Thursday, January 1, 2009

NỖI ĐAU DÂN CHỦ (Phần 3)

Nỗi đau dân chủ
Phạm Đinh Trọng
Đăng ngày 01/01/2009 lúc 01:01:22 EST
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3413

3. XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY LÀ DI HOẠ CỦA CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, LÀ HẬU QUẢ CỦA THỂ CHẾ MẤT DÂN CHỦ

Trong những thảm hoạ trên thì cải cách ruộng đất là thảm hoạ lớn nhất, để lại hậu quả nặng nề nhất, tàn phá xã hội dữ dội nhất, lâu bền nhất. Tàn phá từ tài sản, của cải vật chất của xã hội đến giá trị tình cảm trong gia đinh, giá trị đạo đức trong mỗi con người. Tàn phá từ đời sống văn hoá tinh thần đến đạo lí, lối sống. Tàn phá tan tành cả đức tin thiêng liêng và bền vững trong đời sống tâm linh sâu thẳm của cả cộng đồng. Tàn phá cả sự phát triển xã hội, cả tương lai đất nước.

Từ cải cách ruộng đất, con người được đóng dấu thành phần giai cấp vào số phận nhu đóng dấu phân loại chất lượng sản phẩm trong sản xuất công nghiệp và xã hội được quy hoạch phát triển theo thành phần giai cấp. Thành phần ưu tú nhất, tài năng nhất, tiên tiến nhất và quí hiếm nhất là trí thức bị đóng dấu sản phẩm loại bốn theo thứ tự công, nông, binh, trí! Trí thức bị nghi ngờ là không vững vàng, không trung thành, trở thành kẻ sai bảo, sai khiến việc gì làm việc ấy! Buổi đầu giành được chính quyền, mục tiêu cao nhất của nhà nước cách mạng do Hồ Chí Minh lãnh đạo là mục tiêu dân tộc. Với mục tiêu dân tộc, vì sự sống còn của dân tộc, vì sự rạng rỡ của dân tộc thì dân tộc luôn đi liền với dân chủ. Độc lập dân tộc. Thực hành dân chủ. Kiến thiết đất nước. Với ba tiêu chí đó, Hồ Chí Minh đã tập hợp được trong Chính phủ đầu tiên những trí thức hàng đầu của đất nước, những người thực sự có tài năng, có trí tuệ, có đóng góp công lao to lớn cho nhân dân, có uy tín rộng rãi trong xã hội. Nhiều bộ trưởng trong Chính phủ đó là những trí thức lớn không Cộng sản. Lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ và nhân dân Việt Nam mãi mãi biết on những trí thức trong Chính phủ Hồ Chí Minh ở buổi đầu gian nan đó. Tiến sĩ nho học Hùynh Thúc Kháng. Tiến sĩ tây học Nguyễn Văn Huyên. Nhân sĩ Nguyễn Văn Tố. Luật sư Vu Trọng Khánh. Ki sư Đặng Phúc Thông . . . Họ thực sự có vai trò, có đóng góp tích cực trong Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh. Nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp cũng kết thúc luôn mục tiêu dân tộc của Hồ Chí Minh và cũng kết thúc luôn vai trò của người trí thức. Ngay sau chiến thắng Điên Biên Phủ là cuộc cải cách ruộng đất đưa mục tiêu giai cấp thay mục tiêu dân tộc, lấy bạo lực chuyên chính vô sản làm phương thức thực hiện mục tiêu giai cấp thay cho phương thức dân chủ của mục tiêu dân tộc!

Từ đây những trí thức có vai trò trong xã hội dần dần bị vô hiệu hoá, chỉ còn là những hình nhân, chỉ có chức danh mà không có thực quyền. Một hình nhân rất tiêu biểu là Phó thủ tướng Phan Kế Toại! Thành phần công nông trở thành tiêu chí, thành niềm tin, thành rường cột xã hội. Từ đây bắt đầu một xã hội không dùng trí tuệ mà dùng cơ bắp! Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Phải là trí thức mới có thể là hiền tài, mới được là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí quốc gia không được dùng thì đó là quốc gia ở thời tiền sử!

