Monday, November 23, 2009

SÁM HỐI (2)

Sám hối (Kết)
Minh Võ
23-11-2009
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=6925
Về cái lỗi lầm chiến lược to lớn này, phía Mỹ - chính quyền cũng như báo giới – đã minh nhiên công nhận và có người đã minh thị ngỏ lời xin lỗi nhân dân Việt Nam (Ví dụ McNamara đã nói lời xin lỗi nhân dân Việt Nam với nhà cầm quyền Cộng Sản. Thật đáng tiếc. Nhưng cũng chẳng nên trách ông ta vì than ôi! Việt Nam Cộng Hoà đã bị chúng ta đánh mất.) Nhưng những kẻ a dua thuộc hàng tướng lãnh Việt Nam và mấy chính khách bất mãn, thì xem ra vẫn còn đổ lỗi cho “gia đình “ ông Diệm.
Tuy nhiên chắc chắn cũng có nhiều người trong số họ đã tỏ dấu ân hận. Chẳng hạn, như ông Cao Xuân Vỹ đã nêu đích danh, các ông Trần Văn Đôn, Bùi Diễm, Nguyễn Cao Kỳ đã đứng nghiêng mình trước chân dung cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại nhà ông Vỹ. Còn hai tướng Nguyễn Khánh và Nguyễn Chánh Thi thì quỳ gối và tướng Tôn Thất Đính thì quỳ lậy 4 lậy. (4) Có người bào chữa cho ngững kẻ làm đảo chánh rằng họ “không biết việc mình làm” và hy vọng Thượng Đế sẽ khoan hồng đối với họ như Chúa Giêsu trên thánh giá đã tha tội cho kẻ trộm lành (!) Hầu hết các tướng đã không cố ý giết ông Diệm chỉ có vài kẻ cầm đầu mà thôi. Và lý do họ lật ông Diệm không phải vì phản bội, mà chỉ vì thấy người Mỹ muốn vậy cho nên, vì nhu nhược, không dám cưỡng lại ý muốn và quyền lực của siêu cường Mỹ. Hơn nữa từ lâu họ vẫn ngầm trách ông Diệm quá nghiêm khắc, bắt mọi người thắt lưng buộc bụng, thậm chí các tiệm “dancing” cũng bị đóng cửa...Nhất là họ bất đồng ý với ông Diệm về việc không chấp nhận cho Hoa Kỳ đổ quân nhiều vào “để chống Cộng hữu hiệu hơn”, và để nền kinh tế trong nước được phát triển hơn với hàng tỷ Mỹ Kim ồ ạt đổ vào theo hàng triệu lính Mỹ v.v....
Có người thắc mắc không rõ 2 ông Diệm, Nhu có sám hối không. Nhưng cũng nhiều người nghĩ, chắc là có. Vì ai mà không có lỗi, chính quyền nào lại không phạm sai lầm. Chẳng hạn dùng người không chọn kỹ, quá nhân từ, khoan dung, mềm yếu với kẻ mưu sát mình, không quyết đáp trước yêu cầu để cho vệ quân tấn công, bắt trọn nhóm tướng lãnh phản loạn.... Và nói chung nguyên việc để mình thất bại không vượt qua được mưu toan ám hại của đồng minh và thuộc hạ, cũng là một cái tội, về một mặt nào đó.
Trong thời gian hậu Diệm lỗi lầm lớn nhất của phe Quốc Gia chúng ta, theo thiển ý, chính là việc thủ tướng Phan Huy Quát đón nhận – hay làm ngơ, hay không biết (?) – 3 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ cùng với xe tăng trọng pháo đổ bộ lần đầu tiên lên Đà Nẵng mở màn cho 2 triệu quân sau đó ồ ạt vào Việt Nam. Nhiều người, rất nhiều người, cho đến nay vẫn nghĩ đó là điều tốt, vì Việt Nam lúc ấy quá yếu, không thể tự mình chiến đấu chống trả VC được Trung Cộng và Liên Xô viện trợ dồi dào.. Ở đây thiết tưởng không nên tranh luận về những vấn đề đó. (5)
Sau tháng tư 1975, thủ tướng bác sĩ Phan Huy Quát đã bị VC bắt đi “cải tạo” cùng vói nhiều vị phó thủ tướng, tổng bộ trưởng,, nghị sĩ, dân biểu, tướng lãnh và sĩ quan, công chức cao cấp VNCH, trong đó có cả phó thủ tướng luật sư Trần Văn Tuyên. Trong tù ông cựu thủ tướng được sống gần con, ở ngay phòng bên, nhưng Việt Cộng không bao giờ cho phép hai cha con gặp nhau. Thậm chí khi ông gần chết người con muốn chuyển cho ông mấy viên thuốc cũng bị cấm chỉ, để ông chết một cách vô cùng thê thảm ngày 27-4-1979.
Nếu như bác sĩ Quát có lầm lỗi gì to lớn mấy chăng nữa, chúng tôi thiết tưởng những khổ đau và nhục nhã, mà ông phải chịu trong tù, cũng đã được rửa sạch hết bằng nước mắt sám hối của ông rồi.
Chúng tôi xin bỏ qua những lỗi lầm của nhiều nhân vật và chính khách khác. Nhưng xin nói về trường hợp của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, người đã được số mệnh ưu đãi, được qua đời tại Mỹ và còn được nhiều người nhớ ơn, tổ chức tưởng niệm. Nói về Tổng Thống Thiệu là nói về cả chế độ đệ nhị Cộng Hoà, một chế độ chịu trách nhiệm trực tiếp về việc mất nước. Nhiều người cho đến nay vẫn bào chữa cho ông, gián tiếp cho họ, rằng Việt Nam bị mất là vì bị Đồng Minh bỏ rơi, chứ Tổng Thống đã làm hết cách mà không ngăn cản được sự “phản bội” của Đồng Minh. Nhưng cũng nhiều người khác quy trách cho ông và chính quyền đệ nhị Cộng Hoà trong đó gồm rất nhiều đảng viên Đại Việt kể cả các lãnh tụ Hà Thúc Ký, Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Quang Đán...và anh ruột của ông Thiệu, đại sứ Nguyễn Văn Kiểu.
Với sự quân viện dồi dào, hùng hậu của Đồng minh -- thường trực hơn nửa triệu quân Mỹ và hàng vạn quân các nước khác như Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Đại Hàn, Phi Luật Tân...-- ông Thiệu vẫn không đánh thắng đoàn quân Bắc Việt được viện trợ ít hơn nhiều về mặt quân sự. Mặc dù mãi sau này, sau khi Liên Xô đã sụp đổ nhiều năm, người ta mới biết đã có khỏang 3000 quân Nga có mặt tại Bắc Việt trong những năm chiến tranh.
Cho dù (giả dụ như) đồng minh có thực sự phản bội, “bỏ rơi” ông, nhưng là một chính trị gia, một quốc trưởng, ông, - và các phụ tá của ông -cũng phải tiên liệu việc đó sẽ xảy ra chứ. Vì khi chính phủ Phan Huy Quát đã mở cửa đón nhận quân Mỹ tự do ồ ạt vào, thì từ đó ai cũng phải hiểu rằng sẽ có ngày cái đoàn quân viễn chinh đó sẽ “tự do” rút đi, để chúng ta “tự do” tự lo lấy số phận của nước mình chứ. Và họ ra đi tự do cũng giống như họ đã vào tự do vậy mà. Sao lại trách họ, mà không tự trách mình? Nếu mình quá ý lại vào sức mạnh quân sự của Đồng Minh mà quên lãng việc cổ võ tinh thần tực lực cánh sinh của nhân dân, thì khi Đồng Minh đi rồi có tài thánh cũng phải thua thôi.
Cá nhân Tổng Thống Thiệu có lẽ đã sám hối phần nào về việc ông “bất đắc dĩ” mắc mưu các phản tướng và khiếp sợ cai uy của Cabot Lodge mà nhúng tay vào vụ lật đổ Đệ Nhất Cộng Hoà. Vợ ông, đệ nhất phu nhân, đã có lần công khai tới dự lễ tưởng niệm vị Tổng Thống tiên khởi, khi chồng mình đang nắm quyền trị quốc với tư cách là vị tổng thống thứ hai.
Nhưng quan trọng hơn, chắc chắn ông đã rất ân hận về việc ông để đất nước rơi vào tay CS. Không biết khi ở dưới “tuyền đài” ông có vui lòng thấy rằng cho đến nay đàn em ông, con cháu ông vẫn còn bênh vực cho ông một cách cố chấp không?
Nói đến Tổng Thống Thiệu là nói đến kẻ đứng đầu, vị thủ lãnh của tất cả chúng ta trong ché độ Đệ Nhị Công Hoà. Bắt đầu từ các cố vấn các bộ trưởng kế hoạch, bộ trưởng ngoại giao, những ông đại sứ...bộ trưởng thông tin là những người đã hầu như không làm được gì để thuyết phục, thu phục giới ký giả Mỹ, nhất là những Neil Sheehan, David Halberstam... đã từng cổ võ cho việc lật ông Diệm, và cũng là những kẻ ca tụng ông Hồ, coi ông ta mới là kẻ có chính nghĩa. Và hệ quả của giọng nói xấc xược và miệt thị của những nhà báo trẻ này đối với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, là quốc hội và nhân dân Mỹ đã không ủng hộ chúng ta, không để cho chính quyền Nixon cứu chúng ta khi bị Bắc Việt tràn vào Saigon bất chấp hiệp định Paris. Và không phải một số ký giả Mỹ đã ảnh hửong quyết định đến dư luận Mỹ, nhân dân Mỹ và quốc hội Mỹ. Mà nó chúng còn ảnh hưởng quyết định đến dư luận thế giới. Khắp nơi đều lên án chính quyền Mỹ, làm áp lực bắt Hoa Kỳ phải ngưng các cuộc dội bom và rút quân khỏi Việt Nam.
Không hiểu thế nào là chiến tranh ý thức hệ, thì không thể hiểu được tại sao mấy nhà báo trẻ măng lại có thể tạo ra được làn sóng phản đối chiến tranh trên khắp thế giới khiến một siêu cường có bom nguyên tử phải thua một đoàn quân đi dép râu. Vì không thể hiểu điều đó nên cho đến nay vẫn còn một số người nhất định bảo Mỹ không thua, chỉ giả vờ thua để rút quân vì họ đã bắt tay được với Trung Cộng và Liên Xô rồi (!) Những người này dĩ nhiên tự tách mình ra khỏi những người biết hối hận về lỗi lầm của tập thể.
Dĩ nhiên không phải chỉ có mấy vị bộ trưởng và các đại sứ nên sám hối vì đã không làm hết sức mình. Mà tất cả chúng ta từ các dân biểu, nghị sĩ, tổng giám đốc, sĩ quan cao cấp cho đến người lính trơn, nguời công chức quèn, trong đó có người viết, cũng phải sám hối. Chúng tôi chỉ đan cử một ví dụ cụ thể. Một công chức chỉ biết phục vụ không có tham vọng chính trị, sau khi đệ nhất Cộng Hoà sụp đổ đã đâm ra bi quan và tiêu cực, làm việc chỉ để có lương nuôi gia đình. Nên khi được cấp trên (trong Đệ II CH) muốn trao cho anh ta một chức vụ lãnh đạo một cơ quan đã nhất định từ khước, lấy lý do mình không có khả năng. Người công chức này có biết mình đã đắc tội về thái độ tiêu cực của mình không, hay cho rằng mình chẳng có lỗi gì?
Trong thời Đệ II CH từng có phong trào chống tham nhũng của LM Trần Hữu Thanh gây xôn xao dư luận và hiện tượng ký giả đi ăn mày. Những người chủ xướng và tham gia có nên sám hối vì đã gián tiếp góp phần làm mất nước không? Hay nên hãnh diện về việc làm đó, lấy cớ rằng nếu chính quyền của TT NVT đã nghe theo họ mà bớt tham nhũng thì đã cứu được nước? Theo chúng tôi đã đến nước này, tất cả chúng ta phải ăn năn. Vì lỗi mất nước là lỗi chung của mọi người.
Còn giới trí thức ngoài chính quyền như các ký giả tự do, các văn nghệ sĩ ... cũng phải nhận mình có lỗi như lời hai văn thi sĩ nói với nhau nhân lần hai người gặp mặt đầu tiên ở Virginia năm đầu thiên niên kỷ:
‒ “Tôi nghĩ chúng ta có tội khi để đất nước rơi vào tay bọn cộng sản. Ta càng có tội hơn khi ta không cứu được đất nước ra khỏi tai hoạ cộng sản” (nhà văn)
‒“Để cho cộng sản chiếm quê hương, tất cả chúng ta đều có tội.” (nhà thơ) (6)
Trong một cuộc chiến tranh quy ước thi văn sĩ thường đứng ngoài và dù bên nào thắng thì họ cũng được coi là vô tội. Nhưng trong cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến ý thức hệ, do Cộng Sản khai chiến để rồi chiếm được cả nước, thì người dân nào còn chút lòng yêu nước đều cảm thấy đau xót và tự thấy mình có tội.
