Giao Chỉ
Posted by admin on June 15, 2011
Lịch sử miền Nam Việt Nam của chúng ta ngoài bất hạnh to lớn là ngày mất nước tan hàng 30 tháng 4-1975 còn có những bất hạnh nhỏ cũng khá đau thương.
Nếu chúng ta có những ngày ghi dấu rõ ràng như giỗ Tổ Hùng Vương, Hai bà Trưng, rồi trải qua các triều đại anh hùng chiến đấu chống Bắc phương của thời xưa thì ngày tháng lịch sử của một trăm năm qua có nhiều điều phiền muộn.
Không thể kể đến các ngày tháng mà phe cộng sản ồn ào tưởng niệm, riêng Miền Nam chúng ta vẫn còn nhớ ngày 20 tháng 7-1954 chia đôi đất nước. Rồi đến 30 tháng 4-1975 mất nốt Miền Nam. Phải chăng chúng ta có đến 2 ngày Quốc Khánh nhưng chẳng ngày nào được coi là toàn quân toàn dân đồng thuận.
Ngày 26 tháng 10 của nền đệ nhất Cộng Hòa với thủ tướng Ngô Đình Diệm cũng phải trả giá mở đầu bằng cuộc truất phế ông vua cuối cùng của triều Nguyễn và chấm dứt bằng cái chết của vị tổng thống. Qua nền đệ nhị Cộng Hòa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã ra đời bắt đầu bằng một ngày Quốc Khánh mới 1 tháng 11. Ở giữa 2 nền Cộng Hòa có ngày 19-6-1965. Ngày mà ông thủ tướng Kỳ gọi là ngày quân đội lên cầm quyền. Đó là ngày được chọn là ngày Quân Lực, chúng ta vẫn tưởng nhớ và kỷ niệm cho đến nay. Tại hải ngoại đây là ngày quân lực lần thứ 45.
Tháng 4 vừa qua, tác giả Huỳnh Văn Lang vốn là công chức quan trọng thời đệ nhất Cộng Hòa, khi viết sách và ra mắt tại San Jose đã gọi đệ nhị Cộng Hòa là giai đoạn người lính cầm quyền. Dù rất kính trọng cụ Huỳnh là bậc cao niên uyên bác nhưng tôi vẫn không đồng ý. Lính tráng anh em chúng tôi tuyệt đại đa số ở cấp dưới, không hề dính dáng gì đến cái gọi là cầm quyền của một số rất ít các tướng lãnh.
Mặc dù không thích cái ý nghĩa lịch sử của ngày Quân lực, nhưng không phải vì vậy mà chúng tôi không tôn trọng nó. Đây chính là điều hẹn ước. Đây chính là một sự thỏa hiệp. Đây là cái cây của tình chiến hữu, phải chăm sóc mới tồn tại và phải tưới nước bón phân mới sống được. Rất tiếc một lần nữa tại San Jose năm nay lại có đến 2 ngày Quân lực. Hai địa điểm, hai tổ chức, cùng một ngày : ngày Chủ nhật 19 tháng 6-2011.
Việc chia rẽ từ nhiều năm tưởng ngày nay đã có thể hàn gắn, nhưng bây giở đành phải chờ đến sang năm…
Sau cùng, khi nói chuyện cũ vẫn có anh em trẻ hỏi rằng tại sao ngày xưa không lựa chọn một ngày nào khác có ý nghĩa và không hệ lụy với biến chuyển thời sự cuả các triều đại.
Bèn kể lại chuyện lịch sử ngày Quân lực như sau:
45 Lần Quân Lực, một cựu chiến binh, viết cho đời lính
Tôi đã từng đọc biết bao lần về lịch sử Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi lần đọc là một lần khắc khoải, nhưng rồi bụng lại bảo dạ, thôi không than thở nữa. Lần này vào dịp Quân Lực 19 tháng 6 năm 2011, xin gửi đến các chiến hữu một chút tâm sự.
Cũng như quý vị, chúng tôi không thích cái ý nghĩa nguyên thủy của Ngày Quân Lực mà ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khoe rằng, ông là cha đẻ. Chẳng phải bây giờ mới nói ra cái chuyện cũ kỹ đó, chúng tôi đã từng viết ra cảm nghĩ ray rứt ngay từ 45 năm về trước. Ngay từ ngày đó cũng đã vất vả về cây bút.
Số là ngay sau khi đảo chính ông Diệm, tôi là sĩ quan đại diện Quân Khu I từ miền Đông lên họp Tổng Tham Mưu về đề tài đi tìm một ngày ghi dấu cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Anh em trong ủy ban các cấp ngồi bàn thảo. Lấy biết bao nhiêu ngày tháng lịch sử từ Bắc vào Nam, từ 1950 đến 1965 để đưa ra lựa chọn.
Suốt cả chiều dài của lịch sử đều là những ngày tháng có liên quan đến việc hình thành quân đội quốc gia, nhưng chẳng chọn được ngày nào cho trọn vẹn ý nghĩa. Cái đắng cay của vấn đề là giai đoạn trước di cư 54, nghị định văn thư và hồ sơ thành lập đơn vị Việt Nam đều bằng tiếng Pháp và từ bộ tư lệnh quân đội Viễn Chinh đưa xuống. Lệnh cho thành lập BVN gọi là các tiểu đoàn Việt Nam cũng bằng Pháp văn. Lệnh cho tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam vào Điện Biên Phủ cũng do tướng Pháp ký. Tiểu đoàn trưởng cũng là người Pháp.
Đọc lịch sử quân đội quốc gia trước thời 1954, bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn chưa tìm được một ngày cho đủ ý nghĩa của Quân Lực. Sau 1954 thì cũng có một số ngày tháng được trình lên để duyệt xét. Bản phúc trình có ghi lại một số dữ kiện mà ký ức mòn mõi của tôi còn hình dung được một vài chi tiết như sau:
Thời kỳ 46 – 47, quân đội Liên Hiệp Pháp bắt đầu tuyển mộ tân binh Việt Nam, các đơn vị bổ túc ra đời, các đại đội nhảy dù lính Việt do sĩ quan Pháp chỉ huy. Hiệp ước Hạ Long ngày 6 tháng 6-1948, vua Bảo Đại nhân danh Quốc Trưởng ký với Pháp có điều khoản thành lập Quân Đội Quốc Gia.
Ngày 1 tháng 6-1949, khóa sĩ quan Việt Nam đầu tiên mở ra tại Huế. Bốn tiểu đoàn Việt Nam thành lập. Trong Nam là tiểu đoàn 1 Bạc Liêu và tiểu đoàn 3 Rạch Giá. Ngoài Bắc, tiểu đoàn 2 Thái Bình và tiểu đoàn 4 Hưng Yên. Tiểu khu Hưng Yên ngày đó là thời kỳ các sĩ quan trẻ gặp nhau. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, trung úy Cao Văn Viên và đại úy Trần Thiện Khiêm. Sau này trở thành tổng thống, thủ tướng và đại tướng tổng tham mưu trưởng. Đến khi tập hợp vào miền Nam, Quân Đội Quốc Gia gia tăng dần lên 60,000 quân nhưng chưa có được một ngày quân lực mang ý nghĩa rõ ràng.
Phía chính phủ trước đó thì đã có ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 tổ chức duyệt binh hàng năm ghi dấu Đệ Nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm.
Sau đó là đến thời kỳ đảo chính và những năm xáo trộn giữa các tướng lãnh với cả chục lần binh biến. Tuy nhiên, sau cùng miền Nam đã gượng gạo nhận ngày cách mạng 1 tháng 11 làm ngày Quốc Khánh mới.
Tiếp theo, với sức ép của Hoa Kỳ và đòi hỏi của dân chúng, các vị tướng lãnh của thời kỳ hỗn loạn chính trị ở miền Nam đã miễn cưỡng lập ra một chính phủ dân sự tạm thời với cụ Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng và ông Phan Huy Quát làm thủ tướng. Tuy nhiên, các vị chính khách dân sự này không đủ bản lãnh để lãnh đạo đất nước trong một hoàn cảnh rất đen tối và phức tạp. Biết bao nhiêu tranh chấp giữa các đảng phái, các tôn giáo và rất nhiều khó khăn trong hoàn cảnh chiến tranh ngày một gia tăng và Mỹ ào ạt đổ quân vào Việt Nam để chặn đứng làn sóng đỏ.
Thêm vào đó, quốc trưởng và thủ tướng lại bất đồng ý kiến nên nội các dân sự bèn tuyên bố bỏ cuộc, trao quyền lại cho các tướng lãnh. Các tướng lãnh niên trưởng của chúng ta rất vui mừng họp bàn để nhảy ra chính trường gọi là nhận trách nhiệm lịch sử. Một cách hết sức khách sáo, các xếp vẫn nói là muốn rửa tay chính trị, không ham quyền lực nhưng tình thế bắt buộc phải ra nhận lãnh. Nhân danh quân đội, các đàn anh niên trưởng của chúng tôi vẫn đeo sao trên cổ áo, ngồi hội nghị tranh cãi suốt ba ngày, đưa ông Thiệu, ông Kỳ ra cai trị đất nước gọi là ngày quân đội đứng lên làm lịch sử 19 tháng 6-1965.
