Đỗ Thuý Hường
Tháng Chín 24, 2009
http://ptdcvn.wordpress.com/2009/09/24/toi-tim-hi%E1%BB%83u-lu%E1%BA%ADt-d%E1%BA%A5t-dai/
Tôi xin chia sẻ những gì tự tìm hiểu về cái bộ luật mất lòng dân này. Ngoài việc đọc lại Luật (té ra có tới 4-5 cái, và nhiều nghị định, pháp lệnh đi kèm), tôi còn hỏi han những người cao tuổi, nhất là các nạn nhân. Riêng tôi, có thuận lợi hơn các bạn trong nhóm – vì tôi học luật, lại có ông nội từng ở ban soạn thảo luật 1993.
.
Chúng ta quan tâm chuyện đồng bào khiếu kiện triền miên do đất đai bị “thu hồi” nhưng được bồi thường quá rẻ mạt. Nhiều bạn nghĩ do tổ chức đảng ở địa phương lộng hành. Nghĩ vậy không sai, nhưng chưa đủ. Cái gốc là do LĐĐ đã truất quyền sở hữu đất của dân, từ đó cán bộ mới có thể hà hiếp dân.
.
LĐĐ ở Việt Nam đã gây đau khổ, oan khiên cho hàng chục triệu người, nhất là nông dân, kể từ khi nó ra đời (1987). Chính nó giúp tham nhũng tăng lên gấp 4 lần và mỗi năm rót 10% GDP vào túi bọn tham nhũng, hoặc lãng phí. Hoàn toàn có cơ sở để đạo luật này bị gọi là “sản phẩm của tư duy phản động”.
Suốt 20 năm vận hành, nó bị cuộc sống chống lại quyết liệt đến mức đảng CSVN phải sửa đổi, bổ sung, thay thế… tới 4 lần; và nay (2008) lại sắp phải thay luật lần thứ 5. Vậy mà Luật 2008 vẫn chỉ là tạm thời, còn theo thông báo chính thức thì tới năm 2011 mới hy vọng có luật “hoàn chỉnh”. Nhưng ngay hôm nay tôi có thể nói: Không bao giờ có LĐĐ hoàn chỉnh, nếu không sửa tận gốc. Vậy cái “gốc” đó là gì?
.
Cái gốc “phản động” của Luật Đất Đai
Không nước nào dám coi tài nguyên đất đai là không quan trọng bậc nhất. Ở Việt Nam lại càng như vậy khi bình quân diện tích đất trên đầu người (vốn đã thấp) cứ ngày càng thu hẹp do dân số tăng nhanh. Đảng CSVN ý thức đầy đủ rằng độc quyền kiểm soát đất đai ở một nước mà nông dân chiếm trên 70% dân số sẽ tạo ra quyền lực tối thượng về kinh tế, qua đó là quyền lực độc tôn về xã hội và chính trị. Do vậy, hiến pháp 1980 được một quốc hội gồm 90% đảng viên thông qua có ghi một ý mà ngay khi đó người dân chưa thể nhận ra sự nguy hiểm cho mình, thậm chí còn hả hê vì thấy “toàn dân” (chung chung) được đảng đề cao: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ… mà pháp luật qui định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân”. Ông nội tôi bảo: Luật gia lõi đời như bà Ngô Bá Thành khi giơ tay thông qua luật còn tưởng rằng “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” nghĩa là… đảng sẽ cho mỗi người dân sở hữu một mảnh đất (!).
.
Dựa vào hiến pháp, LĐĐ 1987 (và các năm sau) khằng định: Đất đai là “tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở khác nhau và trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta tốn bao công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay”. Khi đó, mọi người chưa thể nhận ra đây là lời mào đầu để ngay sau này đảng CSVN có lý do biến sở hữu đất đai của người dân (dù đó là tự mua một cách chính đáng, tự khai hoang, hoặc do tổ tiên để lại…) trong nháy mắt thành sở hữu của đảng. Kinh chưa? Chỉ bằng mấy tờ giấy mà đảng làm điên đảo cả xã hội!
.
Đảng ta giải thích sự tước bỏ quyền sở hữu đất đai của dân bằng lý sự như sau: “Đất đai là kết quả của một quá trình chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm của cả dân tộc chứ không của riêng ai. Tách khỏi những điều kiện của nhà nước, của cộng đồng, thì không một cá nhân nào có thể khai phá và giữ gìn bất cứ mảnh đất nào để rồi sau đó nói nó hoàn toàn là của mình. Có chăng, ở đây họ chỉ có công khai phá và sử dụng nó”.
.
Ai có công chống ngoại xâm? Đương nhiên, chúng ta phải học Lịch Sử Đảng để hiểu rằng đảng ta có công chống Pháp và Mỹ. Nhưng đảng cấm chúng ta nghĩ rằng sự nghiệp chống ngoại xâm là của toàn dân và có từ thời Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng đạo, Quang Trung… và sau khi đuổi được giặc thì người dân thời xưa vẫn có quyền sở hữu đất. Quyền này vẫn được thừa nhận trong 80 năm thực dân Pháp chiếm nước ta. Ấy vậy mà sau khi đuổi được thực dân Pháp thì đảng ta lại lý sự rằng không cá nhân nào có quyền sở hữu đất đai. Đang là chủ sở hữu, người dân trong nháy mắt chỉ còn có “quyền sử dụng”; trong khi đó, đảng vô sản vốn chẳng có tý đất nào ban phát cho dân bỗng nhiên trở thành người có quyền ra lệnh “thu hồi”(!). Dùng từ “thu hồi” trong LĐĐ chẳng lẽ không nói lên điều gì về não trạng của đảng ta?
.
Thực hiện luật = làm xáo trộn và gây đau khổ
Luật 1987 mới thi hành được 5 năm rưỡi đã bị cuộc sống chống lại quyết liệt. Sự xáo trộn xã hội và bức xúc trong dân tới mức đe doạ, khiến đảng ta phải thay thế nó bằng Luật 1993. Luật này vẫn không thể “đi vào cuộc sống”, nên đến 1998 phải bổ sung nhiều điều. Vẫn không ổn, tới 2003 lại phải có luật mới. Nhưng chính cái Luật 2003 này đã tạo ra nhiều triệu dân oan, hàng chục ngàn cuộc khiếu kiện đông người và dài ngày, kể cả biến thành biểu tình… đến mức công an phải lộ diện đàn áp. Luật 2003 có công đầu đưa tham nhũng lên thành quốc nạn. Chính nó có vai trò hàng đầu khiến cho đảng phải ban hành và thực thi các quy định pháp luật về “cưỡng chế”, về tội “chống người thi hành công vụ”, “cấm tụ tập khiếu kiện quá 5 người”… Nay, lại sắp có luật 2008.
Biện bạch cách gì thì sự thay đổi luật soành soạch như vậy cũng cho thấy “lòng dân” không chấp nhận “ý đảng”. Điều này, đảng ta biết rõ hơn chúng ta.
.
Ví dụ, sự thi hành luật 1987. Đối tượng thi hành luật chỉ có 2: dân (ông chủ, theo học thuyết “làm chủ tập thể” của cụ Lê Duẩn) và nhà nước (đầy tớ, có nhiệm vụ… quản lý ông chủ). Luật 1987 khá đơn giản, vì nội dung chủ yếu của nó chỉ là quy định quan hệ đất đai giữa chủ và đầy tớ. Ông chủ tuy mất hẳn quyền sở hữu đất đai, nhưng vẫn được đầy tớ cho phép sử dụng nó, khi cần thì “thu hồi”. Không có đối tượng thứ ba nào khác.
Chính khi LĐĐ 1987 có hiệu lực, mọi người nhận ra một điều: Ý đồ tiêu diệt tôn giáo, tiêu diệt sở hữu và tiêu diệt thị trường là ngu xuẩn, là việc chống Trời.
Tuy về pháp lý, không ai có quyền mua bán đất, nhưng thị trường đất đai vẫn tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, thông qua luồn lách, hối lộ. Dân vẫn có quyền sở hữu nhà, do vậy khi đã có nhà hợp pháp thì đương nhiên chủ nhà được “quyền sử dụng vĩnh viễn” (tức sở hữu) miếng đất nằm dưới cái nhà đó. Do vậy, chuyện ngược đời những năm đó là mảnh đất (cố định, tĩnh tại) lại phụ thuộc vào cái nhà (dễ biến động, có thể mua bán, đổi chác). Thế là, muốn bán (hay mua) đất chỉ cần làm cái nhà tạm bợ trên mảnh đất đó, rồi bán (hay mua) cái nhà đó là… xong. Cũng bằng cách đó, đất công bị chiếm dụng vô tội vạ. Người có quyền “cho phép làm nhà” tha hồ tham nhũng.
.
Luật 1993. Thấy rõ, không thể xoá được thị trường nói chung và thị trường đất đai nói riêng, đảng ta cho phép luật này có những bổ khuyết quan trọng.
Luật cho người dân được sử dụng đất lâu dài hơn (tới 20 và 50 năm) đồng thời có 5 quyền (sử dụng, chuyển quyền sử dụng, thừa kế, thế chấp và cho thuê đất: nghĩa là gần như có quyền sở hữu). Mặc dù về pháp lý, dân không có đất và nhà nước chưa thừa nhận thị trường đất đai, nhưng nhờ kẽ hở cố ý của luật, người ta vẫn mua bán đất; chỉ cần trong giao kèo ghi là… “giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Cũng lúc này, đảng cảm thấy nguy cơ “chệch hướng” ngày càng lớn, nên dẫu buộc phải công nhận cơ chế thị trường, nhưng gắn cho nó cái đuôi “theo định hướng XHCN”. Tới nay, trải 20 năm, nhiều người cho rằng cái đuôi này sắp rụng hẳn, kể cả trong thị trường đất đai.
.
Ông nội tôi nói lại: Những người tiến bộ trong nhóm soạn thảo luật 1993 phải rất khéo léo để không chạm tới nguyên lý “thép” (đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thông nhất quản lý) mà vẫn đưa được 5 quyền cho dân. Kỳ công nhất, là đưa được ý “bồi thường theo giá thị trường” vào văn bản. Ý này giúp dân có cơ sở đấu tranh và tố cáo kiểu bồi thường (cướp) đất hiện nay là bất hợp pháp.
.
Luật 1993 lạc hậu rất nhanh vì không chỉ có hai đối tượng liên quan tới đất đai (như quy định ở luật 1987) mà còn phát sinh các đối tượng khác: cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, nông trường, đất của quân đội… Và thiếu những qui định về quỹ đất tạo cơ sở hạ tầng, chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích khác và thiếu cả qui định chế độ sử dụng đất của các cơ quan, tổ chức… Chính vì vậy, chỉ sau 1 năm, đã có tới hai pháp lệnh được bổ sung để cấp cứu.
Với luật 1993, thị trường đất được ngấm ngầm phục hồi, sự mua bán công bằng và tấp nập hơn, giá cả phản ánh đúng giá trị của đất.
Luật này chứa đựng mầm tham nhũng và rối loạn. Ví dụ quyền “giao đất” ngang với quyền sinh sát, rất dễ quy đổi ra tiền. Nhưng bất công và đau khổ xảy ra ngay lập tức mỗi khi bọn đầy tớ “thu hồi” đất mà mà chúng tạm giao cho ông chủ. Tuy trên văn bản có ghi rõ: đất bị thu hồi được bồi thường theo giá thị trường, nhưng “giá thị trường” ở đây lại “theo định hướng XHCN”, nghĩa là do “đầy tớ” quy định. Đây chính là nguyên nhân khiến người dân thấy rõ mình bị ăn cướp. Khiếu kiện triền miên cũng từ đó mà ra. Cho tới năm nay, 2008, đảng thừa nhận rằng giá đất do nhà nước quy định để “đền bù” chỉ bằng 60% giá thực tế trên thị trường. Vậy, “thu hồi” là cướp trắng trợn 40% tài sản.
Các luật về cưỡng chế, trừng trị “kẻ” chống người thi hành công vụ đã hỗ trợ đắc lực LĐĐ mỗi khi đảng “thu hồi” một diện tích lớn. Chưa đủ, về sau còn có nghị định “cấm tụ tập trên 5 người để khiếu kiện”. Từ đó, trên báo chí, chủ đề liên quan đất đai chiếm tỷ lệ vào loại cao nhất.
.
Luật 1998 quy định việc (đầy tớ) giao đất cho các loại chủ (cá nhân và tổ chức), có thu tiền và không thu tiền sử dụng (thuê đất). Việc mua bán đất chưa được thừa nhận chính thức, do vậy vẫn được nguỵ trang dưới dạng “chuyền nhượng quyền sử dụng” và phải có sự cho phép của cấp có thẩm quyền. Nhiều người giàu lên bất thường vì có quyền “cho phép”.
.
Luật 2003: dự kiến tám nội dung phải sửa
Trong cuộc họp báo này 7-3-2008 về sửa LĐĐ 2003, ông bộ trưởng Tài nguyên – Môi trường nói có 8 nội dung phải sửa và “phải sửa ngay”:
1) vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
2) giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất;
3) tài chính về đất đai, giá đất;
4) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;
5) thời hạn sử dụng đất;
6) quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa, lên sàn giao dịch chứng khoán;
7) thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất;
8) quản lý và phát triển thị trường bất động sản.
Qua đó, ta thấy nhiều điều đã phát sinh mà luật 2003 không lường trước, đồng thời nhiều vấn đề do sự ngoan cố về quan điểm và lập trường.
Ví dụ nội dung 4 cho thấy dân vẫn mất quyền sở hữu đất, nhưng nội dung 3 (giá đất) và 8 (thị trường bất động sản) lại cho thấy sức mạnh vô địch của cơ chế thị trường đối với mọi phản động lực dám chống lại nó. Hy vọng sẽ tới lúc thắng bại phân minh.
Trong hội nghị có người khen ngợi tính hiệu dụng và tiện lợi rất cao của bằng khoán điền thổ (giấy công nhận sở hữu đất thực hiện từ năm 1927 và đề nghị đảng ta nên học theo cách đó (của thực dân, phong kiến). Chuyện cấp riêng rẽ “sổ hồng” (công nhận sở hữu nhà, do Bộ Xây Dựng cấp giấy) và “sổ đỏ” (chỉ công nhận “quyền sử dụng đất”, do bộ TN-MT cấp) đang bị phản đối dữ, dư luận đang đòi hỏi gộp lại… (xem vấn đề 4 ở trên). Cái nguyên lý thép về “sở hữu toàn dân” đang núng thế.
Nhưng vấn đề nổi cộm nhất vẫn là giá đất “thế nào là theo giá thị trường” (không kèm định hướng XHCN). Đây là điều mà tất cả các tờ báo đều nêu rõ sau cuộc họp báo. Mời các bạn đọc bài trên các báo khác nhau phản ánh nội dung cuộc họp báo nói trên và ý kiến, quan điểm của các tờ báo.
.
Những gì còn rơi rớt lại của mô hình XHCN “cũ”:
1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước (của đảng, do đảng, vì đảng) thống nhất quản lý. Hậu quả: a) đất công bị chiếm dụng vô tội vạ; b) tham nhũng tràn lan; c) khi trưng dụng đất tư nhân cho việc công ích lẽ ra cần coi người mất đất là những người có công, hy sinh, phải bồi thường cao hơn giá thị trường thì lại làm ngược lại.
2. Quốc doanh là chủ đạo (mặc dù quốc doanh chiếm dụng 70% vốn nhà nước nhưng chỉ dưa lại 30% lãi, nhưng nếu không thế thì… mất CNXH)
3. Cái đuôi “định hướng XHCN” gắn vào cơ chế thị trường khiến thị trường không phát huy hết tác dụng tích cực, mà còn ngược lại
4. Tất cả những gì ở trên chỉ để tạo cớ cho đảng ta cai trị dân vĩnh viễn
.
.
.
Luật Đất Đai : Sản phẩm của tư duy phản động
Hà Đông Xuân, Trần Hiền Thảo và nhóm sinh viên
Tháng Chín 20, 2009
http://phandongonline.wordpress.com/2009/09/20/luật-dất-dai-sản-phẩm-của-tư-duy-phản-dộng/
Một vị thuộc thế hệ ông bà chúng tôi mỉa mai: ĐCSVN xuất xứ vô sản, làm gì có đất đai phát cho dân khi nào mà nay mỗi khi lấy đất của dân lại dám dùng từ “thu hồi” [*]? Luật Đất Đai mang tính phản động vì nó tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân, do vậy nó trực tiếp chống lại giai cấp nông dân đông đảo.
.
Luật này, kể cả sau lần sửa đổi cho đỡ bất công [2], tàn bạo với dân, từ khi thực thi đến nay đã gây biết bao thảm hoạ cho hàng triệu hay hàng chục triệu người. Các cuộc khiếu kiện đông người chưa từng có và dai dẳng chưa từng thấy, xảy ra trên phạm vi rộng lớn chưa từng gặp trong lịch sử
.
Nạn tham nhũng nặng nề nhất, trắng trợn nhất, lan rộng nhất ở nước ta hiện nay là trong lĩnh vực đất đai. Muốn nêu dẫn chứng cho các nhận định trên, chẳng cần tìm kiếm đâu xa, cứ tìm ngay trên báo chí công khai phát hành trong nước (minh hoạ sinh động cho điều mà ban Nội Chính của đảng đã thú nhận: tham nhũng hàng đầu là trong lãnh vực địa chính – đất đai).
.
Số bài nói về những uất ức, đau khổ, tham nhũng và trấn áp liên quan trực tiếp tới Luật Đất Đai “XHCN” phải tính bằng con số ngàn, hay chục ngàn. Theo quy định, nếu tham ô vài tỷ đồng sẽ lĩnh án tử hình thì bọn quan chức phải chết do tham ô đất đai có lẽ tới nhiều chục ngàn hoặc hàng trăm ngàn tên, trong số đó ít nhất 51% là đảng viên của đảng CSVN. Lãng phí do luật này gây ra đứng đầu mọi lãng phí, vượt cả lãng phí trong các dự án PMU và trong xây dựng cơ bản. Phải đặt sự lãng phí này trong tình trạng nước ta đông dân, quỹ đất rất eo hẹp.
.
Tư duy chủ đạo nào đưa đến sự hình thành cái bộ luật đậm tính “xã hội chủ nghĩa” hoang dã này?
Trả lời: đó là tư duy ngoan cố và phản động ở một số đầu lĩnh quyền uy của đảng CSVN do họ lo sợ “mất chủ nghĩa xã hội (kiểu Stalin)” khi họ chứng kiến thể chế ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ tan tành. Trong đầu óc họ, về kinh tế thì chủ nghĩa xã hội là phải diệt địa chủ, tư bản, tước đoạt tài sản và tư liệu sản xuất của các giai cấp này, phải “cải tạo” các giai cấp tiểu tư sản (nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, buôn bán nhỏ, thợ thủ công…) bằng con đường tập thể hoá, công hữu hoá và ghép họ vào các đoàn thể…
Sau 10 năm (1976-1986) cưỡng bức cả nước “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”, Việt Nam lâm vào khủng hoảng toàn diện, rơi xuống đáy vũng lầy. Nỗi ai oán và uất ức của dân miền Bắc “thắng trận” đã ngút trời, thì dân miền Nam “bại trận” còn đau khổ đến đâu?. Nếu để những người trung niên hiện nay tự kể vài ba câu chuyện họ đã từng trải trong cái “đêm đen” đằng đẵng đó (10 năm) thì e rằng dài hơn tất cả mọi văn kiện, báo chí và những lời ca ngợi đảng trong cả 61 năm đảng cai trị dân.
.
Cuộc Đổi Mới từ 1986 không phải do đảng đề xướng mà đúng ra là đảng đành thoát hiểm bằng cách theo đuôi những sáng kiến “xé rào” của dân. Nội dung Đổi Mới chẳng phải cái gì khác, mà chính là Sửa Sai, nghĩa là từ bỏ những nguyên lý “thép” về CNXH do các bậc bạo chúa Stalin và Mao đã dày công dạy dỗ. Càng từ bỏ, những đầu lĩnh bảo thủ của đảng càng lo lắng, ngại ngùng, thậm chí đau đớn, nhưng sức sản xuất lại càng được giải phóng, kinh tế càng phát triển, dân càng dễ thở.
.
Nói khác đi, trong đảng luôn luôn có sự giằng co, miễn cưỡng, khi từng bước buộc lòng phải từ bỏ các nguyên lý giáo điều. Trên thực tiễn, cũng như trong lòng dân, lẽ phải vẫn mạnh hơn những tư duy phi lý và phản động. Cuộc sống cứ tự tìm lấy đường đi lên.
.
Những gì thuộc “xã hội chủ nghĩa” đã bị đảng từ bỏ thì đã rõ. Và đó là mảng cực lớn, lớn như cả cái áo so với cái nút áo. Đó là: phục hồi doanh thương (địa chủ và tư sản) để các giai cấp này cứu nền kinh tế đất nước trong hội nhập và cạnh tranh toàn cầu; bỏ mặc các hợp tác xã tan rã đồng loạt để hàng chục triệu người rút đầu ra khỏi cái thòng lọng “tập thể hoá”; công nhận tư hữu và kinh tế nhiều thành phần (có ý nghĩa như sỉ vả Lenin); chấp nhận kinh tế thị trường (tương đương như vứt Mác vào sọt rác)… Và đến nay là cho đảng viên làm kinh tế không giới hạn.
.
Trước tình hình này, giới bảo thủ trong đảng teo tóp lại, nhưng quyền uy vẫn rất lớn nên càng đi vào con đường phản động và “kiên định” cố thủ trong hai cái lô cốt cuối cùng của kinh tế “xã hội chủ nghĩa”:
1) gắn cái đuôi XHCN vào nền kinh tế thị trường;
2) coi đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước (của đảng, do đảng, vì đảng) thống nhất quản lý – danh nghĩa là “đại diện dân”.
Tuy nhiên, đây là hai cái lô cốt đã rệu rã trước cơn phong ba dân chủ hoá và toàn cầu hoá. Ví dụ, không cố gia nhập WTO không xong với dân, mà cố gia nhập thì sẽ nhận thêm những nhát búa tạ vào hai cái lô cốt mục ruỗng trên. Cái đuôi “XHCN” gắn vào kinh tế thị trường sẽ tự rụng; luật đất đai sẽ phá sản.
Hà Đông Xuân, Trần Hiền Thảo và nhóm sinh viên
.
[1] “thu hồi” là thu về những thứ đã phát ra. Nực cười, không phát ra mà nay thu hồi? Bởi vậy, từ “thu hồi” dùng trong Luật Đất Đai (và càng hay dùng khi thi hành luật này) chỉ có nghĩa là tước đoạt. Trả tiền bồi thường không đúng giá thị trường là một biểu hiện phổ biến của hành vi tước đoạt này. Theo ông Đặng Hùng Võ, thứ trưởng bộ Tài Nguyên – Môi Trường, thì đó là nguyên nhân chủ yếu của tình trạng khiếu kiện đông người, dai dẳng hiện nay. Khốn nỗi một ông quan thanh liêm liệu có tô vẽ và cứu vãn nổi cho chế độ phong kiến đã ở thời kỳ suy tàn, đang thối nát cao độ?
[2] Lại mới có tin sửa đổi lại Luật Đất Đai! Tin đăng trên báo Tuổi Trẻ (22/9/2007): Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đề nghị sửa Luật đất đai.
Phó thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải vừa đề nghị Bộ Tài nguyên – môi trường xây dựng kế hoạch sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai….trong đó có các qui định về qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp với tình hình thực tế. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – môi trường Phạm Khôi Nguyên cũng vừa ký quyết định thành lập tổ soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2003.
.
.
.
Cô sinh viên luật đọ sức với các nhà lý luận cộng sản (Bùi Tín)
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/a-19-2009-07-28-voa13-81727577.html
.
.
.
No comments:
Post a Comment