Tuesday, June 8, 2010

"PARIS BY NIGHT" THỨ 100 và NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA (1)

“Paris By Night” thứ 100 và những chặng đường đã qua
Nguyễn Văn Lục

07-06-2010

http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=7497

.

Đã một năm rưỡi nay, một trong những đề tài tôi định viết là Paris By Night. Nhưng cứ do dự mãi. Tôi đã để thì giờ suy nghĩ mỗi khi đi dạo buổi chiều trong ánh nắng xiên khoai trên đại lộ Chapman. Từ Chapman quẹo tay phải sẽ là đại lộ “Élysée” của Garden Grove với những hàng cây cọ cao vút, với khách du lịch nườm nượp từ nhiều nơi tới. Ban đêm ánh đèn điện từ các cây cọ tỏa sáng như sao sa.
Và từ nơi đó, tôi nghĩ về người Việt mình, nghĩ về thế hệ mình, về thế hệ tương lai con cháu mình. Câu hỏi thường ám ảnh tôi là thế hệ tôi sẽ để lại gì cho thế hệ mai sau? Và ai có thể tác động trên thế hệ ấy?
Tôi không dễ tin tưởng rằng những bài viết của mình sẽ để lại cho thế hệ kế tiếp.
Bản thân tôi viết cũng nhiều, nhưng hai cậu con trai không hề quan tâm đến việc bố làm, nói chi đến đọc.
Người trẻ đã vậy còn người lớn tuổi thì sao?
.
Văn hóa người Việt hải ngoại không thiếu chi cả. Báo chí đủ loại, có thừa đến không ai thèm đọc? Mỗi chiều chủ nhật, tôi thường đến chỗ bạn bè tụp họp, ăn nhậu. Mỗi tháng có tờ báo địa phương đều có bài của tôi viết. Tờ báo bán 4 đồng, nhưng hầu như chẳng ai thèm mua. Chúng tôi viết dở hay đầu óc thiên hạ cùn?
Ra sách thì như đi ăn xin.
Rồi hệ thống truyền thanh, truyền hình, hệ thống báo chợ? Cạnh đó là Paris By Night?
Nếu cứ lấy bản thân mình ra mà mổ xẻ thì hình như tôi không đọc báo, không đọc sách truyện, nhất là không đọc thơ. Cùng lắm, tôi đọc các hồi ký có tên tuổi và sách khảo luận. Thì giờ còn lại đọc tài liệu, cơ man nào mà kể cho xiết.
Thế còn Paris By Night thì sao? Tôi chưa hề mua một cuốn nào dù là băng gốc hay băng lậu. Tôi cũng có được một số mỗi lần gặp ông Tô Văn Lai. Xem cũng thích, có thì xem, nhưng bảo mua thì không.
Đến hai đứa con trai tôi thì đứa lớn không xem. Nhưng con dâu tôi chắc kế thừa truyền thống gia đình, lúc còn con gái. Nó xem đủ không thiếu. Nó cũng bàn tán “Mao Tôn Cương” bán cho người này, người kia. Và chắc hẳn hai cháu nội của tôi cũng xem, mặc dầu tuổi các cháu còn nhỏ.
Cậu con trai thứ hai, khác anh nó, thích Paris By Night, thích các ca sĩ trẻ như Như Quỳnh chẳng hạn. Cái thích của nó đến lạ. Nó thích cái bài Đừng nghe những gì con gái nói. Không biết bài này có trong Paris By Night hay không?
Nhưng điều chắc chắn là nó chẳng cần biết Nguyễn Ngọc Ngạn hay Kỳ Duyên nói gì, một phần vì nó không hiểu, một phần nó chỉ để ý đến ca sĩ hát . Có lẽ nó phải “chịu đựng những giây phút trống rỗng” vì Nguyễn Ngọc Ngạn và Kỳ Duyên nói lăng ba vi bộ.
Và điều chắc chắn giới trẻ không quan tâm đến góc cạnh chính trị.
.
Nhưng khi đặt bút viết bài này, hơn ai hết, tôi nhận thức được rằng viết về chính trị trong cộng đồng người Việt hải ngoại đôi lúc là những cấm kỵ bất thành văn gay gắt hơn cả viết về những vấn đề liên quan đến tôn giáo. Nó có những cấm kỵ trở thành biểu tượng, một thứ taboo không ai được đụng tới. Và nó dễ đưa chúng ta vào tình thế của sự cực đoan và đối đầu.
Vì thế, viết về Paris By Night, một đối tượng cho sự phê phán và khen chê, phải chăng cũng tự mình bước trên những bãi mìn không định hướng?
Nhưng không thể không nói, không thể không viết. Không viết bây giờ thì bao giờ viết? Dầu gì thì chúng ta đều phải nhìn nhận một cách khách quan là PBN đã xâm nhập vào hằng vài trăm ngàn gia đình người Việt hải ngoại và hàng triệu gia đình bên Việt Nam.
.
Trước hết đó là một sinh hoạt văn hóa giải trí cho mọi gia đình. Nó còn là nguồn cội tìm về bản sắc dân tộc, con người Việt Nam. Như trong cuốn 99 PBN muốn xiển đương tính chất: Tôi là người Việt Nam, PBN đi tìm về cái “căn cước” người Việt, tự hào về người Việt.
Trong cái tinh thần ấy mà tôi viết bài này.

Những bước khởi đầu của Paris By Night


Paris By Night chỉ là bước đầu khởi điểm cho một giai đoạn làm nghệ thuật trình diễn kéo dài 27 năm với 99 cuốn băng DVD Thúy Nga Paris By Night.

Ông Tô Văn Lai vốn là một giáo sư triết mà cái nghề ấy xem ra “trái cựa” với cái vai trò ông đang làm hiện nay, ông bầu của Paris By Night. Điều gì đã biến ông giáo sư Triết trên bục giảng một ngày nào đó trở thành một ông bầu trình diễn nghệ thuật có tầm cỡ như hiện nay?
Tôi nghĩ đến cơ hội cộng với tài năng và tham vọng cá nhân của ông. Không có tham vọng đôi khi chẳng làm nên chuyện gì đáng giá dù tài năng không thiếu.
Có nhiều người chỉ trích ông chỉ là một kẻ sang bán băng lậu được gọi là “cassette” trước 1975.
Sự chỉ trích ấy không hẳn là sai, nhưng cần phải đặt vào thời điểm của nó thì mới công bằng. Tôi lại nghĩ rằng cái quá khứ tầm thường buôn bán lẻ sống qua ngày ấy phải là điều hãnh diện riêng cho cá nhân ông Tô Văn Lai hơn là điều bị đem ra bôi nhọ. Có một sự khác biệt hoàn cảnh và môi trường cũng như thời gian của Sài Gòn của những năm trước 1975 và Little Sài Gòn hiện nay.
Bán băng cassette xưa và sang băng lậu hiện nay là hai chuyện khác nhau về mọi mặt.

Trong một vài bữa ăn tụ họp, ông Tô Văn Lai có nói về những kỷ niệm của những năm tháng ấy với sự ngầm chứa sự hãnh diện và cơ may đến với ông.
Sau 1975, ông “tan tác” như mọi người. Vô nghề nghiệp một cách bất đắc dĩ vì môn Triết bị loại sổ ra khỏi ngành giáo dục. Ông là một thứ người tiêu biểu cho xã hội “bên lề”, lang thang ngoài chợ Trời buôn bán băng nhạc. Nhất là loại nhạc ngụy.
Ở cái thời đó, cái gì ngụy là cái bị cấm đoán, nhưng thường lại là cái có giá nhất. Sản phẩm “Ngụy” càng bị trù dập càng có giá, phải đi tìm mới có.
Điều này nó khẳng định rằng văn hóa ngụy là sản phẩm tinh thần, là cái hồn, là tinh hoa của miền Nam. Vì thế trách nhau làm gì những chuyện buôn đi bán lại sách cũ miền Nam, băng nhạc miền Nam. Chuyện của thời thể đun đẩy bất đắc dĩ mà làm, mà sống qua ngày.
Và đã có lần tôi viết chính những ông thày giáo “mất dạy” sau 1975 là những người giữ cho “cái hồn và văn học miền Nam tồn tại và sống mãi.” Họ trở thành những lái buôn sách, biết sách nào hay, sách nào là sách quý, biết ai là kẻ sành điệu, yêu sách, quý sách, biết giữ sách nào?
Tôi không là lái buôn sách, nhưng cũng biết mua những sách được coi là quý trước 1975. Chẳng hạn tôi đã tìm mua được cuốn Quốc Triều Hương khoa lục của cụ Cao Xuân Dục nhờ đó tôi viết bài Một góc nhìn mới về thi cử ở nước ta. Dĩ nhiên, muốn viết được bài này, tôi không thể thiếu bộ Lịch triều hiến chương loại chí của cụ Phan Huy Chú, đặc biệt phần Khoa mục chí.
Tôi có thể nói như thế này, người nào tự nhận là “rành” văn hóa Việt Nam mà chưa đọc bộ sách quý này thì hãy khoan nói gì đã.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí đã được xuất bản lại nên giá rẻ. Mua ba bộ LTHCLC gồm nhiều tập chưa bằng giá mua một cuốn QTHKL của Cao Xuân Dục.

Chỉ có mình Tô Văn Lai thay vì là “lái buôn” sách, ông trở thành người lái buôn băng nhạc.
Hãy hãnh diện về điều này đi.
Ông chỉ có cái “hơn”các đồng nghiệp khác là vốn xuất thân trường Pháp. Vốn trí thức xem ra có vẻ vô dụng thời buổi ấy lúc gặp thời nó trở thành cơ hội may giúp ông thoát thân.
Trong cái đám người đi thăm thú chợ Trời ấy, ông may mắn gặp một nhân viên cao cấp tòa đại sứ Pháp, hình như một lãnh sự thì phải, tôi quên mất tên. Hai người xem ra ở hai thế giới khác nhau, chỉ có một điểm chung là họ có thể xì xồ tiếng Tây như Tây thứ thiệt một cách thoải mái. Từ chỗ đồng cảm ấy, họ trở thành bạn và cái ông Tây ấy trước khi cuốn gói bị trục xuất về nước đã giúp ông Tô Văn Lai một điều mà không ai khác có thể làm được. Ông nhận mang về Pháp những thùng băng gốc “thứ thiệt, thứ đồ “quốc cấm”còn sót lại của Sài Gòn 20 năm miền Nam trên thông hành ngoại giao chính thức của tòa Đại sứ Pháp.
Những thùng băng nhạc ấy có tên Phạm Duy, Từ Công Phụng (ông đang yếu nặng), Trịnh Công Sơn. Có những tên tuổi quen thuộc, nổi tiếng một thời như Khánh Ly, không thiếu được Thái Thanh... rồi hằng trăm tên tuổi khác đã ngang nhiên qua cửa khẩu Tân Sơn Nhất trực chỉ Paris.
Ông Tô Văn Lai sang được Pháp đã dùng mấy cái thùng băng nhạc gốc ấy làm kế sinh nhai phụ thêm vào nghề bán xăng dầu. Một cửa tiệm bán băng nhạc ở quận 13 Paris ra đời giúp ông làm kế sinh nhai.
Không có ông, băng gốc làm sao ra Hải ngoại bằng con đường ngoại giao?

Và dù ông làm cái nghề gì đi nữa. Canh cánh bên lòng vẫn là giấc mơ phổ biến nghệ thuật. Và dù có cơ may đi nữa nó vẫn còn do cái tham vọng, cái máu muốn phát huy nghệ thuật vốn có sẵn trong máu của ông. Ông liên lạc được với những nhà đạo diễn phim ảnh Pháp giúp ông trong bước đầu. Đặc biệt Jean Pierre Barrie, tổng giám đốc đài truyền hình Pháp Euromedia. Ông biết gì về phim ảnh, về dàn dựng phông, về diễn xuất, về phim trường, về kỹ thuật âm thanh, ánh sáng?
Và thế là ông bắt đầu bằng những băng nhạc cải lương thu hình tại Pháp. Băng Thúy Nga thực sự bắt đầu từ năm 1983 với những chủ đề như: Giã biệt Sài Gòn, Giọt nước mắt cho Việt Nam, nhất là cuốn băng, Nước Non nghìn dặm ra đi.
Phải nhìn nhận những cuốn băng này còn mang nặng dấu ấn chính trị. Nó phản ánh cái tâm trạng người việt Hải ngoại vừa mới rời xa Sài Gòn mà niềm nhớ chưa quên... Nhưng rồi với thời gian, nó phải thay đổi chứ.
Gam độ chính trị bớt dần, thông thoáng hơn, nhẹ nhàng hơn.
.
Sự cân bằng giữa nghệ thuật, chính trị và nhu cầu thương mại là điều có thật, không thể tránh được. Có cái mẫu thức nào bắt một người làm thương mại phải làm chính trị theo ý mình, theo sát góc độ nhìn của chính mình? Trong làng báo, quy luật ấy nào có khác chi? Ở những giai đoạn đầu của thập niên 1975, có thể gọi đó là thời kỳ văn học của người di tản buồn.
Tất cả những người cầm bút đều viết viết với tư cách người di tản. Nhân danh người di tản mà viết. Phần người đọc cũng đọc với tư cách người di tản mà mẫu số chung của cả người viết và người đọc là một hoài niệm về quá khứ.
Mà điển hình là các tờ Lửa Việt, Người Việt Tự Do, tờ Bút Lửa, tờ Hoài Hương, tờ Hồn Việt Nam, tờ Thức Tỉnh, tờ Nhân Văn, tờ Quan Điểm, v.v…
Ở giai đoạn ấy, nhiều tờ báo còn chưa có tờ bìa mà người ta gọi đùa là báo ở truồng. Xin lỗi, báo ở trần. Cái thời ấy, một lúc nào sẽ phải bị vượt qua, phải thay đổi theo cái tâm trạng con người, theo cái nhịp của cuộc sống, theo sự ổn định và theo cái sự ăn nên làm ra.
Chán ra rồi sau đó mới có Văn Học, Hợp Lưu, mới có Văn và Thế kỷ 21...
Những tập san đó phản ánh cái hiện thực xã hôi, trào lưu tư tưởng bước tiến của tâm tư con người. Và nó thể hiện đúng cái câu: không bao giờ chúng ta trung thành hơn chính lúc chúng ta thay đổi.
Thay đổi là bước tiến của con người và bước tiến của xã hôi và cao rộng hơn bước tiến của nhân loại. Những điều ta suy nghĩ hôm nay, những niềm xác tín ta ấp ủ sẽ trở thành lực cản trong tương lai!! Hãy tin tôi đi.

Làng báo đã thay đổi. Những tiếng than nhức nhối trong thơ Lê Tất Điều đến lúc ngưng lại. PBN cũng đã thay đổi. Cái nguyên do sâu xa chia cách là một số đông các khán thính giả thế hệ X1 vẫn thế. Họ vẫn là họ. Và càng lớn tuổi, họ càng là họ hơn bao giờ hết.
Phần đông vẫn giữ cái tâm trạng người di tản buồn với tất cả những thành tố làm nên nó. Trong khi PBN do sự cọ sát với thực tế và do sự bắt mạch được nhu cầu độc giả thế hệ X2, họ nới bỏ dần các ca sĩ, nhạc sĩ hạng A như Khánh Ly, Thái Thanh, Pham Duy để xen kẽ những ca sĩ, nhạc sĩ hạng B, hạng bình dân.
Nhận xét ở trên khá quan trọng. Nó có thể cắt nghĩa được nhiều chuyện. Và là nguyên do những xung khắc, những tranh cãi lớn nhỏ trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Thành phần chống đối PBN có thể phần đông là người của thế hệ X1 còn đóng kín, cảm thấy PBN đã “phản bội”, đã “trở cờ”, không còn như trước nữa.
Cái “không còn như trước nữa”, căn cứ vào mộ số sự kiện có cơ sở bị khoác những mầu sắc chính trị rất bất lợi cho Paris By Night.
Cái thiệt hại tinh thần này thật khó mà hòa giải cũng như cứu gỡ được.
Rượu gọi rượu, cái rủi tiếp nối cái rủi khác. Cái xui tiếp cho ông Tô Văn Lai là lúc ấy các phim bộ Hồng Kông, Đại Hàn tràn ngập thị trường đã giết chết cải lương ngay tại hải ngoại này.
Việc nó giết trước tiên là Tô Văn Lai. Út Trà Ôn hay Thành Được hay gì gì đi nữa làm sao so bì được với Bao Công xử án?
Cái xui tận mạng ấy đã giúp ông Tô Văn Lai làm một bước nhảy vô cùng quan trọng liên quan đến sự nghiệp của ông sau này là phải từ bỏ đất Pháp, bỏ cái “Paris By Night ánh sáng” huyền thoại để sang Mỹ lập nghiệp.

Giấc mộng lớn, giấc mộng con có cơ thành tựu.

Talk Show do sự khuyến cáo của Jean Pierre Barrie có cơ hội hiện thực ... Mới đầu thành phần các MC như một cuộc tuyển lựa với những Jo Marcel, Trần Văn Trạch, Việt Thảo, La Thoại Tân, Ngọc Phu, Kim Anh, Trần Quốc Bảo, Hương Lan và tiếp nối với Khánh Ly, Đỗ Văn, Lê Văn, v.v...
Tuyền những khuôn mặt quen thuộc trong giới làm văn nghệ. Họ khởi sắc trong lãnh vực của họ. Nhưng MC là bộ môn mới mẻ mà đến một Trần Văn Trạch cũng không xong thì đến lạ. Chọc cười thiên hạ thường độc diễn một mình với bài ca nổi tiếng một thời, “…Sổ số mau lên, sổ số gần đến”, vào mỗi chiều thứ ba. Ngoại trừ Trần Văn Trạch. Không ai hát được như thế, nhất là lúc ông ngân, Sổ số gần đến... kéo dài, kéo dài,... Chịu hết nổi. Nổi da gà.
Họ đến một lần như “thử lửa” rồi đi luôn không quay trở lại.

Tất cả đều rút lui, nhường bước cho một Nguyễn Ngọc Ngạn và Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Mà hai người này thì biết gì hơn những người vừa kể? Tôi tìm ra lời giải đáp. Họ là sản phẩm của một produit chimique sủi bọt kể từ Paris By Night số 17, 1992.
Điều gì làm cho cái cặp này thành công và tồn tại từ đó đến nay? Nếu không phải là sự khác biệt, sự trái cựa và dị biệt về con người, về tính nết, tuổi tác thế hệ, về có vẻ chịu chơi và cù lần, về bề ngoài thể chất, sự nghiêm chỉnh và không nghiêm chỉnh. Nhất là sự vô duyên và quê quê, sự trẻ tuổi và sự lụ khụ, cù lần.
Tất cả các thành tố dị biệt đó cộng lại, pha trộn đối đầu thành cái buồn cười như sự pha trộn hai chất hữu cơ sinh ra sủi bọt…
Đến nỗi thay thế một người khác vào là hỏng.
Với hai người này, ít lắm họ đã nâng vai trò MC lên một bực. Nó không phải là câu chuyện “trám chỗ” nữa.
.
Bước nhảy nhiều điệu ấy ấy đã giúp các cuốn Paris By Night sau này thay đổi bộ mặt, tiến bộ “bước ngoặt” về mọi mặt từ kỹ thuật, âm thanh, ánh sáng, diễn viên, cách trình diễn, giới nghệ sĩ, y phục trình diễn và hằng trăm thứ hằm bà lằng khác mà một người không biết gì về nghệ thuật như tôi có cắt nghĩa cũng không hiểu hết được.
.
Phần ông Tô Văn Lai, ông cho biết yếu tố quyết định thành công của Paris By Night là yếu tố kỹ thuật. PBN đã không ngại tốn kém tận dụng những kỹ thuật tân tiến của nền điện ảnh Hoa Kỳ. Xử dụng những vũ công chuyên nghiệp, đạo diễn sân khấu tài ba, âm thanh, ánh sáng hiện đại.
Điểm thứ hai là Thúy Nga quy tụ được đầy đủ các giới văn nghệ sĩ trong các chủ đề tác giả như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Tuấn Khanh, Đức Huy, Từ Công Phụng, Châu Kỳ, Thanh Sơn, Xuân Tiên (nên nhớ không có Trịnh Công Sơn) và những chủ đề độc đáo như Chân dung người Sài Gòn, Hà Nội, Chúng ta đi mang theo quê hương, Cây Đa bến cũ, Nước non ngàn dặm ra đi, Tôi là người Việt Nam, Celebrity dancing, Paris by night 93 và 97.
.
Ông đã tiết lộ cho biết rất nhiều về những tốn kém cho mỗi cuốn băng, về những chi phí dám làm, về những chi tiết kỹ thuật, nhưng chung cuộc là cách ông dám bỏ tiền ra, nhiều khi chỉ trong vài phút, tốn kém cả vài chục ngàn.
Có thể nói ông Tô Văn Lai bằng một định nghĩa cụ thể: người dám bỏ tiền cho một cái đầu óc sáng tạo không thiếu.
Nói thì dễ. Chỉ như một cái chớp mắt. Nhưng giả dụ đặt tình huống của ông A, ông X vào chỗ của ông Tô Văn Lai, ông A, ông X có dám làm như vậy không?
Điển hình là trường hợp cây cầu “chi tiền” ở xứ Huế. Không có cây cầu này nối hai bờ sông Hương thì Huế không còn là Huế. Tôi đã đi bộ, đi xe đạp, đi một mình, đi hai mình trên cây cầu này. Tôi đã chứng kiến nó những buổi chiều tan học từ phía trường Đồng Khánh, các nữ sinh với tà áo trắng lũ lượt qua sông. Nay nó gãy nhịp trên bờ sông Hương, chứng tích cho nỗi đau và mất mát của Huế.
Ông Tô Văn Lai đã gãi đúng vào vết thương của Huế. Tôi xem mà không khỏi nhớ về Huế, về những kỷ niệm của riêng mình.
(Còn tiếp)
.
© DCVOnline

.

.

.

No comments: