Được
đăng ngày Thứ hai, 26 Tháng 10 2015 16:10
Nói
Trung Quốc là kẻ vô luật lệ trong vấn đề Biển Đông là không đúng cho lắm, nói
chính xác hơn "họ là những con cáo" biết tận dụng thời cơ, sử dụng luật
lệ và áp đặt luật rừng với các nước trong khu vực thậm chí với Hoa Kỳ.
Năm
1974, Trung Quốc ngang nhiên đánh chiếm các đảo Hoàng Sa (có sự phản kháng quân
lực VNCH), đến tận năm 2015 hầu như toàn bộ các hòn đảo trên 2 quần đảo Hoàng
Sa-Trường Sa đã rơi vào tay của Trung Quốc. Một điều thú vị là Hoa Kỳ và Việt
Nam (sau 1975) không hề phản ứng và phản kháng gì đối với chiến dịch đánh chiếm
của hải quân Trung Quốc. Hoa Kỳ và Việt Nam chắc chắn đã ký những thỏa thuận với
Trung Quốc, nếu không chính quyền Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ hiểu rõ việc đánh chiếm
các hòn đảo sẽ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, tình hình an ninh hàng hải
trong khu vực và thế giới.
Việc
tổng thống Richard Nixon (nhiệm kỳ 1969-1974) có những bê bối chính trị và
"hội nghị Thành Đô" năm 1990 của Đảng Cộng Sản Việt Nam càng minh chứng
cho những thỏa thuận với Trung Quốc là có thực. Những năm gần đây, đặc biệt là
chiến lược xoay trục Châu Á-Thái Bình Dương của chính quyền Obama và chính sách
"quân sự hóa và phát triển hạ tầng" trên các hòn đảo Hoàng Sa-Trường
Sa (Thuộc chủ quyền của Việt Nam) đã làm tình hình căng thẳng thêm, có nguy cơ
leo thang dẫn đến xung đột bằng quân sự trong khu vực.
Một
yếu tố quan trọng dẫn đến sự mâu thuẫn chính trị giữa hai cường quốc Trung-Mỹ
là "lập trường của Đảng Cộng Sản Việt Nam". Đảng Cộng Sản Việt Nam
đang đứng vai trò trung lập, sự trung lập đó khiến Hoa Kỳ và các nước trong khu
vực ngỡ ngàng khi toàn bộ biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Bộ
ngoại giao và các tướng lĩnh Cộng Sản Việt Nam luôn quan ngại sâu sắc, luồn
lách và phản đối mang tính chất nói cho có. Nhân dân và giới ngoại giao thế giới
nghe muốn thuộc lòng từng lời nói và cử chỉ. Vấn đề quan ngại của Việt Nam về vấn
đề Biển Đông khiến tổng thống Philippines phải mạnh dạn phát biểu "luật
pháp quốc tế không thể áp đặt đối với Trung Quốc thì không thể áp đặt với bất kỳ
quốc gia nào". Một lời phát biểu mang tính mỉa mai chính quyền Hà Nội thì
đúng hơn, người Philippines biết rằng ngoài sử dụng luật pháp luật quốc tế, còn
phải thể hiện rõ lập trường "đồng minh quân sự" trước một Trung Quốc
vô luật lệ và lấy quân sự để giải quyết các vấn đề tranh chấp biển đảo như thế.
Chính
quyền Obama đã nhiều lần muốn làm rõ lập trường của chính quyền Hà Nội trong 2
cuộc gặp gỡ với chủ tịch nước Trương Tấn Sang (2013) và tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng (2015). Kết quả "zero" là con số mà người Mỹ đạt được sao 2 cuộc
gặp gỡ đó, có thể người Mỹ sẽ tiếp tục nhẫn nại hoặc đã hiểu lập trường
"nghiêng về phía Trung Quốc" trong chuyến công du Đông Nam Á sắp tới.
Việc lôi kéo chính quyền Việt Nam đứng về phía Hoa Kỳ là rất cần thiết trong
chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương. Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ có những bước tiến
"tiếp cận lãnh thổ Trung Quốc" bằng các cuộc tập trận chung trên Biển
Đông (thuộc chủ quyền Việt Nam) và sự hiện diện của hải quân lâu dài góp phần
răn đe "phủ đầu" Trung Quốc bất cứ lúc nào.
Nhưng
đáng tiếc, Việt Nam đã quá lộ rõ "lập trường anh em khối Cộng Sản"
khi đề xuất cho người Nga thuê cảng Cam Ranh và tập trận hải quân thường niên với
Trung Quốc trên Biển Đông. Mới đây, Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện John
McCain đã đưa ra những khuyết điểm của hải quân Hoa Kỳ, trong đó các "tàu
sân bay" không thể tấn công phủ đầu Trung Quốc khi chưa tiếp cận lãnh thổ
Trung Quốc với khoảng cách 800km (các chiến đấu cơ có tầm hoạt động giới hạn dưới
800km). Các tên lửa chống hạm DF-21D có tầm bắn hơn 1500km là vũ khí chiến lược
"giá rẻ-số lượng lớn" răn đe các hạm đội Mỹ. Đó cũng là một trong những
lý do người Mỹ vẫn tiếp tục dùng luật lệ quốc tế, tuần tra bằng tàu chiến vào
vùng 12 hải lý (dễ rơi vào cái bẫy của Trung Quốc) thay vì đưa cả hạm đội vào
Biển Đông.
Một
lý do khó nói nữa của người Mỹ là không quân ở các cứ Hawaii, Guam, Hàn Quốc,
Nhật Bản khó có thể phủ đầu các căn cứ quân sự chủ chốt (hệ thống các tên lửa
DF) nằm phía Đông Bắc Kinh. Sự bế tắc về số lượng máy bay tiêm kích F-22 quá ít
ỏi (hết tên lửa), không thể thiết lập các phi đội bay hoàn hảo hộ tống những
chiếc bay ném bom tối tân như B-52, B2, F-117 trước số lượng lớn các chiến đấu
cơ Trung Quốc và hệ thống phòng không "đa cấp" (Sam, HQ-9, S300,
S400). Sự hối thúc sản xuất các loại máy bay không người lái (UAV) và máy bay
tiêm kích F-35 Lightning II đại trà (2019) cũng nói lên phần nào nỗi lo lắng của
người Mỹ. Tác chiến điện tử rất quan trọng trong chiến tranh hiện đại, và người
Mỹ cũng đang gặp phải vấn đề trong cuộc chiến "tác chiến điện tử" khi
người Trung Quốc đã thử nghiệm "tương đối thành công" các loại tên lửa
chống vệ tinh DN-2 và SC-19 và triển khai trong 5 đến 10 năm tới. Chính quyền
Trung Quốc rất quyết tâm chi tiêu để thực hiện các dự án quan trọng đó, trong
khi người Mỹ đang quá lệ thuộc vào thông tin từ các vệ tinh mang lại (70% thông
tin cung cấp và dẫn đường hầu hết các tên lửa).
Người
Trung Quốc đang chứng tỏ họ rất khôn ngoan khi đặt ra đúng vấn đề, đầu tư đúng
chỗ mà vẫn đạt hiệu quả thực tế cao trước một cường quốc công nghệ quân sự hàng
đầu. Về vấn đề này, các ông chủ nhà trắng không thể tiếp tục cắt giảm ngân sách
(thực trạng họ đang cắt giảm chi tiêu quốc phòng) cho các dự án vũ trụ tầm cỡ
(X-37b) hoặc những vũ khí bí mật nào có thể răn đe được Trung Quốc thì thời
gian tới sẽ lộ diện và được đưa về các căn cứ quân sự Hoa Kỳ-Đồng minh ở Châu
Á-Thái Bình Dương.
Một
vấn đề khó nói của người Mỹ nữa là các tư bản Hoa Kỳ chưa đồng thuận tài trợ tổn
thất chiến tranh cho chính quyền Obama. Họ có lý do chính đáng bởi thực tế cho
thấy một chiến dịch phủ đầu chớp nhoáng các căn cứ quân sự Trung Quốc là một
nhiệm vụ bất khả thi. Sự kéo dài cuộc chiến giữa hai cường quốc quân sự sẽ gây
tổn thất rất lớn cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Bằng chứng mới nhất của sự bất lực nữa
khi bộ quốc phòng Hoa Kỳ điều thêm 2 tàu khu trục mang tên lửa đạn đạo đến Nhật
Bản, một sự cảnh cáo rất mạnh mẽ, nhưng nói lên một suy nghĩ cực kỳ bế tắc của
người Mỹ.
Sự
răn đe đó sẽ làm leo thang cuộc chiến tranh bằng vũ khí hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên-Trung-Mỹ. Vị thế chính trị, cũng như lời nói của chính quyền Obama
đã không còn giá trị trong cuộc lật đổ chính quyền độc tài Al-Assad, khi
"chiến lược Syria" của người đồng cấp Putin đã khẳng định vai trò
"nói là làm đến cùng". Những chế độ độc tài còn sót lại sẽ tìm đến
Nga, sự bất ổn chính trị trên thế giới sẽ khiến cho Hoa Kỳ và đồng minh không
thể kiểm soát được trong tương lai. Bên cạnh đó, cuộc chiến chống lực lượng khủng
bố IS do Hoa Kỳ đứng đầu đã không còn sức quyến rũ khi lần lượt các đồng minh
khối Nato từ chối tham gia.
Mới
đây tân thủ tướng Canada cũng tuyên bố sẽ rút lực lượng không quân từ chiến trường
Syria và Iraq. Giới phân tích quân sự hay ví von: Người Anh là hậu cần vững chắc
cho người Mỹ, họ có một mối quan hệ đồng minh rất mật thiết. Nhưng thực tế người
Trung Quốc đang tiếp cận người Anh bằng chính sách "quan hệ mật thiết",
liệu người Anh có bị tiền của Trung Quốc cướp mất hồn hay không? Sự cắt giảm
binh sĩ và sự thiếu hụt vũ khí trầm trọng ở Châu Âu, một phần minh chứng vị thế
quân sự của Hoa Kỳ đã suy giảm rất nhiều so với thời chiến tranh lạnh. Sự rủi
ro phá vỡ tính đồng minh khối EU về "vấn đề kinh tế" của hiệp định
TPP cũng là lý do chính đáng cho việc phản đối chính quyền Obama từ các nghị sĩ
Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ.
Người
Mỹ có quá nhiều vấn đề đang bế tắc, trong khi một chính quyền Obama quá mềm yếu,
quá thực tiễn không đưa ra các hướng giải quyết triệt để. Sự cứng rắn của chính
quyền Obama trong vấn đề Biển Đông là lẽ đương nhiên "có muộn còn hơn
không", nhưng đã quá muộn trước một sự tính toán khôn ngoan của người
Trung Quốc trong mốc thời gian 2015-2020. Khoảng cách thời gian đó đủ để
"chuỗi đảo thức 1" quân sự hóa răn đe các lực lượng hải quân qua lại
trong khu vực Biển Đông và Tây-Thái Bình Dương.
Chính
quyền Hà Nội đang hả hê trước "sự áp đảo chính trị-quân sự" của người
anh cả Trung Quốc. Bằng chứng mới nhất là bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Phùng
Quang Thanh có những giọng điệu khó nghe nhưng rất dễ hiểu "Mất chế độ, mất
Đảng thì biển, đảo cũng mất". Một câu nói ví von của tôi cho câu nói trên
của ông Phùng "Mất Đảng cộng sản là Trung Quốc đánh cho không còn cái răng
để ăn bánh vẽ".
Vấn
đề Cộng Sản đã là của chung của hai nước cộng sản Việt Nam-Trung Quốc, liệu
nhân dân Việt Nam có nhìn thấy rõ bộ mặt thật của Đảng Cộng Sản Việt Nam hay
không? Trong khi Cộng Sản Việt Nam đã quá lộ bản chất bán rẻ lợi ích quốc gia
"sẵn sàng làm chư hầu cho Trung Quốc"? Cuộc chiến ý thức hệ đã chấm dứt
từ rất lâu, giới lãnh đạo cấp cao Cộng Sản Việt Nam lại loay hoay bảo vệ cho bằng
được chủ nghĩa cộng sản. Họ đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng sự ấu trĩ của
họ là điều không còn gì để bàn đến, nhưng các trí thức Việt Nam còn ấu trĩ hơn
khi không có sự dứt khoát và phải hành động để "thay đổi chế độ Cộng Sản bằng
một chế độ dân chủ đa nguyên cho đất nước".
Vấn
đề Biển Đông lại có thêm một quốc gia có tiếng nói ngang hàng với Hoa Kỳ đó là
Nhật Bản, trong tương lai các vấn đề trong khu vực Đông Á-Thái Bình Dương cũng
sẽ là vấn đề của người Nhật. Có thể cả thế giới sẽ tin tưởng giới lãnh đạo Nhật
Bản hơn chính quyền Hoa Kỳ, bởi lịch sử đã chứng minh chính quyền Hoa Kỳ quá thực
dụng trong vấn đề kiềm chế Trung Quốc. Sự ủng hộ Nhật Bản bành trướng quân sự từ
các nước trong khu vực và chuyện sở hữu vũ khí hạt nhân chỉ còn là vấn đề thời
gian.
Nguyễn
Hòa Bình
No comments:
Post a Comment