Dĩ nhiên mức độ tội trạng tuỳ theo địa vị, chức vụ, và vai trò của từng cá nhân trong xã hội. Ở đây chúng tôi không đặt vấn đề cân đo đong đếm tội lỗi, cũng không đặt tiêu chuẩn, mỗi người phải sám hối như thế nào và nhiều ít bao nhiêu. Nếu mọi người trong chúng ta đều nói lên những lời thú nhận như 2 thi văn sĩ trên thì đã đủ. Nếu những lãnh tụ các đảng phái, tổ chức đấu tranh minh thị nói lời nhận tội của riêng mình và của tập thể thì càng tốt. Còn hơn là luôn luôn đổ tội cho kẻ khác, hay đồng minh.

Nhắc lại lời nhận tội của hai văn thi sĩ ở hải ngoại, chúng tôi đồng thời nhớ tới sự hối hận của một trí thức trong nước ẩn danh dưới cái tên blogger Pson Khanh. Ông này đã kết luận một bài thú tôi của ông bằng câu: “Tôi thật sự ân hận vì đã vào Đảng (CS).” Có lời ân hận này là vì suốt 15 năm ở trong đảng, ông đã chứng kiến quá nhiều điều sai quấy, tội lỗi của đảng và đã bao lần muốn bỏ đảng mà không dám vì những cái sợ trăm chiều.
Câu sám hối của blogger này có thể nói là câu đang ở đầu lưỡi của hàng vạn đảng viên khác, chỉ chờ có dịp thốt ra mà chưa dám.
Đến bao giờ thì nó thốt ra và bao nhiêu người sẽ hưởng ứng là tuỳ thuộc vào lòng yêu nước của nhân dân trong nước còn nồng nhiệt đến mức độ nào.
Điều mà nhiều người đã mong mỏi và đã nuối tiếc là vào cuối thập niên 80 đã không có một giọt nước mắt sám hối nào nhỏ xuống từ cặp mắt những nhà lãnh đạo CS trong nước đủ để Việt Nam có thể xuất hiện một Gorbachev hay Yeltsin.
Một vài Trần Xuân Bách, hay Nguyễn Cơ Thạch ... chưa có được dũng khí của lãnh tụ, hoăc chưa có sự khuyến khích của một số đông những kẻ biết nhìn ra tội lỗi mình và thành tâm nhận lỗi, xin lỗi. Những Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Hà Sỹ Phu, Nguyễn Thanh Giang ... thì hãy còn sợ đụng phải thần tượng Hồ Chí Minh. Nhiều người đã có lúc trông chờ và rồi đã phải thất vọng về một Võ Nguyên Giáp vì ông này còn luyến tiếc cái hào quang Điện Biên và loá mắt trước hào quang anh hùng dân tộc của “Bác Hồ” mà ông ta tôn là chiến lược gia đại tài.
Thực ra Việt Nam đã không thể có một Gorbachev như nước Nga, hay một cuộc đổi đời chợt đến như các dân tộc Ba Lan, Đông Đức, Hung Gia Lợi ... ở Đông Âu, cũng vì hào quang “cha gia dân tộc” Hồ Chí Minh.
Và những huyền thoại u ám loại này đang ngăn cản núoc mắt sám hối nhỏ ra vì lòng yêu nước.
Chỉ một cuốn hồi ký loại “Hồi Ký của một thằng hèn” có đáng gọi là nước mắt sám hối của những đảng viên CS không? Nếu nó không có tác dụng cải hối và thay đổi tâm trạng hàm ân của số đông đối với kẻ cướp, tâm trạng sợ sệt đến độ “thâm căn cố đế” trước bạo lực vô nhân của kẻ cướp, thì chưa có gì đáng khích lệ. Cần có hàng trăm, hàng ngàn hồi ký sám hối như vậy mới hy vọng thay đổi được hiện trạng.
Đã đến lúc một số lớn những kẻ có chức có quyền phải lên tiếng nhận lỗi, xin lỗi về những tai hoạ đã gây ra cho dân tộc trong gần một thế kỷ vừa qua.
Hồ Chí Minh là nguồn gốc căn nguyên gây tai hoạ cho dân tộc ta đang ở dưới suối vàng cùng với Các Mác và Lênin, phải là người ăn năn khóc lóc trước hết. Nhưng ông ta đã sang cõi âm. Tổ tiên, Trời Phật, Thượng Đế sẽ xét xem nước mắt ông ấy đổ ra có phải do lòng yêu nước hay do nuối tiếc một ánh hào quang phù phiếm le lói trong ảo vọng?
Từ đầu việc ông tin theo Mác có thể thông cảm, vì trên thế giới lúc ấy nhiều người ban đầu cũng nghĩ rằng Mác hay, Mác đúng. Dùng các phương pháp bạo lực của Mác và Lênin để tranh đấu cho độc lập dân tộc cũng có thể là tốt. Nhưng thực sự tranh đấu cho chủ nghĩa đại đồng không tửong, mà lại nói dối là tranh đấu cho độc lập dân tộc thì là cái tội vô cùng to lớn. Nhất là lại vì cái chủ nghĩa vô nhân đó mà đưa hàng triệu đồng bào vào chỗ chết thì có đáng được khoan hồng không? Dù ông có hối hận đến đâu ở cõi âm, dám chắc Tổ Tiên cũng khó mà xoá tội cho ông.
Có người căn cứ vào một di chúc “thứ hai” nào đó để bào chữa cho ông Hồ, cho rằng ông đã hối hận trước khi chết. Vì vậy mà có cuốn Đỉnh Cao Chói Lọi cũng hùa theo bào chữa cho ông. Nhưng tất cả những ai muốn ông được giảm khinh đều phải cùng ông hối hận.
Võ Nguyên Giáp, một trong mấy phụ tá thân cận nhất của ông Hồ, kẻ đã áp dụng chiến thuật biển người nướng hàng chục vạn sinh linh là kẻ phải sám hối nhiều nhất trong những kẻ còn sống sót. Liệu ông ấy có nhìn ra tội lỗi của mình chưa. Chưa hề thấy ông ta nói lên lời sám hối bao giờ. Có người bảo ngày nay ông ta hay ngồi thiền. Có phải để tu tâm dưỡng tính hòng ăn năn hối lỗi một cách âm thầm không. Nhưng chưa công khai nói lên lời hối lỗi thì chưa gây được tác dụng gì đối với dân tộc.
Liệu trong số đảng viên cao cấp trong bộ Chính Trị và Trung Ưong đảng có ai đang âm thầm sám hối không? Mong rằng có. Vậy thì hãy can đảm ra khỏi bóng tối âm thầm để công khai nói lên lời nhận tội và xin lỗi nhân dân. Vì điều đó sẽ là mồi lửa châm ngòi cho hàng loạt tiếng nói và hành động hối cải khác.
Những nhà trí thức trong nước ở tuổi 50, 60 trở lên có nghĩ rằng mình không tán thành, ủng hộ tích cực cái chế độ này, thì chẳng có gì phải ăn năn? Xin hãy tự hỏi mình có đi bầu “quốc hội” của Đảng CS không? Có đề nghị, kiến nghị hay thỉnh nguyện các lãnh tụ CS bao giờ không? Và có coi những hành vi, thái độ tương tự là một cách chấp nhận, tán thành, ủng hộ nó không?
Chúng tôi không đi vào chi tiết về những tầng lớp nhân dân khác cần phải sám hối. Mà chỉ đưa ra một ý kiến là mọi người phải sám hối, vì bằng cách này hay cách khác, tất cả chúng ta kẻ ở bên này cũng như người ở bên kia làn ranh quốc cộng đều có lỗi khi để mất nước. Người xưa thường nói: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách là vậy
Các hình thức hối lỗi có thể khác nhau, và mức độ tội lỗi của mỗi người không giống nhau. Nhưng chỉ cần ăn năn hối lỗi vì lòng yêu nước, thì nguồn nước trong là lòng yêu nước sẽ thanh tẩy chúng ta, biến tất cả mọi người trở lại thành đồng bào có thể đoàn kết để cứu nước khỏi hoạ diệt vong từ phương Bắc.
Nói vậy tuy có vẻ giản dị, dễ dàng, nhưng thực ra là điều quá khó hầu như không thể nào thực hiện được. Vì lòng yêu nứoc thực sự đòi phải được cụ thể hoá bằng hành động. Mà từ tâm tư chuyển sang hành động là cả một quá trình phức tạp.

Tóm lại, theo những gì biết được về Cộng Sản và lịch sử, nhất là lịch sử chiến tranh Việt Nam, chúng tôi có thể khẳng định:

Muốn chống lại âm mưu thôn tính và đồng hoá của kẻ thù phương Bắc, toàn dân phải đoàn kết một lòng. Và muốn có đoàn kết thì trước hết cả hai phía đều phải thực lòng nhận lỗi và hối lỗi, để có thể hoà giải với nhau.
Ban đầu tất cả chúng ta đều không hiểu rõ về CS nên kẻ thì rước nó về coi nó như cứu cánh, kẻ thì ủng hộ tiếp tay cho việc phô biến nó, tưởng rằng nó sẽ có thể là phương tiện giúp toàn dân đánh đuổi thực dân, dành độc lập.
Điều mà cho đến nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ là thứ chủ nghĩa dân tộc mà Lênin đề cao chỉ là sách lược giai đoạn hoàn toàn khác với chủ nghĩa dân tộc thực sự. Vì thế cho nên khi ông Hồ hô hào toàn dân kháng chiến chống Pháp, thì khẩu hiệu kháng chiến chống Pháp đó chỉ là chiêu bài dân tộc chứ không phải chủ nghĩa dân tộc thực sự. Đa số những ngừơi theo kháng chiến ban đầu đều lầm. Và sở dĩ ngày nay thần tượng ông Hồ còn tồn tại được như cái phao cho đảng CS bấu víu vào đó là sống sót, cũng vì cho đến nay nhiều người vẫn còn lầm.
Tất cả những ai đã đánh lừa và đã lầm vì điều đó đều nên mhận lỗi. đó là về phía những người đã và đang theo CS ở trong nước, bất kể người có chức quyền, hay người đã lầm đi theo hay đứng về phía kẻ cầm quyền.
Phía chống Cộng hay phi CS cũng rất ít người đã hiểu thấu đáo về CS nhất là về chiêu bài dân tộc giả dối của Lênin. Trong số ít này có ông Ngô Đình Diệm. Vì hiểu rõ âm mưu thâm độc đó của ông Hô, nên ngay từ những năm 47- 48 ông đã cố vấn và tích cực giúp quốc trửơng Bảo Đại tranh đấu với thực dân Pháp đòi độc lập hoàn toàn. Mà vì không thành công nên ông đã không nhận làm thủ tướng hai lần sau những hiệp ước vịnh Hạ Long (1948) và Élysée (1949). Cho đến khi Pháp đã thua hẳn và đã phải nhận chia cho Việt Cộng một nửa nước, ông mới đứng ra cứu nước để cố giữ nửa còn lại.
Nhờ đường lối sáng suốt đúng đắn nên ông đã thành công sáng lập ra Cộng Hoà Việt Nam. Chỉ có thành quả đó có thể sẽ lột mặt nạ chiêu bài dân tộc của Hồ Chí Minh.
Nhưng tiếc rằng chúng ta đã để công trình vĩ đại đó sụp đổ tan tành bằng một cuộc đảo chính, lấy cớ người lãnh đạo bất tài, độc tài, gia đình trị, kỳ thị tôn giáo v.v... Cho nên chúng ta phải tự trách. Kẻ ủng hộ cũng như người chống đối.
Dù đã cố trình bày những khía cạnh khác nhau của lịch sử. Tuy nhiên đó chỉ mới là một phần mười những tình huống và hoàn cảnh khác nhau của một tổng thể hết sức phức tạp và đa dạng. Nhưng nếu chúng ta coi nhau như cùng một đại gia đình có Tổ Quốc cưu mang, có Đất Mẹ đùm bọc bàng một mối tình tinh tuyền, thì mọi việc dù rắc rối đến đâu cũng có thể chín bỏ làm mười để hoà giải với nhau trong niềm hối hận chung, không xét tới ai phải ai trái, ai có lỗi nhiều ai có lỗi ít.
Khi chúng tôi đánh liều viết bài sám hối này, chúng tôi không dám kỳ vọng những lời hô hào sẽ được nhiều nguời hưởng ứng. Vì nội tình ở trong nước cũng như hải ngoại quá phức tạp, chia rẽ, không dễ gì có thể có một sự nhận lỗi và ăn năn chung.
