Ngày 15-10-2015, Tân Hoa Xã bình luận: Mỹ có thể tự
bắn vào chân mình nếu thực hiện các cuộc tuần dương vào những vùng biển lân cận
các đảo “của Trung Quốc” ở biển Đông. 12 ngày sau, 27-10-2015, Mỹ đã “tự bắn
vào chân mình”, bằng chuyến hải hành của khu trục hạm USS Lassen. Vấn đề tiếp theo
là gì?
Năm 1981, không lâu sau khi Lầu năm góc tung ra báo
cáo định kỳ về thách thức trong tự do hàng hải, Mỹ quyết định “hiện thực hóa” bằng
việc đưa hai hàng không mẫu hạm vào vịnh Sidra mà Libya tuyên bố chủ quyền toàn
bộ. Phản ứng dữ dội của Libya đã dẫn đến cuộc không chiến khiến hai chiến đấu
cơ Libya bị hạ. Năm 1988, khi Mỹ củng cố khái niệm tự do hàng hải tại Hắc Hải,
cách không xa bán đảo Crimea, cuộc đụng độ giữa hải quân Mỹ và Liên Xô cũng xảy
ra. Hai tàu Mỹ bị đụng.
Cần nhấn mạnh, tự do hàng hải là một khái niệm mang
tính chính sách của Mỹ, không phải là một phát biểu suôn. Nó nằm trong khuôn khổ
chính sách quốc phòng lẫn an ninh kinh tế của Mỹ từ sau Thế chiến thứ hai, thuộc
về cái gọi là “Chương trình Tự do hàng hải” của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Các hoạt
động của Hải quân Hoa Kỳ đều tuân theo những nguyên tắc của chương trình này.
Tháng 3-2015, Bộ quốc phòng Hoa Kỳ nhấn mạnh: “Kể từ thời lập quốc, Mỹ luôn khẳng
định quyền lợi sống còn trong việc bảo vệ và duy trì tự do hàng hải và luôn kêu
gọi quân đội các nước bảo vệ lợi ích này”.
Như được thuật từ Foreign Affairs (12-10-2015), năm
1801-1805, Hải quân Mỹ lần đầu tiên thực thi việc bảo vệ lợi ích thương mại
hàng hải trong cuộc chiến Barbary (giữa Mỹ và các nước duyên hải Barbary thuộc
sắc tộc Berber nằm ở Bắc Phi), khi hải tặc Barbary yêu cầu tàu buôn Mỹ phải cống
nạp mới được phép đi ngang Địa Trung Hải. Phản ứng, Tổng thống Thomas Jefferson
và sau đó là James Madison tuyên chiến. Jefferson đánh đợt đầu (1801-1805), đưa
quân vào các thành phố của hải tặc (nay là Libya, Tunisia và Algeria); Madison
đánh đợt hai vào năm 1815.
Đến năm 1979, thời Jimmy Carter, hoạt động bảo vệ
quyền tự do hàng hải được chính thức đưa vào chương trình “Tự do Hàng hải” (gọi
chung là “các hoạt động tự do hàng hải”; freedom of navigation
operation-FONOP), thuộc giám sát của Bộ quốc phòng lẫn Bộ ngoại giao. Bộ ngoại
giao chịu trách nhiệm phản đối về mặt ngoại giao; Bộ quốc phòng và Bộ ngoại
giao tổ chức thảo luận với các đối tác đồng minh về luật quốc tế và chương
trình hỗ tương quân sự; Bộ quốc phòng chịu trách nhiệm thực hiện chiến dịch tuần
dương khẳng định quyền tự do hàng hải. Tính đến nay, Bộ quốc phòng Mỹ đã thực
hiện nhiều cuộc tuần dương vào những vùng biển thuộc các nước mà Mỹ cho rằng họ
tự tuyên bố chủ quyền: 19 hải vụ năm 2013 và 35 hải vụ năm 2014 (trong đó có 19
hải vụ thuộc vùng quản lý địa lý của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ).
Từ tháng 5-2015, giới chức quân sự Mỹ đã nhiều lần đề
cập việc đưa tàu chiến vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Tuy
nhiên, nội bộ Mỹ chưa thống nhất trong cách xử lý, giữa một bên chọn giải pháp
ngoại giao (Nhà trắng, Bộ ngoại giao) và bên kia chọn cách tiếp cận cứng rắn (Bộ
quốc phòng, đặc biệt các bộ tư lệnh vùng). Ngày 18-6-2015, Trợ lý Ngoại trưởng
đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương Daniel Russel còn nói: “Bởi tầm quan trọng của
biển Đông nên về cơ bản đây không phải là vấn đề giữa Mỹ và Trung Quốc”.
Phát biểu xụi lơ này khiến giới cầm binh Hoa Kỳ tại
khu vực bất bình. Tường trình trước Ủy ban quân vụ Thượng viện ngày 17-9-2015,
đô đốc Harry Harris, tư lệnh trưởng Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, nhấn mạnh ông ủng
hộ thực hiện FONOP quanh các đảo nhân tạo “của Trung Quốc”. Trong khi đó, cũng
tại phiên điều trần trên, Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách châu Á-Thái Bình Dương
David Shear nói: các chiến dịch như vậy vẫn phải chờ đèn xanh từ Nhà trắng, nơi
không đồng ý thực hiện một FONOP trong phạm vi 12 hải lý quanh các thực thể đảo
Trung Quốc kể từ năm 2012!
Sự kiện USS Lassen vào khu vực Trường Sa ngày
27-10-2015 hẳn là kết quả của phe ủng hộ giải pháp cứng rắn trong nội bộ Mỹ, và
rằng khái niệm “tự do hàng hải”, được hiểu như một chính sách an ninh, đang bắt
đầu khẳng định lại giá trị của nó đối với giới chiến lược Hoa Kỳ. Washington có
thể đã hiểu rằng họ đã quá chậm trong đối sách ngăn chặn chương trình quân sự
hóa biển Đông của Trung Quốc, quá thờ ơ hoặc đánh giá thấp trước những phát biểu
không hề vô thưởng vô phạt, như phát biểu của tướng chỉ huy Hạm đội biển Bắc –
Viên Dự Bá – ngày 15-9-2015 (ngay trước khi Tập công du Mỹ) rằng, “biển Nam
Trung Hoa (cách mà Trung Quốc gọi biển Đông), như tên gọi của nó, là vùng biển
thuộc Trung Quốc, như nó hằng thuộc về Trung Quốc suốt từ nhà Hán vào năm 206
TCN đến nay”.
Bằng sự kiện USS Lassen, Mỹ đã chính thức dùng lá
bài “tự do hàng hải” để đối đầu Trung Quốc. Nó tạo thành tiền lệ cho các chiến
dịch FONOP tại biển Đông, tạo cơ hội mang lại niềm tin cho các đồng minh khu vực
ở thời điểm này (cơ hội mang lại niềm tin, chưa hẳn là niềm tin, đặc biệt với một
người đong đưa dè dặt như Obama). Dù thế nào, một khi sử dụng chiếc bẫy “tự do
hàng hải” bằng tàu chiến, Mỹ đã soạn xong kịch bản va chạm quân sự. Bị khước từ
chủ quyền tự tuyên tự xưng, Trung Quốc có nhảy dựng lên và lao đến tháp pháo nã
súng? Dĩ nhiên là không. Tuy nhiên, nếu Mỹ chỉ chơi trò nắn gân bằng một hành động
đơn nhất mà không thực hiện chuỗi hành động quân sự tiếp theo thì khó có thể vỗ
tay tán thưởng sự kiện USS Lassen. Vấn đề tiếp theo, không phải là màn khẩu chiến
văng nước bọt như nhiều năm qua, không phải xem Trung Quốc làm gì nữa trong khi
họ đã làm rất nhiều, mà là màn đấm liên hoàn sau cú thọc mạng sườn mang tên
“USS Lassen” của Obama, nếu ông thật sự thủ đắc chiêu này.
M.
K.
No comments:
Post a Comment