Tôi còn nhớ, hôm đó tôi ngồi trên máy bay vận tải C130 của Hoa Kỳ bay từ Sông Bé về Sài Gòn. Chuyện như đùa mà là sự thật. Một viên đạn lẻ loi của địch dưới đất bắn lên lúc phi cơ mới cất cánh, thủng sàn tàu và xuyên qua hàm anh đại úy ngồi cạnh chúng tôi. Khi phi cơ đáp khẩn cấp xuống Biên Hòa, đưa vào bệnh viện thì anh bạn qua đời.
Không bao giờ tôi quên được ngày 19 tháng 6 đó. Tình cảm chân thành với quân đội thì luôn luôn gắn bó, nhưng bảo cái ngày đó là ngày toàn quân đứng lên làm lịch sử thì thưa Thiếu Tướng, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, việc này chỉ có các xếp làm với nhau chứ đâu có ăn nhập gì đến toàn quân. Bộ chỉ huy tiền phương của quân khu đang nằm ở chiến hào Sông Bé mà lại đứng lên là ăn pháo địch hay là bị bắn sẻ chết ngay, chứ đứng lên làm lịch sử chỗ nào.
Với bút hiệu Lính Chiến, tôi viết báo Chính Luận cho tổng thư ký Từ Chung qua mục “Một tuần vòng chân trời quân sự”. Tôi đã đưa quan điểm như trên. An Ninh Quân Đội của Quân Khu I ở Thủ Đức đã mời Thiếu tá Vũ Văn Lộc lên hỏi thăm sức khỏe.
Gặp anh bạn quen nói rằng, “Thôi ông ơi, ông làm ơn nghỉ viết lách cho chúng tôi nhờ. Thời ông Diệm lên thì có 26 tháng 10. Đến thời ông Minh thì 1 tháng 11. Bây giờ ông Kỳ thì chọn 19 tháng 6. Tuy nhiên, ngày đó các xếp đã chọn thì cứ coi như một hẹn ước giữa anh em mình. Bàn làm gì chuyện xa xôi cho thêm phiền. Ông thông cảm với tôi để rồi mời ông về lại bộ tư lệnh Tiền Phương để làm lịch sử của riêng ông. Viết lách làm gì cho rắc rối.”
Đó là anh bạn đại úy an ninh quân đội đã nói chuyện với tôi đầu năm 1966. Năm đầu tiên có Ngày Quân Lực. Cho đến năm nay là 45 năm. Đúng như vậy, anh bạn cũ nhân danh An Ninh Quân Đội ngày xưa tra vấn tôi, nay đã qua đời. Nhưng lời chiến hữu nói ra vẫn còn ở lại.
Quả thật, 19 tháng 6 hàng năm đối với chúng tôi chỉ là một ngày hẹn ước để gặp nhau. Người tự nhận là khai sinh cho 19 tháng 6 là ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ nay đã quay lưng lại anh em. Vị chủ tịch ký giấy ban hành nghị định 19 tháng 6 là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, nay đã trở thành người thiên cổ.
Vậy thì, nếu đã nhìn thấy những cay đắng của lịch sử như thế thì cái ý nghĩa của ngày 19 tháng 6 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm ở chỗ nào.
Từ 40 năm trước, tôi đã bình phẩm về sự lựa chọn của ông tướng tàu bay có vẻ chơi ép anh em. Ngày ông xuất chính ra làm quan thủ tướng mà bảo rằng toàn quân phải nhớ mãi về sau thì nghe sao lọt tai.
Nghĩ như thế mà sao mỗi năm đến 19 tháng 6 vẫn thấy lòng rung động. Kỷ niệm 19 tháng 6 lần thứ nhất vào năm 1966 làm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Năm sau 1967, duyệt binh lớn ở đường Trần Hưng Đạo.
Rồi từ đó mỗi năm là có Ngày Quân Lực. Lúc làm quy mô, lúc thì thu hẹp. Cho đến năm 1973, sau khi vừa ký hiệp định Paris thì Tổng Tham Mưu tổ chức một cuộc duyệt binh vĩ đại đã được ghi vào bộ hình lịch sử ngày nay vẫn còn có dịp coi lại trên DVD.
Năm đó chúng tôi tham dự trong ủy ban tổ chức do Bộ Tổng Tham Mưu. Xin nhắc lại một vài kỷ niệm đáng ghi nhớ.
Trước đó một tuần, anh hùng quân đội từ các đơn vị được chào đón tại thủ đô, dẫn đi thăm các danh lam thắng cảnh và các công xưởng quân đội. Các đoàn thể và thương gia khoản đãi đại tiệc suốt tuần. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và phái đoàn chính phủ lên làm lễ tại Nghĩa Trang Biên Hòa.
Khu Nghĩa Trang Quân Đội vào đầu tháng 6-1973 đã là nơi yên nghỉ gần 15 ngàn chiến sĩ, chiếm một nửa toàn thể khu vực dự trù cho 30 ngàn phần mộ. Các trận đánh khốc liệt từ 1968 Mậu Thân đến 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa đều có đại diện Hải Lục Không Quân về nằm dưới lòng đất lạnh.
Tiếp theo ngày 19 tháng 6-1973, các đơn vị Hải Lục, Không Quân, các quân đoàn, các binh chủng, địa phương quân, nhân dân tự vệ, xây dựng nông thôn, thiếu sinh quân và nữ quân nhân đều có mặt tham dự một cuộc diễn hành lịch sử được coi là xuất sắc nhất. Và cũng thật đau thương, đây là cuộc diễn hành cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Đoạn phim được dân Hà Nội coi lén sau 1975 hết sức trầm trồ là đoàn diễn hành nữ quân nhân. Nhịp bước quân hành của các thiếu nữ trong quân phục đã làm cho rung động cô sinh viên văn khoa Nông Thị Thanh Nga. Sau khi xem diễn hành ở đường Trần Hưng Đạo, cô ghi tên vào học niên khóa 1973-1974 để sau này ra trường trở thành thiếu úy huấn luyện viên cho đến lúc tan hàng tháng 4-1975.
Ngày nay cô thiếu úy của quân đội Sài Gòn trở thành quả phụ bán hàng rong ở vỉa hè chợ Tân Định. Hàng năm đem vàng hương lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa nhớ về ngày 19 tháng 6.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với Ngày Quân Lực năm 1973. Sau buổi diễn hành, tổng thống đãi tiệc buổi trưa các anh hùng quân đội tại Dinh Độc Lập. Buổi chiều thủ tướng khánh thành khu triển lãm của Hải Lục Không Quân và các công xưởng tiếp vận.
Buổi tối là cuộc rước đuốc và xe hoa. Hàng ngàn ngọn đuốc sáng rực đô thành Sài Gòn hoa lệ tưởng chừng như hòn ngọc viễn đông sẽ vĩnh viễn sống mãi với Việt Nam Cộng Hòa. Cùng buổi tối, đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng tiếp tân tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phó tổng thống Trần Văn Hương, thủ tướng Trần Thiện Khiêm, toàn thể nội các, ngoại giao đoàn, phái đoàn quốc hội và các anh hùng quân đội tham dự đêm văn nghệ của biệt đoàn trung ương.
Ngày vui quân lực của cả một thời xưa xa cách 45 năm tưởng chừng như mới hôm qua.
Bây giờ năm 2011 đã trải qua 45 năm quân lực. Nếu ngày 19 tháng 6-1975, đất nước mà còn giữ được thì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa sẽ có lễ khánh thành đợt sau cùng với Nghĩa Dũng Đài hoàn tất cao ngất từng không, rực rỡ hàng đèn hai bên lối đi. Khu mộ chí tướng lãnh nằm ở vòng trong, rồi đến sĩ quan các cấp và hàng binh sĩ.
Ba chục ngàn ngôi mộ dành riêng cho đến ngày 30 tháng 4 đã lấp đầy 16 ngàn tử sĩ. Tính đến năm 2006, các gia đình đã cải táng di chuyển l6,000 và vẫn còn 10,000 ngôi mộ với cỏ gai lấp đầy lối vào.
Ngày 19 tháng 6 năm 2010 vừa qua, chỉ còn một số thương phế binh Biệt Khu Thủ Đô lên tảo mộ chui, được đến đâu hay đến đó. Các di vật của Liên Đội Chung Sự và của quân lực đã thu về Viện Bảo Tàng tại San Jose.
Cũng tại San Jose, nhiều năm qua, luôn luôn có hai phe tổ chức ngày Quân Lực. Tưởng rằng năm nay 2011 sẽ thống nhất tại một nơi. Sau cùng, ngày Quân lực 19 tháng 6-2011 San Jose sẽ diễn ra hai nơi. Ban tổ chức của đại tá Trần Thanh Điền cùng với toàn thể liên hội cựu quân nhân tại trường Overfelt. Phía trung tá Lương Văn Ngọ nhân danh tập thể quân đội tại tiền đình Santa Clara County.
Báo chí sẽ có dịp viết bài vui buồn quân lực.
Giao Chỉ, San Jose
.
.
.
No comments:
Post a Comment