Thứ
Sáu, ngày 30 tháng 10 năm 2015
Ngài
Ban Ki- moon (Phan Cơ Văn) đang ghi lưu bút trong chuyến thăm ngày 23/5/2015.
Bên cạnh
Ngài là phu nhân cùng đi.
14h00: Tấm hình trên do một thân hữu cung cấp, ghi lại hình ảnh Ngài Ban Kimoon
(Phan Cơ Văn) đang ghi lưu bút trong chuyến thăm tới Việt Nam ngày 23 tháng 05
năm 2015.
09h00
(30.10.2015): Tôi xác nhận thông tin cách đây khoảng gần 03
tháng, Ngài Ban Ki- moon (tên chữ Hán là Phan Cơ Văn), đương kim Tổng thư ký
Liên Hiệp Quốc đã về thăm Sài Sơn, xứ Đoài (huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây cũ,
nay là Hà Nội), chiêm bái nhà thờ dòng họ Phan Huy. Ngài đã thành kính dâng
hương và chính thức nhận mình là hậu duệ của dòng họ Phan. Đoàn của Ngài Ban
Ki-moon đã được chính quyền địa phương đón tiếp, đưa đi thăm di tích và được bảo
vệ nghiêm ngặt. (TS. Nguyễn Xuân Diện)
Ông Ban Ki-moon đã bí mật đến Việt Nam?
07h33 Ngọc Thu: Có tin là ông Ban Ki-moon, Tổng Thư ký LHQ, đã bí mật đến Việt Nam cách đây 10 ngày. Nguồn tin này nói rằng ông Ban Ki-moon, phiên âm Hán Việt là Phan Cơ Văn, là hậu duệ mấy đời của cụ Phan Huy Chú (1782 – 1840).
Chuyến đi của ông được cho là tới thăm dòng họ nhân một sự kiện trong gia đình dòng tộc Phan Huy. Chuyến đi bí mật này được cho là chuyện riêng tư, nhưng không rõ có dính dáng gì đến “công chuyện”, nhất là có liên quan gì tới những tình hình nóng hổi ở VN hay không.
07h33 Ngọc Thu: Có tin là ông Ban Ki-moon, Tổng Thư ký LHQ, đã bí mật đến Việt Nam cách đây 10 ngày. Nguồn tin này nói rằng ông Ban Ki-moon, phiên âm Hán Việt là Phan Cơ Văn, là hậu duệ mấy đời của cụ Phan Huy Chú (1782 – 1840).
Chuyến đi của ông được cho là tới thăm dòng họ nhân một sự kiện trong gia đình dòng tộc Phan Huy. Chuyến đi bí mật này được cho là chuyện riêng tư, nhưng không rõ có dính dáng gì đến “công chuyện”, nhất là có liên quan gì tới những tình hình nóng hổi ở VN hay không.
Lê Vĩnh
Trương: Lưu bút của Ông Ban Kimoon, tức Phan Cơ Văn, TTK LHQ là hậu duệ của họ
Phan Huy (VN) đến thăm nhà thờ Phan Huy Chú ở Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội.
Lời
dịch của Lê Vĩnh Trương:
Tôi
xin cung kính chiêm bái nhà thờ cụ Phan Huy Chú và ngưỡng vọng liệt tổ liệt
tông họ Phan.Cảm ơn nỗ lực bảo tồn nhà thờ này. Là một hậu sinh của họ Phan,
nay phục vụ trong cương vị TTK LHQ, tôi nguyện cố gắng noi theo di huấn của tiền
nhân.
Ki Moon Ban
Tổng thư ký Liên hợp quốc
Ki Moon Ban
Tổng thư ký Liên hợp quốc
(Quốc
tế Liên hiệp Sự vụ tổng trưởng)
PHAN CƠ VĂN.
PHAN CƠ VĂN.
Lời
dịch của Ngọc Thu:
Tôi cung kính đến thăm và tỏ lòng kính trọng sâu sắc đến ngôi Nhà Thờ tự này của cụ Phan Huy Chú và các thành viên khác trong gia đình họ Phan.
Cảm ơn mọi người đã bảo quản căn nhà thờ tự này. Là một trong những thành viên gia đình họ Phan, trên cương vị tổng thư ký LHQ, tôi hứa với chính mình rằng tôi nguyện sẽ cố gắng noi theo lời dạy của Tổ Tiên
Ban Ki-moon
Tổng Thư ký LHQ
QUỐC TẾ LIÊN HỢP SỰ VỤ TỔNG TRƯỞNG
PHAN CƠ VĂN
Nguyên văn tiếng Anh:
I'm deeply humbled to visit and pay my deep respect to this House of worship of Phan Huy Chú and other Phan family members. Thank you for preserving this house of worship. As one of Phan family, now serving as secretary general of UN, I commit myself that I will try to follow the teachings of ancestors.
____________
Một trang bút tích của Ngài Ban Kimoon để so sánh nét chữ và chữ ký:
(Ngọc Thu cung cấp)
Tôi cung kính đến thăm và tỏ lòng kính trọng sâu sắc đến ngôi Nhà Thờ tự này của cụ Phan Huy Chú và các thành viên khác trong gia đình họ Phan.
Cảm ơn mọi người đã bảo quản căn nhà thờ tự này. Là một trong những thành viên gia đình họ Phan, trên cương vị tổng thư ký LHQ, tôi hứa với chính mình rằng tôi nguyện sẽ cố gắng noi theo lời dạy của Tổ Tiên
Ban Ki-moon
Tổng Thư ký LHQ
QUỐC TẾ LIÊN HỢP SỰ VỤ TỔNG TRƯỞNG
PHAN CƠ VĂN
Nguyên văn tiếng Anh:
I'm deeply humbled to visit and pay my deep respect to this House of worship of Phan Huy Chú and other Phan family members. Thank you for preserving this house of worship. As one of Phan family, now serving as secretary general of UN, I commit myself that I will try to follow the teachings of ancestors.
____________
Một trang bút tích của Ngài Ban Kimoon để so sánh nét chữ và chữ ký:
(Ngọc Thu cung cấp)
Nguồn:
FB Đinh Ngọc Thu và Lê Vĩnh Trương
___________
Từ điển Wikipedia:
Mục từ DÒNG HỌ PHAN HUY:
Dòng họ Phan Huy là một chi họ thuộc họ Phan ở Việt Nam, một trong những dòng họ giàu truyền thống văn chương và khoa bảng từ thế kỷ 18.
Dòng họ này đã định cư 18 đời từ đầu thế kỷ 17 đến nay ở xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh (xưa là làng Thu Hoạch, tổng Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An).
Đến đời thứ 7 Phan Huy Cận, người đậu Tiến sĩ đầu tiên của dòng họ Phan Huy thời Hậu Lê (1754), là người có công lớn trong việc xây dựng nhà thờ họ Phan Huy. Tiếp nối truyền thống là Phan Huy Ích con trai trưởng sinh năm 1750 nổi tiếng thông minh, năm 1771 đậu khoa thi Hương trường Nghệ, năm sau 1775 ông đậu chế khoa Đồng Tiến sĩ. Năm 1779, em trai ông là Phan Huy Ôn cũng đậu Tiến sĩ.
Năm 1787, Phan Huy Ích bỏ làm quan với nhà Hậu Lê và đã dời nhà từ làng Thu Hoạch ra làng Sài Sơn, trấn Sơn Tây. Tại đó hình thanh nên chí họ Phan Huy ở Sài Sơn.
Ở xứ Nghệ, dòng họ này đã được xem là một nhánh góp phần hình thành nên Hồng Sơn văn phái.
Ở trấn Sơn Tây, hai dòng họ thông gia Phan Huy và Ngô Thì là những dòng họ nổi tiếng, đóng góp nhiều công lao trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Mục từ PHAN HUY CHÚ, viết như sau:
Cuộc
đời và sự nghiệp
Xuất
thân trong "dòng họ Phan Huy" có tiếng về văn học, thuở nhỏ, Phan Huy
Chú có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc húy đổi là Chú. Ông là con trai thứ ba của
danh thần Phan Huy Ích và bà Ngô Thị Thực (thuộc "dòng họ Ngô Thì",
cũng có tiếng về văn học. Bà là con gái Ngô Thì Sĩ, em gái của Ngô Thì Nhậm, bà
mất khi Phan Huy Chú mới 10 tuổi).
Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau thuộc Hà Tây; và nay là thôn Thuỵ Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội).
Quê gốc của ông là thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn Nghệ An; nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, một người trong dòng họ Phan Huy (và là ông nội của Phan Huy Chú) là Phan Huy Cận (sau đổi tên là Áng), làm quan lớn dưới triều Lê-Trịnh, sau khi từ giã chốn quan trường đã đến ở làng Thụy Khuê, và trở thành "ông tổ đầu tiên của của chi phái Phan Huy" ở đây.
Vốn thông minh, được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, lại từng được Ngô Thì Nhậm (cậu ruột) rèn dạy từ lúc 6 tuổi [5]; nhưng cả hai lần thi Hương (Đinh Mão, 1807; và Kỷ Mão, 1819), ông chỉ đỗ Tú tài (nên tục gọi ông là "Kép Thầy", vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Kể từ đó, ông thôi việc thi cữ, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác.
Tuy không đỗ cao, nhưng ông vẫn nổi tiếng là người có kiến thức uyên bác. Vì vậy, năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng cho triệu ông vào kinh đô, cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm này, ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành), và được khen thưởng.
Năm Ất Dậu (1825), ông được sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam (1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức Thị độc ở Viện hàn lâm.
Năm Tân Mão (1831), lại sung Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức (ông bị cách chức), vì tội "lộng quyền".
Năm sau (Nhâm Thìn, 1832), cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội.
Trở về (Giáp Ngọ, 1834), ông được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai (làng Mơ, Kẻ Mơ), thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất.
Phan Huy Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi.
Phần mộ của ông hiện ở tại thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Các tác phẩm chính:
Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau thuộc Hà Tây; và nay là thôn Thuỵ Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội).
Quê gốc của ông là thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn Nghệ An; nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, một người trong dòng họ Phan Huy (và là ông nội của Phan Huy Chú) là Phan Huy Cận (sau đổi tên là Áng), làm quan lớn dưới triều Lê-Trịnh, sau khi từ giã chốn quan trường đã đến ở làng Thụy Khuê, và trở thành "ông tổ đầu tiên của của chi phái Phan Huy" ở đây.
Vốn thông minh, được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, lại từng được Ngô Thì Nhậm (cậu ruột) rèn dạy từ lúc 6 tuổi [5]; nhưng cả hai lần thi Hương (Đinh Mão, 1807; và Kỷ Mão, 1819), ông chỉ đỗ Tú tài (nên tục gọi ông là "Kép Thầy", vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Kể từ đó, ông thôi việc thi cữ, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác.
Tuy không đỗ cao, nhưng ông vẫn nổi tiếng là người có kiến thức uyên bác. Vì vậy, năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng cho triệu ông vào kinh đô, cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm này, ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành), và được khen thưởng.
Năm Ất Dậu (1825), ông được sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam (1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức Thị độc ở Viện hàn lâm.
Năm Tân Mão (1831), lại sung Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức (ông bị cách chức), vì tội "lộng quyền".
Năm sau (Nhâm Thìn, 1832), cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội.
Trở về (Giáp Ngọ, 1834), ông được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai (làng Mơ, Kẻ Mơ), thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất.
Phan Huy Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi.
Phần mộ của ông hiện ở tại thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Các tác phẩm chính:
- Lịch
triều hiến chương loại chí
- Hoàng Việt dư địa chí
- Mai Phong du Tây thành dã lục
- Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc)
- Hoa trình tục ngâm
- Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình ký kiến
- Hoàng Việt dư địa chí
- Mai Phong du Tây thành dã lục
- Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc)
- Hoa trình tục ngâm
- Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình ký kiến
(ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia)
- Lịch đại điển yếu thông luận, v.v...
- Lịch đại điển yếu thông luận, v.v...
Nhìn chung, Phan Huy Chú nổi tiếng là nhà nghiên cứu, biên khảo, hơn là nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm có giá trị nhất của ông là bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Đây có thể xem là "bộ bách khoa toàn thư" đầu tiên của Việt Nam. Kế tiếp, đáng kể nữa là bộ Hoàng Việt dư địa chí, ghi chép về địa lý Việt Nam.
Thông tin thêm:
Vợ Phan
Huy Chú là bà Nguyễn Thị Vũ, con gái Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch (tức Nguyễn Gia
Phan), người thôn Yên Lũng, Từ Liêm (nay thuộc Hoài Đức, Hà Nội). Ông giỏi nghề
thuốc, và từng làm quan trải đến chức Thượng thư bộ Hộ dưới triều Tây Sơn. Năm
1803, ông bị vua Gia Long sai đánh đòn tại Văn Miếu cùng với Ngô Thì Nhậm.
Hết trích Wikipedia
_____________
Hết trích Wikipedia
_____________
Tễu
thông tin thêm nữa:
Mộ Lâm Khanh Phan Huy Chú
.
Phan
Huy Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi.
Mộ Phan Huy Chú hiện đặt tại làng Thanh Mai (tức Làng Mơ, Kẻ Mơ) xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, HN, cách Sài Sơn khoảng 45 Km.
Làng Mơ là làng sinh ra Tiến sĩ Thượng Thư Lê Anh Tuấn - làm quan dưới thời Lê - Trịnh. Vì vậy dân gian gọi Lê Anh Tuấn là Quan Thượng Mơ, Cụ Thượng Mơ.
Lê Anh Tuấn là một trong "Tràng An Tứ Hổ"(Bốn con hổ đất Tràng An nổi tiếng Văn chương).
Tràng An tứ hổ: Nhất Quỳnh (Nguyễn Quỳnh),Nhị Nham, Tam Hoàn (Nguyễn Công Hoàn, bố của Thương thư Nguyễn Bá Lân, và là bạn của Lê Anh Tuấn) và Tứ TUẤN.
Làng Mai cũng là nơi ông NGUYỄN KIỀU, chồng của Bà Đoàn Thị Điểm ngồi dạy học.
Mộ Phan Huy Chú hiện đặt tại làng Thanh Mai (tức Làng Mơ, Kẻ Mơ) xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, HN, cách Sài Sơn khoảng 45 Km.
Làng Mơ là làng sinh ra Tiến sĩ Thượng Thư Lê Anh Tuấn - làm quan dưới thời Lê - Trịnh. Vì vậy dân gian gọi Lê Anh Tuấn là Quan Thượng Mơ, Cụ Thượng Mơ.
Lê Anh Tuấn là một trong "Tràng An Tứ Hổ"(Bốn con hổ đất Tràng An nổi tiếng Văn chương).
Tràng An tứ hổ: Nhất Quỳnh (Nguyễn Quỳnh),Nhị Nham, Tam Hoàn (Nguyễn Công Hoàn, bố của Thương thư Nguyễn Bá Lân, và là bạn của Lê Anh Tuấn) và Tứ TUẤN.
Làng Mai cũng là nơi ông NGUYỄN KIỀU, chồng của Bà Đoàn Thị Điểm ngồi dạy học.
Theo
Bùi Hạnh Cẩn trong cuốn "Bà Điểm họ Đoàn" thì: Nguyễn Kiều lấy con
gái Lê Anh Tuấn, sau bà này mất thì lấy con nuôi của Lê Anh Tuấn là Đoàn Thị Điểm
(tức Hồng Hà nữ sĩ, tác giả của Truyền kỳ tân phả).
Bà Đoàn Thị Điểm có phải là con nuôi của Thượng thư Lê Anh Tuấn không thì hiện nay chưa có tư liệu chứng minh.
No comments:
Post a Comment