng tạo ra tên
Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Le Patriote), rồi dạy dỗ và gởi gắm cái tên ấy cho Nguyễn
Tất Thành, mà về sau tất thành người nổi tiếng.
Không
lấy làm lạ là Vũ Ngọc Hoàng Ủy viên TƯ và cả Anh Chín Đào, nguyên Ủy viên TƯ, từng
là Phó bí thư Thành ủy Sài Gòn đã nói khá đậm đà, nào là ”Tự do dân chủ phải là
linh hồn của Đổi mới” hôm nay, hoặc phải dân chủ hóa, càng rộng rãi càng tốt,
khi bàn về ĐHXII này.
Do
chưa có luật lập hội, nhất là một đạo luật tổ chức và hoạt động của các đảng
chính trị dân chủ dân tộc trong thời kỳ mới ở nước ta, nên Sài Gòn chưa thể tự
mình công nhận (tôi dùng chữ công nhận chứ không dùng chữ cho phép. Một nhà nước
dân quyền mà “cho phép” dân hoạt động là không có đạo lý mà cũng không có tinh
thần pháp quyền) những tổ chức chính trị đa nguyên hoạt động. Nhưng Sài Gòn phải
biết tôn trọng các nhóm dân sự, các tổ chức phi chính phủ. Hãy thúc đẩy các
nhóm “think tank” – những vựa tư tưởng trong xã hội hành động, không nên gây rối
ngăn cản họ hoạt động. Tôn trọng hoạt động và tiếng nói dẫu là của thiểu số đối
lập, là dấu hiệu của một nhà nước, một xã hội có dân chủ thật. Ngay như Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng đang hoạt động không có đạo luật nào điều tiết cả. Đảng Cộng
sản cũng đang hoạt động, nếu không nói là phi pháp, thì cũng là thiếu vắng luật!
Hiện nay chỉ có chủ trương của đảng là cấm những đảng khác tổ chức và hoạt động,
chứ chưa hề có một luật nào cấm tổ chức và hoạt động của các đảng dân tộc dân
chủ cả.
Sài
Gòn, cả phía Dân và Xã hội, cả đảng và chính quyền cần tìm sự đồng thuận, tìm
những hình thức hoạt động để chủ động dần xây dựng một xã hội dân chủ dân quyền
làm gương, thật sự là đầu tàu của nền dân chủ mới ở nước ta. Hãy thả hết những
tù nhân lương tâm, trả lại tự do, đối xử có “nghĩa tình”, có đạo lý, có pháp
quyền với những “ngoan dân”, những nhóm người bị gán cho là đối lập. Không có
nhà nước dân chủ nào, xã hội tự do dân chủ nào mà không có nhóm đối lập. Đây là
một thử thách của chế độ, một rào cản của phát triển lành mạnh, mà Việt Nam nhất
định phải vượt qua. Sài Gòn hãy đi đầu trong cả nước.
Bốn
là, xin
giải quyết những vấn dề của công nhân, của nông dân cho tử tế. Giải quyết những
vấn đề của dân oan đòi quyền lợi đất đai hợp tình, hợp lý, chính đáng, trả lại
quyền lợi hợp pháp của họ đã bị xâm phạm cưỡng đoạt. Với công nhân xin lắng
nghe lời của K.Marx phản tỉnh về số phận giai cấp công nhân. Điều ổng nói khiến
tôi nghĩ tới thân phận của công nhân là từ kẻ làm phu đào huyệt, theo nghĩa Mác
nói vào đầu đời, đến thân phận của tên nô lệ. Vào cuối đời khi trao đổi với
Bakounine về tình cảnh giai cấp công nhân, Mác nói: ”Một khi g/c công nhân
giành được chính quyền, họ sẽ thúc đẩy một chế độ ủy trị, để cho một số người tự
ứng cử và bầu cử nhằm cai trị họ (g/c công nhân). Ngay lập tức họ (g/c cn) sẽ
rơi tõm ngay vào sự dối trá và lệ thuộc. Sau một hồi hưng phấn cách mạng trong
một nhà nước mới, họ sẽ bừng tỉnh thấy mình là nô lệ, là con rối, con mồi của
những tham vọng mới!” (Dẫn theo Marx sa vie et son oeuvre, Jean
Elleinstein, Nxb Fayard).
Tình
cảnh của g/c công nhân ở Việt Nam cũng như ở tất cả các nước xhcn đều y chang dự
báo cay đắng của K.Marx từ hơn một thế kỷ trước.
Vì
thế Sài Gòn hãy thôi thúc, giúp đỡ, mời gọi những nhà hoạt động nghiệp đoàn
giúp công nhân đi đầu thành lập những nghiệp đoàn độc lập để tham gia như một
bên bảo vệ quyền lợi của công nhân khi ta bước vào thực thi hiệp định TPP. G/c
công nhân thật sự chỉ còn lại mỗi một công cụ hợp lý và hữu hiệu là các nghiệp
đoàn của chính mình, điều mà công đoàn quốc doanh đã không làm tròn nghĩa vụ.
Năm
là, anh
Trọng có đề cập. Vấn đề giáo dục, xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực bậc cao. Sài Gòn từng có kinh nghiệm phát triển giáo dục
tư nhân, đặc biệt là sự tham gia giáo dục của các Giáo hội tôn giáo. Sài Gòn
nên tạo điều kiện cho Giáo hội tôn giáo tổ chức nhà trường và nhà thương, hai
việc mà từ truyền thống lâu đời của nước ta đã từng có. Trên thế giới hệ thống
trường học và nhà thương do các Giáo hội tổ chức rất có hiệu quả, về giáo dục
thì cả ở cấp học phổ thông cả cao đẳng và đại học. Nên nghiên cứu trả lại những
cơ sở giáo dục và bệnh viện vốn của Thiên chúa giáo và Phật giáo, hoặc tạo điều
kiện cho họ mở trường và mở bệnh viện. Tôi khi còn làm việc đã có tờ trình vấn
đề này với Ban Khoa giáo và Ban Bí thư, tôi tin rằng chủ trương này chỉ có lợi
và có tình có nghĩa.
Sáu
là, chưa
bao giờ chúng ta thấy da diết cần có một khối đoàn kết, thống nhất đất nước như
hôm nay. Vì chúng ta đang đứng trước hai điều. Một là phải nhanh chóng gia tăng
sức mạnh nội lực của Dân tộc để phục hưng, để phát triển, để có thể sớm ngăn ngừa
sự suy đồi nhân cách, suy đồi văn hóa của Dân, Nước, để có cơ may rút ngắn khoảng
cách đối với thiên hạ. Hai là để vừa đối phó với những nguy cơ thách thức về độc
lập và chủ quyền trong quan hệ với Trung Hoa đang theo xu hướng bành trướng đế
quốc; đồng thời là để có năng lực toàn diện mới trong cuộc chơi toàn cầu hóa,
trong quan hệ với các cường quốc Mỹ, Âu, Nhật, Ấn…
Thật
tâm đoàn kết, hóa giải, hòa giải với Nhóm Việt VNCH, thật thà mời gọi họ trở về.
đầu tư hoạt động, sinh sống. Nhanh chóng tháo gỡ những khúc mắc khiến cho một bộ
phận người dân Việt ở nước ngoài vẫn còn hoài nghi không muốn hợp tác.
Cần
tôn trọng thái độ đối lập hiện nay của bà con. Thật ra người Việt
VNCH chỉ có một điều chẳng phải tội lỗi gì cả. Đó là họ không muốn đi theo
khuynh hướng và thể chế “cộng sản”. Nay đã rõ chính khuynh hướng lựa chọn đường
lối xây dựng và phát triển Đất Nước của Họ là căn bản hợp lý. Đảng bộ
Sài Gòn nên đi đầu nghiên cứu và tích cực tham gia giải quyết bi kịch này của
dân tộc.
Hãy
tổ chức nghiên cứu lịch sử chế độ VNCH từng tồn tại như một nhà nước hợp pháp,
một thiết chế xã hội, một giai đoạn lịch sử của Dân tộc. Bỏ qua vấn đề này là
vô đạo và tội lỗi.
Phải
tôn trọng nhà nước VNCH, một thể chế chính trị hợp pháp của dân tộc. Từ đó xác
lập tính kế thừa nhà nước, vận dụng điều ấy cho một lợi ích thiết thân hiện nay
trong cuộc đấu tranh đòi chủ quyền Biển Đảo của chúng ta.
Bảy
là, Sài
Gòn có nhiều lợi thế và cũng có ít nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng hình
thành một nguồn nhân lực tối quan trọng của Dân của Nước hôm nay. Tôi từng bày
tỏ ý kiến này trong vài bài viết gần đây, khi đề xuất việc hình thành một “Tam
Bảo Mới” của Dân Tộc. Đó là:
-
Lớp trí thức hiền tài,
-
Lớp doanh nhân cấp tiến,
-
Lớp chính khách nhân văn (có người đề xuất là chính khách hiện đại)
Thế nào là trí
thức hiền tài.
Họ phải là những người được cha ông ta gọi là nguyên khí của quốc gia. Chắc chắn
họ không thể chỉ là nhà chuyên môn đơn thuần. Họ phải trở thành những nhà văn
hóa, những bậc sĩ phu mới của Dân, Nước. Họ đóng vai trò làm người sáng tạo giá
trị tinh thần và đạo đức xã hội, họ có vai trò định hướng xã hội, phản biện xã
hội. Họ độc lập với tư cách là những “vựa tư tưởng” (think tank) của xã hội và
Nhà nước. Năm 1946, nhà văn hóa Nguyễn Hữu Cầu, một nhân vật chủ chốt của Đông
kinh nghĩa thục nói với các môn sinh của mình đang là cán bộ cao cấp của chế độ
mới: ”Nền Độc lập này mà quốc dân vừa giành lại được, chúng ta phải có trách
nhiệm bảo vệ nó bằng những hoạt động tinh thần. Các Dân tộc chỉ trường tồn nhờ
khoa học và nghệ thuật”. Cái ý niệm tinh thần và khoa học nghệ thuật, giờ đây
được diễn đạt là sức mạnh mềm, sức mạnh thông minh của đất nước. Lớp trí thức
hiền tài chính là một cột trụ, một của báu của tòa lâu đài dân tộc. Họ trước hết
hình thành bằng tự thân, kết hợp với sự vun xới bồi đắp của xã hội và của một
chính sách nhà nước văn minh tiến bộ. Có lần trong một cuộc điều trần về chính
sách trí thức của đảng, có các anh Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Văn An dự, tôi
thưa việc hàng đầu trong chính sách phải là “bái trí vi sư” – lạy trí thức tôn họ
làm thầy, cớ gì những người chỉ lớp ba lớp
bốn mà đi đâu cũng dạy dỗ thiên hạ. Tuy nhiên Giáo sư Nguyễn Đình Tứ cố Trưởng
ban Khoa giáo đã nói với tôi, anh nói đúng nhưng họ không làm được đâu. Thật là
một nghịch lý. Cho nên tôi mong Sài Gòn có ứng xử thật tốt và đúng vấn đề này.
Thế nào là doanh
nhân cấp tiến.
Tôi không dùng khái niệm thành đạt, vì có nhiều kẻ thành đạt nhờ đã đi đêm, đã
nuôi dưỡng tham nhũng, đám người này không thể là rường cột của nền kinh tế của
nước nhà. Đất nước muốn phát triển lành mạnh phải có đội ngũ những doanh nhân cấp
tiến. Đã thấy bóng dáng những doanh nhân trí thức, biết kinh doanh, phát triển
vốn (tức tài sản của dân tộc), biết kiếm tìm bạn hàng, đối tác, biết tạo ra mối
quan hệ xã hội, quan hệ chủ thợ tốt đẹp, văn minh; biết đấu tranh và hợp tác để
xây dựng nền quản trị quốc gia tiến bộ, lành mạnh. Đặc biệt là họ phải biết tạo
ra những quả đấm, những tập đoàn mũi nhọn làm đầu tàu của nền kinh tế nước nhà.
Các doanh nhân cấp tiến phải vươn lên thành một tầng lớp, một nhân tố cho sự
phát triển mới của đất nước. Các hiệp hội nghề nghiệp, các câu lạc bộ doanh
nhân, không chỉ bàn chuyện làm ăn mà rất nên bàn đến việc thành công và thành
nhân của lớp người quan trọng này trong thế kỷ mới.
Thế nào là chính
khách nhân văn.
Có anh bạn trẻ bàn với tôi nên gọi là chính khách hiện đại. Chính khách nhân
văn rất thiếu vắng ở nước ta hiện nay. Không phải vì nước ta thiếu người tài.
Tôi cho là chủ yếu vì thể chế chính trị của ta không tương thích cho sự nảy nở
nhóm người có tài, có trí, lại có tâm để tham gia thay đổi phương thức và chất
lượng quản trị quốc gia, một đòi hỏi ngày càng trở nên cấp bách. Tại sao nền
hành chính của chúng ta trì trệ lạc hậu kéo dài; tại sao nền quản trị quốc gia
của chúng ta lạc hậu đến vậy; tại sao nền tư pháp của chúng ta từ luật cho đến
tổ chức đến nhân thân của ngành rất yếu kém; tại sao thể chế chính trị của ta lạc
hậu kéo dài, đã không tương thích cho những yêu cầu phát triển mới của dân tộc.
Cần có những chính khách nhân văn để điều tiết, để chấn chỉnh. Tôi không muốn
nói đến đội ngũ công chức dẫu họ cũng có vai trò rất lớn. Đất nước đang cần lớn
lên một lớp chim đầu đàn. Họ phải biết thảo cương lĩnh ra cương lĩnh, thảo
chính sách ra chính sách, dự thảo luật ra luật, tam quyền phân lập thật rõ là phân lập. Trung thực, cấp tiến, dám dấn
thân, dám đổi mới, dám đương đầu và trách nhiệm với dân, với nước Xin hãy trưởng
thành một lớp chính khách nhân văn, một lớp người chính trị dám bước lên trên
vũng bùn của ”dốt, tham và cậy quyền”, làm người chèo lái cho một hành trình mới
của dân tộc.
Tôi
cầu khấn cho sự hình thành một bộ Tam Bảo Mới và gởi gắm cho Sài Gòn nơi có thể
là cái nôi ươm mầm cho một nhân cách mới của đất nước.
Tôi
nghĩ con số 7 là số thiêng. Con người có bảy vía, con người ta cứ bảy ngày là
thay một lớp tế bào mới (có một con người mởi xuất hiện ), Phật ra đời đi bảy
bước để khẳng định cái bản ngã cao quý, Chúa cũng làm việc liên tục sáu ngày và
cũng dành một ngày để nghỉ ngơi. Trên bầu trời Việt định hình bảy ngôi sao cầm
trịch cho sự vần xoay của trời của đất của người!
Tôi
gởi bảy nguyện ước thiêng liêng cho Sài Gòn, một vùng chứa đầy khí thiêng sông
núi hôm nay./.
N.K.M.
Tác
giả gửi BVN
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:46
No comments:
Post a Comment