Nhưng không sao. Nếu vận nước đã đến thì điều đó sẽ xảy ra không chóng thì chày. Còn nếu cả hai bên đều cố chấp thì, theo thiển ý, sẽ không có cách gì đoàn kết được, và chúng ta sẽ phải chờ một thời gian nữa. Thời gian đó dài bao lâu (mấy thế kỷ?) là tuỳ thuộc vào sự thành tâm của một thiểu số thiện chí sẽ may ra có thể dần dần làm biến đổi lòng người theo vận nước.
Trước khi kết thúc, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng sám hối chỉ là điều kiện tiên quyết, cần nhưng chưa đủ để đoàn kết dân tộc. Nó cũng chỉ là bứoc đầu trên con đường cứu nước. Những bước kế tiếp sẽ còn khó khăn, phức tạp hơn. Xin để các cộng đồng, các chính đảng, có thẩm quyền, có phương tiện đưa ra quan điểm và chương trình kế sách khả thi. Chúng tôi cũng không ngần ngại nói lên ý nghĩ thành khẩn của mình, dựa vào kinh nghiệm dĩ vãng: Là chúng ta chỉ có thể cứu nước bằng chính lực lượng của nhân dân cả nước. Không thể trông cậy vào ngoại nhân.
Sau hết, có nên ước mong rằng trong cái gọi là đại hội giữa những người Cộng sản trong nước với một số “đại diện” của “những Việt Kiều Yêu Nước” sẽ nhóm tại Hà Nội vào hạ tuần tháng này, tất cả tham dự viên sẽ đồng thanh nói lên lời hối lỗi để chứng tỏ thiện chí muốn hoà giải để có thẻ đoàn kết mà cứu nước?

Thưa quý độc giả,
Có thể quý vị cho là ý kiến của chúng tôi quá lý tưởng, hay viển vông. Nhưng dầu sao đó chính là đòi hỏi cấp bách của thời cuộc, của Tổ Quốc trước hiểm hoạ bị Tầu Cộng thôn tính. Nếu tất cả chúng ta, ở bên này cũng như bên kia, không gạt bỏ được lòng vị kỷ, tính hiếu thắng, mặc cảm tội lỗi, hay quyền lợi của phe nhóm và tinh thần ỷ lại, vọng ngoại để đáp ứng, thì theo thiển kiến, chẳng bao lâu lời tiên đoán của ông Ngô Đình Nhu, một năm trước khi qua đời sẽ thành sự thực:
“Nếu miền Nam mất vào tay Việt Cộng thì Việt Nam bị Tầu Cộng thôn tính chỉ còn là vấn đề thời gian.” (7), (8)

21/11/09

© DCVOnline
--------------------------

(4) Về chi tiết, xin xem Ngô Đình Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc của Minh Võ, Diễn Đàn Giáo Dân tái bản năm 2009, trang 274.
(5) Trong 2 cuốn sách về ông Diệm và cuốn Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp, cũng như trong nhiều bài báo về chiến tranh ý thức hệ.
(6) Đối đáp giữa nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và nhà văn Hoàng Hải Thủy trong một bài ký của Công Tủ Hà Đông đăng trên bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong số 813.
(7) Chính Đề Việt Nam, Tùng Phong, 2009, trang 212.
(8) Sau khi đọc xong, nếu quý bạn nào còn cho rằng chỉ có kẻ cướp (thắng) phải nhận tội và sám hối, còn kẻ bị cướp (thua) thì không cần phải ân hận gì, thì người viết xin lỗi là đã làm mất thì giờ của quý vị. Vì thực ra quan niệm về đạo lý của quý vị và chúng tôi không giống nhau nên đã thành ra kẻ nói gà bà nói vịt. Nước mất thì toàn dân thua, chỉ có kẻ cướp là Cs thắng thôi. Đến bao giờ lấy lại được nước thì mới ngẩng cao đầu và tái sinh được. Chứ không nên chỉ trông vào sự can thiệp của quốc tế làm áp lực cho bọn cướp bố thí cho chút tư do, dân chủ, nhân quyền kiểu ăn xin. Ta nên tự hỏi, tại sao các nước Đông Âu đã đựoc tự do, mà Việt Nam còn mãi mãi trong vòng nô lệ? Có phải vì ta quá kiêu ngạo, thua mà vẫn không chịu mình thua để rút kinh nghiệm cho con cháu tìm cách chiến thắng không?



No comments: