Minh Nguyện
Nov 9th, 2010
….. ngày….. tháng 8 năm 2004
Kính gởi nhà văn Cao Xuân-Huy,
Kính gởi nhà văn Cao Xuân-Huy,
Thanh-Liêm, Công-Nguyên ở Mỹ là bạn với Như-Hùng ở bên Úc, ba người này lại là những Trung đội trưởng cùng đơn vị với anh trong những ngày đất nước còn giặc giã tơi bời. Mùa hè này, ba người ấy đã gặp lại nhau và có ghé thăm ao bông súng nhà tôi, nơi cánh rừng nằm cạnh xa lộ 93, về hướng nam, cách thành phố Boston có hơn vài mươi dặm…
Bên cái băng bằng đá có bám chút rêu xanh, ba người lính cũ chăm chăm nhìn mấy ngọn giả sơn nằm bên bờ hồ róc rách dòng suối nhỏ, thả hồn về những năm tháng hành quân vùng địa đầu hỏa tuyến, tựa hồ chuyện mới hôm qua. Riêng với anh chàng Công-Nguyên, tôi có dịp quen biết lâu đến hơn sáu bảy năm rồi, và được xem lại những tấm hình mặc áo quần nhà binh ngày xa xưa ấy; nay anh đã trọng tuổi hơn nhiều nhưng vẫn phảng phất chút gì của cá tính bất cần đời, dù khi màu tóc trắng lấn sân khá hỗn trên mái tóc đen thưa thớt yếu dần…
Tôi được nghe họ nhắc tới anh rất nhiều, nhắc tới Tháng Ba Gãy Súng, nhắc về cách trả lời của anh qua cuộc phỏng vấn với Trần Văn Thủy trong Nếu Ði Hết Biển đăng lại trên talawas, nhắc về những ngày ở Houston (Texas) mới hồi đầu tháng bảy năm 2004 này, nhắc về hồi chuông điện thoại reo từ miền Nam nước Mỹ, nhưng vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ, nơi cánh rừng có ao bông súng nhỏ đang có vài bông trắng nhụy vàng vừa nở, có bụi chuối già hương vừa mới phát, bụi trúc Phật màu xanh xanh nghiêng bóng bên bờ hồ, vài gốc thiên tuế tuổi đời còn non, năm ba dề lục bình vừa nhú nụ hoa màu tím phơn phớt lợt, mấy cánh bèo tai tượng đang xanh màu, lác đác năm ba chòm u du (một loại đưng lác vùng nước ngập mà bên này người Nhật, người Tàu nơi các nhà bán cây cảnh thường gọi tên là“thủy trúc”), tất thảy những gì tôi có nơi đây nó mang đầy cái chất quê mùa mà tôi hằng nâng niu ấp ủ…. và tôi mãi mê săm soi những vật tưởng chẳng ra gì ấy nhưng đối với tôi là những người bạn tri kỷ một thời, và có lẽ suốt đời , nên tôi hụt mất một dịp để nghe Bùi Công-Nguyên giới thiệu tên anh trên đường dây viễn liên xa ngàn dặm.
Tôi là một người nhà quê rặt anh à! Rặt từ chân lông đến vết nứt bàn chân. Rặt từ mái tóc luôn tươm mùi khét nắng đến cái dáng quê mùa muôn thuở. Rặt từ giọng nói “cá rô” thành “cá gô.” Rặt từ “co ro” thành “cò rò.” Rặt từ con “cúm núm” chúng tôi ưa gọi tên “gà nước.” Rặt từ lúc đi học trường làng chưa lần nào dám “cọp-dê” hay “đánh phép,” nhưng biết sợ đòn mỗi lần thầy tôi mở sổ điểm danh. Và đặc biệt tôi rất sợ những bữa “cơm chùa” vào các ngày rằm, ngày vía lớn, vì người lớn làng quê tôi hay nhắc chừng “ăn cơm chùa lớn bụng.” Còn nhiều đặc điểm nữa mà không tiện thưa cùng anh vì không khéo mình lại đi xa về một loại hình tự vẽ chân dung mình qua những dòng chữ lê thê này…
Sở dĩ tôi tự giới thiệu một chút về tôi như vậy để anh thấy những gì hai anh Nguyên, Hùng kể lại với anh về tôi lúc các anh gặp lại nhau sau 30 năm cuộc chiến đã tàn là một sự thật, không thêm không bớt chút nào. Tôi mang niềm vui nhà quê tựa như anh lúc nào cũng mang trong tâm hồn mình niềm hãnh diện màu áo lính ngày xưa. Cái chất quê ấy dù hơn mười mấy năm sống ở đây, sao tôi thấy khó mà thay đổi được. Nó là cái chất rồi anh à! Ðã thành máu thịt của mình. Và không ai làm thay đổi được cái chất đó dù có pha chế theo phương pháp khoa học ngày nay dưới bất kỳ dạng thức nào. Ví như Tháng Ba Gãy Súng của anh, mấy năm trước tôi được Bùi Công-Nguyên giới thiệu tác giả là bạn của Nguyên, nó là cái chất của anh. Tôi đọc thử. Chưa thấy thấm. Lúc ấy, có lẽ vì mới chân ướt chân ráo trèo qua những bờ bi, kinh rạch của dòng sống mới, nên trong bụng tôi còn lu bu cơm ghe bè bạn từ xứ sở quê nhà đang mang nặng bên hông, nên đọc như không đọc . Rồi sau đó khá lâu, khoảng vài ba năm, Bùi Công-Nguyên lại nhắc tên anh và Tháng Ba Gãy Súng, còn dặn “ông thử đọc lại vì có tui trong đó.”
Thật sự, lúc ấy tôi cũng chưa có hứng để đọc lại anh Cao Xuân-Huy à! Vì một lẽ, tôi chưa thanh thản tâm hồn, đời sống với nhiều vật lộn, nên tôi cứ tự hứa với mình là sẽ có ngày rồi mình sẽ đọc. Và một lẽ khác là tôi quá sợ chiến tranh. Chiến tranh dù dưới bất cứ danh nghĩa nào tôi cũng sợ ráo trọi. Cuốn sách của anh là một phần còn sót lại của cuộc chiến hôm qua mà tôi còn hãi hùng. Nói gì cho xa xăm, sự có mặt của tôi và hằng triệu người khác rải rác khắp hoàn cầu, trong đó có các người bạn của anh cùng gặp lại tôi giữa cái nắng mùa hè khá nóng nơi này, cũng là do hậu quả của chiến tranh đó mà! Các anh ấy kể về những ngày trẻ dẫn lính qua những bãi chiến năm xưa. Còn tôi thì lại nhớ về những cánh đồng, ao vũng, đìa bàu nở đầy những bông hoa ngát thơm hương đồng nội cỏ. Chỉ riêng có mỗi cái là được sống theo sở thích thôi, đâu phải dễ, phải không anh? Vả lại, tôi nghĩ đâu có gì gấp gáp cho bằng manh áo miếng cơm nơi xứ xa lạ cảnh, lạ người này… Và rồi tôi có đọc lại thật, nhưng vẫn chưa thấy thấm được bao nhiêu…
Ðến mấy tháng gần đây, khi tuổi tôi lại già theo năm tháng, tóc bạc màu pha chút nắng hanh vàng, và da nhăn tóp với nhiều chấm đen da mồi điểm xuyết trên gương mặt khô cằn, như một dịp nhớ về 30 năm trước, lúc trận chiến sắp tàn, tro than cũ giờ chắc cũng tàn theo năm tháng, và bụi thời gian đã chôn chặt những ký ức lại chồng chất dày thêm, tình cờ tôi mới mò vô talawas, và lại thấy đứa con của anh đang giỡn nơi căn gác hẹp ấy. Và tôi bắt đầu lại từ đầu, tò mò đọc những dòng chữ của anh liên tục cả tuần. Nhưng thú thật với anh, tôi chưa dám có ý nghĩ gì về đứa con mà anh cho rong chơi trên đó, chỉ rù rì với Bùi Công-Nguyên trong những bận chúng tôi cùng làm cu-li với nhau ở một hãng in giấy bên ngoài thành phố.
Lúc bấy giờ tôi mới hỏi Nguyên:
- Ông nghĩ sao về Cao Xuân-Huy?”
Nguyên không phải suy nghĩ:
- Cao Xuân-Huy là bạn tôi.”
- Không. Tôi không có ý hỏi như vậy. Mà tôi muốn hỏi ông về Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân-Huy?
Trong tiếng máy đóng sách chạy rầm rập, chúng tôi cùng làm việc chung trong dây chuyền bỏ giấy vào các hộc máy và nương theo tiếng máy chạy inh tai ấy mà bàn về cuốn sách của anh. Thú thật, tôi nói với Nguyên là tôi biết sợ Cao Xuân-Huy, sợ cái dũng và sợ cái tài kể chuyện bằng những trang chữ viết. Tôi không nghĩ anh là nhà văn như nhiều người vẫn thường có thói quen hễ ai có viết sách đều là nhà văn. Tôi không tin những người viết sách thể tất là nhà văn. Tôi luôn luôn nghi ngờ về điều ấy. Vì nếu anh là nhà văn, có lẽ văn của anh chưa chắc đã hay đến thế, nhất là những câu đối thoại từ đầu đến cuối.
Tôi xin mở thêm ở đây một dấu ngoặc để hỏi anh một chút về điều này. Tại sao các tác phẩm đầu tay của các nhà văn bao giờ cũng là những tác phẩm để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc?
Theo tôi, sở dĩ có hiện tượng ấy là vì các tác giả khi bắt đầu viết những dòng chữ đầu tiên ấy, là lúc họ chưa phải là nhà văn. Về sau này khi trở thành nhà văn rồi, họ không còn hấp dẫn nữa là vậy. Một người con gái đẹp trời cho cái nét đẹp tự nhiên với dáng vẻ bình thường, nó đẹp gấp ngàn lần khi phải qua nhiều cuộc phẫu thuật thêm môi thêm mắt. Văn chương là một sự trau chuốt nhưng không phải sự trau chuốt nào cũng làm cho những tác phẩm của các tác giả trở nên hấp dẫn và giá trị.
Chắc anh sẽ cười tôi nói sao mà lạ quá vậy. Anh thử chiêm nghiệm lại xem, trong giới văn chương mà anh có nhiều cơ hội hơn tôi nhiều, anh đã tiếp cận trong suốt mấy mươi năm trời nay, có tác giả nào viết được những câu đối thoại giống như anh không? Hay chỉ là lối đối thoại rặt màu văn chương hư cấu, gượng ép, cầu kỳ và nhiều lúc còn tệ hại hơn nữa là nó giống như đôi đào kép đang yêu nhau trên sân khấu với túp lều tranh hai quả tim vàng từ đời năm thìn bão lụt… Tôi nói thật đấy! Chỉ nội cái mục đối thoại thôi, nếu anh là nhà văn thứ thiệt, chắc anh cũng không thoát khỏi cái lối mòn trau chuốt những lời nói vô duyên nhất trong văn từ của mình… Tôi không rành về nghệ thuật viết văn nhưng tôi biết chắc văn đối thoại là một trong những câu văn khó viết vô cùng. Có lẽ vì thế mà tôi hay nghĩ ngợi văn hay là văn viết như thật.
Về phương diện văn chương tôi không dám lạm bàn thêm đứa con của anh, vì dường như ai ai cũng biết nó và ai ai cũng biết anh là người khai sinh ra nó. Phần này đã có các nhà phê bình văn học đầy tài năng và một bụng lý thuyết họ sẽ lo. Và bây giờ nghe đâu anh lại là chủ biên một tờ báo Văn-Học, được nhà văn Nguyễn Mộng-Giác vừa chuyển giao, tôi lại càng nên tránh nói về đứa con của anh trên phương diện văn chương nghệ thuật. Không khéo lại làm trò cười cho bàng-quan thiên hạ. Và ngay cả lá thư không gởi này cũng là một việc làm đáng lẽ không nên làm nếu không có Công-Nguyên và Như-Hùng có chút gì gắn bó với những ngày tháng ba gãy súng. Tôi nói vậy để anh rõ về ngọn ngành lá thơ mà tôi đang viết cho anh và cũng để anh an tâm là lá thơ này sẽ không mong gì hơn là chỉ Nguyên-Hùng-Huy-Liêm cùng đọc, không phải làm phiền nhiều bạn đọc khác trên các diễn đàn dưới đất cũng như trên trời, và đặc biệt, tôi hy vọng nó sẽ không bao giờ có mặt trên tờ báo Văn-Học mà anh đang làm chủ biên, chủ bút…
Ðọc đến đây, có lẽ anh sẽ hỏi tôi, “Vậy chớ ông đọc văn tôi với trạng thái nào? Trạng thái một người đọc bình thường hay trạng thái một người lính già?” Không, thưa anh Cao Xuân-Huy. Tôi không đọc văn anh với tâm trạng người đọc hay người lính già, mà với một người mà hơn ba mươi năm về trước không có cơ may như anh. Hay nói đúng hơn là tôi lại có cơ may khác hơn anh là tôi ở một nơi chốn yên bình nhứt, và vì thế tôi cảm thấy mình xấu hổ nhứt trước những gì anh đã kể lại trên những trang sách. Tôi xấu hổ vì tôi nhát gan hơn anh, tôi không dám anh hùng như anh, hay nói cách khác là tôi sợ chết hơn anh nhiều. Giữa một văn phòng có đủ tiện nghi với máy điều hòa không khí giữa Sài Gòn, so với một người trung đội trưởng đang dìu dắt đơn vị mình trong những ngày di tản, ai hùng hơn ai, chắc anh đã rõ. Những ngày “tháng ba” ấy, tôi và nhiều người đang ở Sài-Gòn như tôi, họ làm gì? Có lẽ tôi nên mượn câu thơ mới nhất của Trần Hoài-Thư để nói về một địa danh có tên gọi Sài-Gòn thuở ấy:
“Sài-Gòn có mùa hạ dài hơn mùa đông
Nên Sài-Gòn có mắt em xanh da trời tháng sáu
Sài-Gòn có thật nhiều quán cà-phê quán cóc
Nên bàn ghế Sài -Gòn đầy ắp tình nhân
…….
Sài-Gòn buổi chiều trời hay nổi cơn giông
Nên những hiên nhà là những hiên tình hò hẹn
Sài-Gòn có những con bồ câu cúc cù trên hàng dây điện
Nên Sài-Gòn vẫn là nơi hò hẹn của hai kẻ yêu nhau
Sài Gòn ít khi thấy được ánh hỏa châu
Nên đêm đêm Sài Gòn bình yên giấc ngủ
Ðể em đến trường như con sáo nhỏ
Ðể người lính trở về, có chỗ dừng chân
Ðể mãi mãi Sài-Gòn là những bâng khuâng…” [1]
Nên Sài-Gòn có mắt em xanh da trời tháng sáu
Sài-Gòn có thật nhiều quán cà-phê quán cóc
Nên bàn ghế Sài -Gòn đầy ắp tình nhân
…….
Sài-Gòn buổi chiều trời hay nổi cơn giông
Nên những hiên nhà là những hiên tình hò hẹn
Sài-Gòn có những con bồ câu cúc cù trên hàng dây điện
Nên Sài-Gòn vẫn là nơi hò hẹn của hai kẻ yêu nhau
Sài Gòn ít khi thấy được ánh hỏa châu
Nên đêm đêm Sài Gòn bình yên giấc ngủ
Ðể em đến trường như con sáo nhỏ
Ðể người lính trở về, có chỗ dừng chân
Ðể mãi mãi Sài-Gòn là những bâng khuâng…” [1]
Sài-Gòn những ngày tôi có mặt giống như câu thơ Trần Hoài-Thư đã mô tả. Ðọc sách anh, nhìn lại mình, tôi thấy tôi trước nhứt là như thế. Phải nhận ra cái kém cỏi của mình để học cái gan dạ của những người lính trên Ban-Mê-Thuột, trên đường liên tỉnh lộ số 7 từ Pleiku dẫn về Cũng-Sơn, Sơn-Hòa,Tuy-Hòa, Phú-Yên miền duyên hải và những người lính trong “tháng ba gãy súng” chứ? Phải không anh???
Cuốn sách của anh là một bài học cho tôi rất nhiều. Tôi đã học được ở đó nhiều điều mà tôi mãi băn khoăn, từ cái nhỏ đến cái lớn, từ cá nhân bé nhỏ đến tập thể rộng lớn bên ngoài, từ trong đời sống thường của một thường dân đến lãnh vực bao quát một thời kỳ qua bài học lịch sử trước đó và sau này… Và tôi có thể nói rõ lại một điều là tôi rất sợ cuốn sách ấy khi tôi ngồi một mình giữa đêm thâu mở lại từng trang sách. Bởi một lẽ giản dị là, mỗi lần lật lại từng trang giấy in đầy những dòng chữ như một hồi ức ấy của tác giả, cũng chính là một loại bùa lỗ ban, là một cái kính chiếu yêu, nó làm những bóng ma trong tôi phải chùng lại mọi cựa quậy, mọi xưng tụng. Những bóng ma của thời trẻ trong tôi, cũng như khi bây giờ vào buổi xế chiều này, khi chạm phải những trang sách của Cao Xuân-Huy là tôi biết ớn lạnh, rùng mình! Và tôi đọc sách của anh với trạng thái của một người ngoài màu áo lính mà anh và các bạn cùng đơn vị đã khoác nó lên mình, của một người vô danh tiểu tốt sống lủi thủi ở một vùng quê mùa xa lắc xa lơ, một người nhà quê có một làng mạc chìm trong chiến tranh mấy mươi năm qua nhiều thời kỳ bồng chống nhau tản cư chạy loạn và cũng như nhiều bà con làng quê, tôi biết sợ chiến tranh, cho dù chiến tranh đến dưới bất cứ danh nghĩa nào, từ bất cứ phía nào, vào bất cứ thời nào, và bất cứ đời nào!!!
Tôi hy vọng, với thời gian năm, ba trăm năm sau hay một, hai ngàn năm sau, Tháng Ba Gãy Súng của anh cũng chỉ là một chuyện đời xửa đời xưa được kể lại như bao chuyện đời xưa khác mà chúng ta đã đọc qua lịch sử. Lịch sử nói chung và chiến tranh nói riêng, đến một lúc nào đó, sau khi những người chủ xướng ra nó đã chết mất đất từ hơn cả trăm, cả ngàn năm rồi, lịch sử và chiến tranh lúc bấy giờ chỉ còn là một câu chuyện đời xưa không hơn không kém!!!
Trân trọng
Minh-Nguyện (một người đọc già)
[1]Trích bài thơ “Sài-Gòn trong trí nhớ,” trong thi phẩm Người Lính của Trần Hoài-Thư do Thư-Quán Bản Thảo ấn hành, tháng 7 năm 2004, Hoa-Kỳ.
------------------------------
CAO XUÂN HUY
Tháng Ba Gãy Súng - Việt Nam Thư Quán
Tháng Ba Gãy Súng - Da Màu
Phỏng Vấn Cao Xuân Huy Và Tháng Ba Gãy Súng : 10/31/2009
Đọc Cao Xuân Huy : 6/9/2010
Cao Xuân Huy, tác giả và tác phẩm - Nguyễn Mạnh Trinh
Cao Xuân Huy và “Tháng Ba gãy súng” - RFA : 2-5-2010
“Vài Mẩu Chuyện” của Cao Xuân Huy - Viễn Đông Daily News
Sau 'Tháng Ba gẫy súng', Cao Xuân Huy viết thêm “Vài Mẩu Chuyện” - Nhật báo Người Việt
Cao Xuân Huy, nhà-văn-nhân-chứng tự trọng chiến tranh Miền Nam (nguoi-viet.com)
.
.
.
No comments:
Post a Comment