Nói là công nông nhưng xã hội Việt Nam giữa thế kỉ XX vẫn là xã hội nông nghiệp lạc hậu, chỉ có người nông dân truyền thống từ ngàn xưa chứ chưa có nhiều công nhân. Một số rất ít công nhân khai mỏ, công nhân làm đường, công nhân quai búa trong vài xưởng máy nhỏ bé, những người vừa rời đồng ruộng chuyển sang làm công việc đơn giản của cơ bắp trên các công trường công nghiệp. Công nhân kĩ thuật trong các dây chuyền công nghiệp rất ít ỏi. Chín mươi chín phần trăm dân số Việt Nam vẫn là nông dân với phương thức sản xuất từ ngàn xưa: Trên đồng cạn, dưới đồng sâu / Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa. Trong đội ngũ những người nông dân mặc áo lính, những người nông dân mặc áo cán bộ thì thành phần trung nông ưu tú nhất, có đầu óc nhạy bén, thông minh nhất, biết tổ chức làm ăn giỏi nhất lại bị coi là không đáng tin cậy vì thành phần ấy chỉ bước thêm nửa bước chân nữa là thành địa chủ bóc lột, đó là thành phần còn có của cải tu hữu, dễ dao động, không trung thành với lí tưởng cách mạng vô sản! Chỉ có bần cố nông, những người nghèo khổ cùng kiệt trong xã hội cũng là những người thất bại trong cuộc sống, những người làm ăn kém nhất, chỉ có cơ bắp đi làm thuê, chịu sự sai khiến của người khác mới là những ngưới vô sản thực sự, mới có thể tin cậy đưa lên làm cán bộ nòng cốt quản lí và xây dựng xã hội mới! Nghèo khổ trở thành một phẩm chất đáng quí trong nhìn nhận con người! Nghèo khổ trở thành mốt thời thượng một thời kì dài.

Từ đây nhân dân Việt Nam phải nhận một bi kịch là những người tổ chức cuộc sống cho bản thân họ chưa nổi, nuôi bản thân họ chưa xong, bây giờ họ nhân danh “Nhà nước” tổ chức cuộc sống cho cả xã hội, nuôi cả xã hội! Bi kịch diễn ra ở mọi mặt đời sống xã hội! “Nhà nước” tổ chức giao thông công cộng cho xã hội không nổi, người dân phải tự lo việc đi lại của mình. Mỗi người phải cố tự sắm một chiếc xe máy. Xe máy cuồn cuộn như nước sông mùa lũ gây tắc đường, gây tai nạn thương tâm thì “Nhà nước” lại ngồi nghĩ quẩn đẻ ra nhiều hình thức cấm đoán xe máy, tước đi những quyền chính đáng và hợp pháp của người dân mà “Nhà nước” không thấy rằng cứ tổ chức tốt giao thông công cộng đi thì xe máy sẽ tự loại bỏ! “Nhà nước” không dạy nổi công chức của mình sống cho tử tế vì chính “Nhà nước” cũng sống không tử tế. Không phải tất cả nhưng không ít người có được chiếc ghế quan chức nhà nước bằng chạy chọt, mua bán thì làm sao họ có thể sống tử tế! “Nhà nước” không nuôi nổi công chức của mình cho đàng hoàng nên những chức phận nhân văn, cao cả, thiêng liêng cũng thành tầm thường, ô trọc, giá áo túi cơm: Thầy thuốc làm tiền người bệnh! Nhà giáo làm tiền học trò! Quan thuế làm tiền người đóng thuế! Cả một hệ thống pháp luật quyền uy, tôn nghiêm, công an, kiểm sát, quan toà xúm lại làm tiền người bị vướng vào vòng lao lí, tạo ra những bản án méo mó, lươn lẹo, gây ra những tiếng kêu oan dậy đất!...

Những bi kịch đau lòng, nhục nhã trên, không lĩnh vực nào không có! Những cán bộ công nông rường cột ấy khi còn ở tuổi cắp sách đến trường phần nhiều không được đi học hoặc chỉ được học rất ít. Để san bằng cách biệt về nhận thức xã hội và kiến thức văn hoá giữa hai thành phần trí thức và công nông, liền có chủ trương hoán đổi vị thế hai thành phần đó: Công nông hoá trí thức và Trí thức hoá công nông! Công nông hoá trí thức là đưa trí thức về đồng ruộng, hầm mỏ, xưởng máy tham gia công việc sản xuất của người nông dân, công nhân. Trong tập truyện hồi tưởng Chiều chiều, nhà văn Tô Hoài kể: Tô Hoài và nhà văn Phùng Quán được đưa về làm nông dân ở Thái Bình. Ngoài làm công việc đồng áng hàng ngày cùng chủ nhà, mỗi nhà văn còn được giao định mức làm phân xanh. Cắt cây cỏ hoang dại ủ làm phân, sáng nào nhà văn Phùng Quán cũng phải dậy sớm chạy dọc đường làng, mắt trước mắt sau tìm những bãi phân trâu vừa ỉa vãi trên đường ra đồng, cắm que nhận phần để trẻ con khỏi hót tranh mất. Ra đến tận đồng mới quay lại hót phân đổ vào hố ủ cho đủ định mức và đạt chất lượng phân! Công nông hoá trí thức là thế đó! Còn trí thức hoá công nông là đưa cán bộ công nông về các trường bổ túc văn hoá của tỉnh, trường văn hoá công nông của trung ương, gấp rút học văn hoá, hai ba tháng học xong một lớp! Một cán bộ công nông văn hoá lớp hai, lớp ba, chỉ sau hơn một năm học bổ túc văn hoá công nông liền có bằng tốt nghiệp trung học để vào các trường đại học, học đại học chuyên tu, đại học tại chức, ra nước ngoài học tiếp lấy bằng phó tiến sĩ, về nước quy đổi thành tiến sĩ!

Nhưng sự học thuộc tư chất từng người, ngoài ý muốn chủ quan của con người. Học để biết đọc biết viết tiếng mẹ đẻ (cấp tiểu học) thì ai học cũng được. Nhưng học để biết quy luật tự nhiên, quy luật xã hội (cấp trung học) thì không phải ai cũng học được. Với những người đi học quá trễ, hết tuổi phát triển vóc dáng, phát triển nhận thức mới đi học chương trình trung học cơ sở, đến việc phải ngồi đối mặt với trang sách cũng tù túng, bứt rứt không quen, lại càng không quen động não thì những công thức, những định luật đều lo mo, trừu tượng, đều mông lung, xa vời! Học để tiếp tục khám phá quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, học để ứng dụng những quy luật đó vào cuộc sống và vào những công việc cụ thể (cấp đại học) thì những người có thể học được càng ít! Nhưng cán bộ được đảng cử đi học thì sự học hoàn toàn theo ý múôn chủ quan của tổ chức đảng! Từ cải cách ruộng đất đến tận hôm nay việc sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ theo một quy trình ngược là: Đề bạt cán bộ rồi cán bộ mới đi học lấy bằng cấp tương xứng với vị trí được đề bạt. Việc đi học chỉ để lấy bằng cấp hợp thức hoá cương vị công chức, tạo thế, tạo uy chính trường chứ không phải đi học để lấy kiến thức nên học đâu tốt nghiệp đó, thi đâu đỗ đó, cần lấy bằng gì thì có bằng đó! Vì thế phần lớn những người có học hàm, học vị cao, giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, đều là quan chức lãnh đạo trong hệ thống quyền lực nhà nước, rất ít người làm nghiên cứu khoa học! Với cách học như trên đã nêu, làm sao họ có thể làm nghiên cứu! Học hàm học vị cao ở nước ta nhiều không thua kém thế giới nhưng những bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học thế giới thì thua xa thế giới!

Một tiểu đội nữ du kích gan dạ, dũng cảm vác đạn băng qua lửa đạn hết trận này đến trận khác phục vụ trận địa pháo cao xạ bắn hạ nhiều máy bay Mĩ. Tiểu đội được về thủ đô dự đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua. Cô tiểu đội trưởng có thành tích đặc biệt xuất sắc được tuyên dương Anh hùng. Nhưng vì xấu gái, bé nhỏ, gầy guộc, đen đúa, cô tiểu đội trưởng Anh hùng lại về với đồng ruộng, về với quần chúng nhân dân vô danh, lam lũ! Còn cô đội viên thành tích bình thường nhưng trắng trẻo, đầy đặn, xinh gái thì được giữ lại thủ đô, trở thành cán bộ trung ương. Làm quan tắt và học tắt, cô du kích xinh gái cũng có bằng đại học như ai và làm tới bộ trưởng, trở thành chính khách quốc gia!

Nước thịnh suy, việc thành bại đều do đội ngũ cán bộ quyết định. Tình trạng yếu kém, bê bối của xã hội ta hiện nay, làm đâu tiêu cực đấy, đổ vỡ đấy! Công quỹ thất thoát. Tham nhũng tràn lan. Bạo lực lộng hành. Xã hội hỗn loạn. Oan khiên chồng chất. Dân oan kêu than vô vọng . . . là hệ quả của cách dùng người không căn cứ vào năng lực mà chỉ căn cứ vào thành phần giai cấp và cách dùng người tùy tiện theo quyền uy, bằng đặc cách cá nhân!

Quan chức nào, xã hội đó. Người đứng đầu các cơ quan đơn vị trong xã hội chính là khuôn mẫu của xã hội. Ngôn ngữ, hành vi, tác phong, lối sống của họ cũng là ngôn ngữ, hành vi, tác phong, lối sống của xã hội! Từ năm 1955, các đô thị ở miền bắc và từ năm 1975, các đô thị ở miền nam đều có bộ mặt nửa phố, nửa làng. Năm 1976, Sài Gòn vừa được giải phóng, thác người di tản đã làm rỗng cả thành phố. Mới chín giờ tối, đường phố đã vắng hoe. Thưa thớt vài chiếc xe đạp, xích lô vội vã. Đến ngã tư, đèn đỏ, đường vắng lại không có bóng công an nhưng xe đạp, xích lô vẫn tự giác dừng lại đợi đèn xanh. Nay giữa ban ngày, nhiều xe máy vẫn thản nhiên ào ào vượt đèn đỏ!

Trường viết văn Nguyễn Du đặt trên đất trường đại học Văn hoá Hà Nội. Khoá đầu tiên năm 1978 – 1981 chúng tôi học, hai trường còn cùng chung một ban giám hiệu. Sinh viên viết văn đều đã đi qua cụôc chiến tranh chống Mĩ, đều đã có tác phẩm và tuổi đã chững chạc nên nhân viên trường Văn hoá đối với chúng tôi rất thân tình. Một lần có việc lên văn phòng trường đại học Văn hoá, tôi đang ngồi nói chuyện với cô kế toán chờ người tôi cần gặp thì ông hiệu phó kiêm bí thư đảng uỷ trường đại học Văn hoá bước vào văn phòng, nhìn cô kế toán, nói: Sao mày lại ngồi đây để tao tìm hết hơi! Cô kế toán đỏ mặt đứng lên, lặng lẽ bỏ đi. Lát sau, gặp lại tôi, cô than thở: Hiệu phó trường đại học Văn hoá mà nói với bọn con gái chúng em cứ mày, tao, nghe đến ngượng. Ông ấy gọi em là mày, không bao giờ em trả lời!

Đã mấy kì đại hội đảng nêu mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng tiết tấu cuộc sống vẫn ì ạch, chậm chạp của nền sản xuất nông nghiệp thô sơ và cảm hứng say sưa bí tỉ đánh chén của những ông trương tuần, lí trưởng ở làng xã xa xưa vẫn đang ngự trị bền vững, rộng khắp trong xã hội hôm nay. Công chức sáng sớm vội vã đến công sở tưởng chăm chỉ, mẫn cán lắm. Nhưng đặt chiếc cặp ở bàn làm việc rồi tà tà đi ăn sáng, ăn xong lại ngồi nhâm nhi li cà phê, thanh thản đọc vài bài báo nóng mới đủng đỉnh về lại nhiệm sở. Vài cuốc điện thoại tán tỉnh dông dài là đã đến giờ hẹn hò đi ăn trưa. Hồi bao cấp nghèo khổ, công chức buổi sáng đi làm còn mang theo suất cơm trưa đạm bạc, ngồi ăn ngay tại bàn làm việc. Nay chẳng ai còn phải mang cơm đi làm nữa. Công chức ở những cơ quan hành chính chay tịnh thì rủ nhau ra quán “Cơm trưa văn phòng”. Công chức ở những cơ quan nắm quyền ban phát thì người này hẹn, người kia đón đi nhà hàng máy lạnh.

Bữa trưa rượu thịt còn có mức độ. Bữa tối mới thật ê hề. Những bữa ăn mang theo cả nỗi thèm khát truyền kiếp, mang theo cả nỗi ẩn ức giai cấp! Bao kiếp người đói khổ, thèm khát, nay mới được hả hê! Những chức sắc làng xã vừa thèm khát xôi thịt, vừa thèm khát góc chiếu trên giữa làng để vênh váo với đời! Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp mà! Những ông nhiêu, ông lí chốn việc làng ngày nào nay hiện nguyên hình trong những bộ mặt say sưa đầy cảm hứng bên bàn nhậu! Tôi quen biết một gia đinh công chức bậc cao, chồng là lãnh đạo cấp vụ một bộ lớn, vợ là phó giám đốc một công ty nhà nước. Gia đình ấy chỉ hai ngày nghỉ cuối tuần mới có bữa cơm gia đình đông đủ. Những ngày làm việc, ông công chức cấp vụ đều không ăn cơm nhà. Ngoài tiền lương đưa đủ cho vợ, tối khuya về nhà, thường ông còn có phong bì đưa thêm! Những cuộc nhậu của công chức còn như những phiên chợ Trời. Làm quen cầu thân. Xin – cho. Ngã giá. Móc ngoặc. Đi đêm. Toan tính mưu đồ. Chạy chức. Chạy quyền. Chạy công. Chạy tội... đều dùng những bữa nhậu làm cây cầu dẫn dắt. Vì thế mà đặc sản, sơn hào hải vị ngập trên mặt bàn, bia rượu ngoại lênh láng dưới gầm bàn! Mức sống dân ta còn vào loại nghèo nhất thế giới nhưng quan chức lại sống xa hoa, lãng phí nhất thế giới! Nhà hàng quán nhậu giăng giăng từ phố này sang phố khác. Bàn nhậu san sát từ trên sân thượng nhà hàng cao tầng tràn ra cả hè phố. Công chức nhà nước dập dìu có mặt suốt ngày đem ở những nơi ấy! Đại biểu đảng bộ tỉnh xa về thủ đô họp đại hội đảng toàn quốc. Quen cữ ở tỉnh, chiều tối đi bia ôm, về thủ đô dự đại hội đảng, đại biểu này cũng lẻn đi nhà hàng bia ôm, bị phát hiện và được xử lí kín đáo nên ít người biết! Nhưng tỉnh uỷ viên, phó ban tổ chức tỉnh uỷ, giờ làm việc cặp kè với gái trẻ tiếp viên nhà hàng bị vợ là chánh án toà án tỉnh đến đánh ghen ầm ĩ cả trên mặt báo thì nhiều người đều biết! Cả nước đều biết Tổng giám đốc PMU18, Tổng giám đốc của những dự án cầu đường lớn đã rút ruột các công trình để cầm trong tay cả triệu đô la đi đánh bạc! Rường cột của đất nước đó! Những quan chức ấy, những vụ việc ấy không phải là cá biệt! Những vụ việc trên chỉ như vài bức ảnh cận cảnh chân dung vài niềm tin, vài rường cột của đất nước hôm nay.

Công nghiệp hoá cần đầu tu lớn đòi hỏi vốn liếng, công sức và cả tiết tấu lao động công nghiệp khẩn trương. Tiết tấu lao động của người dân là tất bật, hối hả, cuộc sống của họ là kham khổ chịu đựng của thời thắt lung buộc bụng làm công nghiệp hoá mà nước nào cũng phải trải qua. Nhưng tiết tấu hành chính nhà nước thì cứ đủng đỉnh, nhẩn nha của nền sản xuất nông nghiệp thô so và cuộc sống của khá đông quan chức nhà nước là cuộc sống của những ông quan hu đốn ở thời phong kiến, bóp nặn dân, rút ruột ngân sách và trụy lạc hưởng thụ! Đội ngũ quan chức nhà nước ấy hình thành do cách dùng người có từ cải cách ruộng đất! Đội ngũ quan chức nhà nước ấy cho thấy mặt bằng quan chức nhà nước thấp hơn mặt bằng xã hội và càng quá thấp so với đòi hỏi của vị trí quan chức, so với yêu cầu của lịch sử! Vì thế đội ngũ quan chức nhà nước ấy làm đâu bê bối đấy, làm đâu tiêu cực đấy!

Tôi đã có mười năm làm điện ảnh ở xưởng Phim Quân đội, làm biên kịch. Lại có năm năm làm báo Điện ảnh của bộ Văn hoá Thông tin. Thêm vài năm làm điện ảnh tự do, là biên kịch và đạo diễn năm phim tài liệu video cho các tỉnh, huyện. Hơn mười năm làm điện ảnh cho tôi cái nhìn buồn về điện ảnh Việt Nam. Điện ảnh là chỗ gặp của kĩ thuật và nghệ thuật, là nghệ thuật tổng hợp của tất cả các ngành nghệ thuật, nó đòi hỏi rất khắt khe người làm nghệ thuật điện ảnh phải có năng khiếu nghệ thuật, biết cảm thụ văn học, biết rung động, cảm hứng nghệ thuật. Kĩ thuật có thể học được nhưng cảm thụ văn học, cảm hứng nghệ thuật thì không thể học được, đó là năng khiếu trời cho. Không lựa chọn năng khiếu, chỉ căn cứ theo thành phần giai cấp, căn cứ theo thành tích tham gia kháng chiến, sau cuộc kháng chiến chống Pháp nhà nước ta đã cử một loạt cán bộ chiến sĩ trẻ sang Liên Xô học trường đại học Nghệ thuật Điện ảnh Moskva, trường VGIK, để rồi sau đấy chúng ta có một đội ngu đông đảo công chức cao cấp điện ảnh, nhiều giáo sư, tiến sĩ điện ảnh, nhưng có rất ít tác phẩm điện ảnh có giá trị! Chưa hết! Còn một hệ quả lớn khác! Những công chức cao cấp giữ những vị trí then chốt trong ngành điện ảnh đã mở rộng cánh cửa đưa con cháu họ vào ngành nghệ thuật danh giá, cao sang này, tạo cho điện ảnh Việt Nam một tính đặc thù rất riêng biệt không điện ảnh nước nào có là tính gia tộc! Điện ảnh Việt Nam đang ì ạch ngoi ngóp trong tính gia tộc đó!

Lí luận tư tưởng bao giờ cũng có vai trò mở đường cho sự phát triển. Từ mấy chục năm nay, lí luận tư tưởng điện ảnh Việt Nam là thứ lí luận dông dài vô bổ! Mù mịt trong thứ lí luận viển vông, huyễn hoặc đó, điện ảnh Việt Nam càng ngoi ngóp vô định! Trứng rồng lại nở ra rồng / Liu điu lại đẻ ra giòng liu điu, trong số đông đảo những người làm điện ảnh cũng có những người đến với điện ảnh bằng năng khiếu tự thân, cũng có những tài năng hiếm hoi. Rồng Phạm Văn Khoa lại nở ra rồng Phạm Nhuệ Giang. Rồng Trà Giang - Bích Ngọc lại sinh ra rồng Bích Trà nhưng rồng Bích Trà không làm điện ảnh mà là pianist, nghệ sĩ của nghệ thuật kinh viện. Trong lứa kháng chiến chống Pháp làm điện ảnh, có thể còn một vài rồng cha, rồng con nữa, nhưng ít lắm! Còn lại đều là liu điu cả! Tình trạng con người của điện ảnh Việt Nam cũng là tình trạng quan chức của xã hội Việt Nam!

Từ cải cách ruộng đất, xã hội Việt Nam dưới chính quyền cách mạng vô sản thực sự không còn dân chủ! Trong những mất mát nguy hại của xã hội thiếu dân chủ thì mất dân chủ trong dùng người là nguy hại nhất. Mất dân chủ, việc cất nhắc, đề bạt diễn ra trong hậu trường, trong quyền uy cá nhân! Đó là cơ hội cho những người thiếu tài năng nhưng thừa tham vọng chạy chọt, đổi chác, mua bán. Người có tài bao giờ cũng có lòng tự tin và lòng tự trọng rất cao, họ không bao giờ chạy chọt, bon chen. Họ biết rằng không có cơ hội dành cho họ ở chốn hậu trường kia! Họ lặng lẽ chìm khuất trong dân gian hoặc dù rất đau lòng, họ cũng đanh ra nước ngoài, mang tài năng ra thi thố với thiên hạ và đóng góp cho thiện hạ! Mất dân chủ, người nắm quyền tổ chức cán bộ trở thành Lã Bất Vi xã hội chủ nghĩa! Suốt mấy nghìn năm, chế độ phong kiến Trung Hoa cũng chỉ sản sinh ra một Lã Bất Vi! Mới mấy chục năm, chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sản sinh ra rất nhiều Lã Bất Vi! Những cá nhân Lã Bất Vi! Những tổ chức Lã Bất Vi! Đưa một cô đội viên du kích chưa làm tới tiểu đội trưởng, học hành chưa đến noi đến chốn lên làm tới Bộ trưởng, những Lã Bất Vi trong bóng tối còn làm cả việc thấp hèn, tiểu nhân là diễu cợt, bôi bác một vị đại tướng lừng lẫy chiến công bằng cách đưa ông sang làm chủ nhiệm Uỷ ban Sinh đẻ có kế hoạch để dân gian có câu ca dao vừa ngậm ngùi chia sẻ với vị tướng khả kính, vừa mỉa mai những Lã Bất Vi: Bao năm đánh giặc công đồn / Bây giờ ôm súng gác l. chị em!

Từ đại biểu Quốc hội đến những người lãnh đạo cao cấp nhà nước đều do những cá nhân Lã Bất Vi và những tổ chức Lã Bất Vi quyết định. Người dân cầm lá phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội cầm lá phiếu bầu những người lãnh đạo nhà nước chỉ là trò đua, là thủ tục, lễ nghi mà thôi! Trước ngày khai mạc đại hội đảng, người dân đã biết chính xác ai vào ban chấp hành trung ương, ai vào bộ Chính trị, ai là Tổng bí thư! Kì họp đầu tiên Quốc hội khoá mới bầu các vị trí lãnh đạo nhà nước chưa diễn ra, người dân đã biết tường tận những người sẽ trúng cử các vị trí đó! Vì thế, xem truyền hình đưa hình ảnh bầu cử ở Quốc hội, người dân đều hiểu rằng họ đang xem một vở diễn! Bao nhiêu thế hệ chiến đấu hi sinh, bao nhiêu xương máu đổ ra cho độc lập tự do. Đất nước hoàn toàn độc lập gần nửa thế kỉ rồi mà đến nay người dân Việt Nam vẫn phải cầm lá phiếu bầu hộ người khác, cầm lá phiếu bầu theo ý người khác! Và người được bầu ra bằng lá phiếu bầu hộ, bầu theo ý người khác ấy lại là đại biểu của mình! Cho đến nay nhân dân Việt Nam vẫn chưa được cầm lá phiếu trực tiếp bầu ra người lãnh đạo cao nhất của mình! Dân tộc Việt Nam đâu có đến nỗi ngu dốt hơn các dân tộc khác để đến nỗi không đáng được cầm lá phiếu bầu trực tiếp người lãnh đạo cao nhất của mình nhö các dân tộc khác! Sao số phận độc ác, nghiệt ngã với dân tộc Việt Nam đến vậy!

Nền dân chủ non trẻ đã bị giết chết từ cải cách ruộng đất năm 1954 -1955! Nhưng vẫn còn đấy khát vọng dân chủ của Hồ Chí Minh. Khát vọng ấy hiển hiện trong tên gọi nhà nước do Hồ Chí Minh khai sinh từ năm 1945, nước VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ. Nhưng từ năm 1976, tên đảng Lao động Việt Nam đã đổi thành đảng Cộng sản Việt Nam và tên nước VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đã đổi thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam rồi! Khát vọng Dân chủ thiết thực, cụ thể như không khí, như nắng trời bị vất bỏ để thay bằng khái niệm xã hội chủ nghĩa mơ hồ, không có thật và mô hình cuả khái niệm ấy đã thất bại thê thảm, đã bị loại bỏ trên phạm vi thế giới! Khát vọng của Hồ Chí Minh còn bị loại bỏ thì khát vọng của nhân dân nào có nghĩa lí gì!

Phạm Đình Trọng
© Thông Luận 2009

No comments: