Phạm Chí Dũng
Sunday, October 25, 2015 4:12:12 PM
Phải
làm rõ trách nhiệm của các quan chức “thân Trung” ở những bộ ngành liên hệ quá
môi răng với hàng nhập từ Trung Quốc: Bộ Trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng, Bộ
Trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng, Bộ Trưởng Xây Dựng Trịnh Đình Dũng. Việc
làm rõ và quy trách nhiệm này cần được làm trước Đại Hội Đảng 12.
Mùa Thu năm 2015 và là lần đầu tiên kể từ Hội Nghị
Thành Đô những năm 1990, báo chí và dư luận xã hội Việt Nam bất ngờ tỉnh ngủ về
tương lai “thoát Trung” nếu Việt Nam được gia nhập Hiệp Định TPP. Thậm chí vài
tờ báo nhà nước còn can đảm rút tít từ ngữ trong ngoặc kép bị coi là rất nhạy cảm
này.
Sự kiện trên diễn ra trong bối cảnh hơn một năm sau
thời điểm giàn khoan HD 981 của Trung Quốc tha hồ vỗ mặt Bộ Chính Trị và Quốc Hội
Việt Nam, và ngay sau khi TPP kết thúc đàm phán với một chân của Việt Nam đặt
trên ngưỡng cửa hiệp định cứu rỗi kinh tế này.
Cũng từ khoảng một năm qua, có tin cho biết “Trung
ương đảng” đã quyết định “dần thoát Trung.” Bằng chứng là ngay cả một nhân vật
bị coi là cực kỳ bảo thủ như Tổng Bí Thư Trọng cũng đã đặt chân đến Washington
vào Tháng Bảy vừa qua.
Thế nhưng thực tiễn “thoát Trung” bằng cách nào và
tiến hóa tới đâu lại là bài toán cực kỳ nan giải, nếu xét từ hệ quy chiếu ngàn
năm Bắc thuộc và hệ tư tưởng cộng sinh của Hà Nội vào Bắc Kinh trong suốt bảy
chục năm lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam.
Bởi “thoát Trung” ngay trong những năm tới là một khả
năng hoàn toàn “viễn vông” - nếu có thể mượn từ ngữ này của Thủ Tướng Dũng để
mô phỏng mối quan hệ Việt-Trung.
Mối tình ngang trái
Ngay sau vụ HD 981 vào giữa năm 2014, giới chính trị và người dân Việt Nam đã phải tính tới viễn tượng đất nước bị Trung Quốc tấn công. Nếu kịch bản này xảy ra ngay tức khắc, cánh cửa nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Trung Quốc dùng cho các doanh nghiệp dệt may sẽ bị đóng sập. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã thản thốt than trời rằng nếu mất nguồn nhập khẩu đã ăn sâu vào não trạng này, họ chỉ có thể cầm cự được tối đa ba tháng.
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia
trên thế giới, Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Trung Quốc trở
thành thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỉ trọng khoảng
20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 2014, nhập siêu của Việt Nam từ thị trường
này ở mức kỷ lục với 28 tỷ USD - theo thống kê chính thức của phía Việt Nam.
Nhưng số liệu phía Trung Quốc lại còn cao hơn, cộng thêm cả hàng nhập tiểu ngạch
đường biên mậu, hàng lậu, trốn thuế. Nếu vào năm 2012, Việt Nam công bố con số
nhập khẩu từ Trung Quốc là 28.8 tỷ USD, thì con số của cơ quan chức năng Trung
Quốc lại đến 34 tỷ USD.
Phần lớn hàng nhập từ Trung Quốc là hàng trung gian,
chiếm 60% gồm nguyên phụ liệu cho các ngành dệt may, da giày, điện tử; các loại
máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm khoảng 30%; hàng tiêu dùng chiếm
10%.
Trong danh sách các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc
năm 2014, Việt Nam tốn hàng chục tỷ USD cho nguyên phụ liệu dệt may, da giày, vải
các loại, sắt thép, máy vi tính và sản phẩm điện tử linh kiện, máy móc, thiết bị
dụng cụ, phụ tùng, điện thoại các loại...
Chỉ từ sau năm 2000 đến nay, giá trị nhập siêu của
Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng đến 150 lần, từ mức 200 triệu USD lên đến 35 tỷ
USD dự kiến trong năm 2015. Còn trong những năm 2013 và 2014, Việt Nam phải nhập
siêu từ 23-24 tỷ USD hàng năm từ Trung Quốc. Đó là chưa kể đến 20 tỷ USD nhập lập
từ Trung Quốc mà cho tới giờ này các bộ ngành Việt Nam vẫn còn nhắm mắt đổ lỗi
cho nhau, không ai biết số hàng này tuồn đi đâu và cũng chẳng ai dám nhận trách
nhiệm...
Một nghiên cứu của Trung Tâm WTO còn cho thấy, các
nhà thầu Trung Quốc là tổng thầu EPC của 77/106 dự án lớn trong các lĩnh vực
hóa chất, khai thác chế biến bauxite, xi măng, nhiệt điện... của Việt Nam. Đây
là những dự án lớn, ảnh hưởng đến nền kinh tế nhưng do nhà thầu Trung Quốc thực
hiện nên một phần đáng kể nguồn cung năng lượng, các hoạt động của nền kinh tế
phụ thuộc vào năng lực, chất lượng và hiệu quả từ các hoạt động của nhà thầu nước
này. Phần lớn các dự án lại sử dụng máy móc, vật tư, nguyên liệu nhập từ Trung
Quốc càng khiến tình trạng nhập siêu của Việt Nam từ thị trường này thêm trầm
trọng. Nhiều nhà máy sau khi đi vào vận hành lại gặp trục trặc, thời gian sửa
chữa, bảo dưỡng kéo dài...
Đó là một sự mất cân xứng quá lớn và làm lợi rất nhiều
cho Trung Quốc.
Ai và những cơ quan nào của Việt Nam đã tiếp tay cho
hậu quả phụ thuộc thiên triều như thế? Làm sao có thể “thoát Trung” về kinh tế
nếu vẫn khư khư ôm chặt mối tình bời rời ngang trái giữa hai thân xác chính trị
thỗn thện?
Kẻ nào tiếp tay bán đứng dân tộc?
Giới chuyên gia đánh giá: Với tỉ trọng 60% nguyên phụ liệu đầu vào nhập từ Trung Quốc, nếu từ bỏ thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ xoay trở không kịp. Cơ cấu này đang gây khó rất lớn cho việc Việt Nam tham gia vào TPP, ứng với một điều kiện không thể thay đổi của TPP là Việt Nam phải chuyển đổi vùng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài TPP như Trung Quốc về các nước trong khối TPP.
Vậy là TPP chỉ có thể làm được vài việc cho khả năng
thoát Trung về kinh tế. Với quy định nghiêm ngặt của TPP về cơ chế phải nhập
nguyên vật liệu từ các nước nội khối TPP, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải bắt
buộc chuyển đổi dần cơ cấu nhập khẩu từ kênh Trung Quốc sang các nước khác như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore..., giảm dần tỉ lệ nhập siêu từ Trung Quốc.
Tuy thế, cản
ngại rất lớn đang tồn tại đối với triển vọng thoát Trung không chỉ là là thói
quen nhập hàng giá rẻ của Trung Quốc, mà còn bởi lợi ích nhóm về kinh tế và
chính trị của một lực lượng không nhỏ giới quan chức Việt Nam nhưng “thân Tàu.”
Trong thời gian qua, số quan chức này đã tìm cách ngăn cản và phá đám Hiệp Định
TPP cho Việt Nam. Trong thời gian tới, những quan chức này còn có thể tiếp tục
tạo ra những tình huống nan giản để gây khó khăn cho tiến trình Việt Nam triển
khai thực thi các quy định TPP. Đặc biệt với những quan chức này nằm trong những
bộ ngành kinh tế liên quan mật thiết đến TPP như Bộ Công Thương, Bộ Xây Dựng, Bộ
Giao Thông Vận Tải, Bộ Kế Hoạch và đầu tư..., nhiều doanh nghiệp Việt Nam muốn
chuyển đổi kênh nhập khẩu sẽ bị hành hạ không ít bởi chủ kiến chính trị của Bắc
Kinh.
Bởi thế trong những năm trước mắt, chỉ có thể thận
trọng nói tới khả năng Việt Nam “giãn Trung” về kinh tế, và tốt hơn nữa là
“giãn Trung” về chính trị.
Nhưng muốn “giãn Trung” về chính trị như điều mà có
lẽ phần lớn giới lãnh đạo Hà Nội đang ý thức một cách chậm chạp, lại cần phải
có những hành động cụ thể thay cho lời lẽ đầu môi chót lưỡi và thay cho những
khẩu hiệu mà đã khiến trí thức và nhân dân nhàm chán đến mức tăng vọt hệ số tiểu
đường.
Tại sao dư luận càng phản ứng thì nạn nhập siêu từ
Trung Quốc càng trầm trọng và năm sau càng trầm kha hơn năm trước? - đòi hỏi đầu
tiên của nhân dân cần được giới lãnh đạo Việt Nam xử lý ngay.
20 tỷ hàng nhập lậu từ Trung Quốc đã
đi đâu và ai, những cơ quan nào phải chịu trách nhiệm về lỗ hổng có thể nuốt sống
cả dân tộc như thế? - một đòi hỏi tiếp theo.
Hai đòi hỏi trên lại dẫn đến đòi hỏi thứ ba và không
thể thiếu: Phải làm rõ
trách nhiệm của các quan chức “thân Trung” ở những bộ ngành liên hệ quá môi
răng với hàng nhập từ Trung Quốc: Bộ Trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng, Bộ Trưởng
Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng, Bộ Trưởng Xây Dựng Trịnh Đình Dũng.
Việc làm rõ và quy trách nhiệm đối với các ủy viên trung ương này phải được làm
trước khi đảng cầm quyền tổ chức Đại Hội lần thứ 12.
Kể cả những kẻ đã tiếp tay bán đứng dân tộc này cho
Trung Quốc...
No comments:
Post a Comment