Ngô Thế Vinh
Thứ Bảy, ngày 11 tháng 4 năm 2015
Gửi Nguyễn
Trùng Khánh
Thế rồi, cái gì phải đến cũng đến. Ngày trở về Việt
Nam đã tới. Mấy tuần trước đó có vài người khuyên tôi nên ở lại. Nếu tôi muốn họ
sẽ giúp tôi trốn sang Canada. Tôi lưỡng lự mãi. Một bên là cám dỗ của một đời sống
mới, tự do và đầy đủ tiện nghi. Một bên là nỗi nhớ nhung, mái tóc bạc của bà mẹ
già, ngọn gió rì rào trong bụi tre ngà, một tô phở nóng, một cái gì rưng rức
khó tả. Và nhất là cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa bác sĩ Rieux và Rambert trong
La Peste của Camus : “Il n’y a pas de honte à préférer le bonheur, mais il peut
avoir de la honte à être heureux tout seul”. Tôn Kàn, Quan hai lang tây lính thủy
đánh bộ. (tr.94-95 TSYS 1993)
*
Tiếng leng keng của chiếc tàu
điện đang đổ dốc với chật ních du khách đứng lan cả ra thành tàu, trên một nền
xa mờ thấp thoáng chiếc cầu Golden Gate: cảnh ấy như biểu tượng của Cựu Kim Sơn
không đổi thay từ bao năm trên tấm Postcard gửi đi từ thành phố thanh lịch mỹ
miều này. Từ ngày hôm ấy, mười lăm năm sau, chẳng thể nghĩ rằng hơn một lần
Phan trở lại nơi đây. Cảm giác như không hề có thật.
Cuộc hành trình qua suốt
15 tiểu bang, trong một khoảng thời gian không dài, để thấy cái mông mênh của
tân lục địa và những cơ hội cho người lưu dân mới tới. Mỗi nơi là một quyến rũ
bào chữa bảo chàng không về. Cùng chuyến đi với Phan, có Chính. Không thắc mắc
vấn nạn, Chính đã có ý định ở lại ngay từ ngày còn bên nhà. Biết nhau từ hồi Đại
học xá Minh Mạng. Chính học giỏi nhưng chẳng may Tú tài chỉ đậu bình thay vì ưu
hạng nên đã một lần lỡ mộng du học. Sau đó Chính chọn Y khoa, là một
trong số những nội trú xuất sắc, được chọn vào Ban Giảng huấn và cho đi du học
Mỹ sau đó. Khi tới thăm Walter Reed, có dịp gặp lại Chính ở Hoa Thịnh Đốn giữa
mùa hoa anh đào nở. Chính cũng đang bay qua nhiều tiểu bang cho những cuộc
Interviews để được chọn vào chương trình Nội trú các bệnh viện. Câu chuyện
rồi cũng lại xoay quanh chuyện ở hay về. Hắn thuyết phục Phan bằng vô số
những "bởi vì", rằng không chấp nhận cộng sản phía bên kia,
cũng không thể chấp nhận thối nát của bên này, rằng sớm muộn Mỹ cũng sẽ bỏ rơi
miền Nam. Chính đã dứt khoát khôn ngoan xử dụng trí thông minh và cơ hội để chọn
một cuộc sống lưu dân êm ấm. Không phán đoán mà rất thản nhiên với chuyện lựa
chọn của Chính. Phan còn lý luận tốt cho bạn, rằng thông minh như nó lại có cơ
hội, biết đâu hắn chẳng trở thành một giáo sư y khoa lỗi lạc. Trường hợp Chính
cũng như nhiều nhân viên giảng huấn được gửi đi mà không trở về chỉ nằm
trong hiện tượng "brain drain" rất phổ quát của trí
thức năm châu. Người ta luôn luôn nhắc tới một bà mẹ Teresa yếu đuối tận
tụy hy sinh giúp những người bệnh nghèo ở Ấn nhưng chẳng ai chú ý tới sự hiện
diện của hàng chục ngàn bác sĩ Ấn độ không thiếu những thành phần lỗi lạc vẫn
tiếp tục hàng năm đổ thêm vào nước Mỹ. Chính cũng chỉ là một giọt rất nhỏ nhoi
giót thêm vào lượng nước của một chiếc ly chẳng bao giờ biết đầy.
Bước vào tuổi 30, chưa xa lâu
sân trường đại học nhưng những năm thực sự lăn lộn với những người lính chiến
trận, Phan thấy mình vĩnh viễn bước ra khỏi đời sống sinh viên tự bao giờ. Cảm
giác ấy thật rõ ràng khi vào ngày cuối tuần, Phan thường sang bên khu Đại
học Berkerley hiện đại và cổ kính, tìm sự hoà mình để càng thấy rõ là người đứng
bên lề. Khá đông sinh viên Việt ở nội trú trong Campus, đa số gốc con ông
cháu cha ở Sài Gòn nhưng phản chiến hơn cả sinh viên Mỹ. Chưa hề biết đồng quê
là gì nhưng lại biết mặc đồng phục bà ba đen khi lên sân khấu hát "Quảng
bình Quê ta ơi" và tích cực quyên tiền giúp Mặt trận Giải phóng.
Không, chẳng phải vì cái sân khấu ấy mà Phan có mặt; thực ra Phan có phần đời sống
riêng tư ở bên đó. Phương Nghi em gái một đồng nghiệp, thông minh ngây
thơ và mong manh trẻ đẹp, có thể chỉ là hình ảnh giấc mộng trăm năm của đời
chàng. Làm sao nỡ đem cái mong manh dễ vỡ ấy trở về để mà bắt chia xẻ với chàng
những giông bão và bất chắc. Lần gặp Phương Nghi tối qua rất khuya đi giữa các
đường phố nhỏ chỉ có những nam nữ sinh viên, chưa hề nói câu từ biệt nhưng Phan
cảm tưởng rất rõ đó là chuyến gặp nhau lần cuối cùng...
Golden Gate Bridge San Francisco, trong sương
mù
Buổi sáng nắng đẹp, cầu
Golden Gate rực rỡ ửng hồng, nơi mỏm sương mù gần bệnh viện Letterman vẫn như
còn sương khói ẩn hiện mờ mờ. Đứng trên chiếc du thuyền, phơi mình trong nắng
chan hòa nhưng vẫn thấm lạnh vì từng đợt từng đợt những cơn gió từ biển
thổi sâu vào trong vịnh. Không suy nghĩ, như một cử chỉ dứt khoát, Phan ném chiếc
máy ảnh, cả những cuộn phim rơi sâu xuống lòng vịnh. Hành động trong khoảnh khắc
tưởng như chẳng có ai có thể chứng kiến. Một bà Mỹ già, đôi mắt vui và rất sáng
đang tiến lại phía chàng. Hình như ông đã để rơi chiếc máy hình xuống biển.
Thay cho câu trả lời Phan nói rất bâng quơ. Gió thổi vào vịnh lớn quá thưa bà.
Một tay giữ cổ áo, bàn tay trắng đẹp đẽ kia xuôi vuốt mái tóc bạch kim lấp lánh
ánh nắng. Chả thế mà tôi cũng vừa bị thổi băng chiếc mũ lông xuống mặt nước. Rồi
bà lân la gợi chuyện. "Ông có phải từ Việt Nam không? Tôi cứ nghĩ ông là
người Việt Nam, tôi muốn hỏi tin tức và tình hình bên đó. Cứ theo tin truyền
hình CBS thì rối mù, chỉ thấy cảnh lính Mỹ châm lửa đốt nhà dân quê, lại tới vụ
thảm sát cả đàn bà trẻ em ở Mỹ Lai. Đến bây giờ tôi cũng chẳng hiểu tại sao thằng
con trai tôi phải có mặt bên đó". Thấy Phan không hào hứng bắt chuyện, người
đàn bà vẫn lại vui vẻ đi về phía những du khách đang tụ lại nơi mũi tàu. Tuổi
già, du lịch giúp bà trốn chạy ra khỏi căn nhà rộng trống trải của mình. Không
ngờ cái xứ sở Việt Nam nhỏ bé xa hơn nửa vòng trái đất ấy đã bắt đầu để hằn sâu
những dấu ấn trên lục địa này. Hôm sang Palo Alto tới thăm đại học Stanford,
như mọi campus khác trên khắp nước Mỹ đang hừng hực những phong trào Sit-in,
Teach-in phản chiến. Đốt cờ, đốt thẻ trưng binh, trốn ra nước
ngoài, đến vụ tự thiêu chết ở Hoa Thịnh Đốn, xã hội Mỹ đang phân
hóa đến cực điểm giữa cao độ của cuộc chiến tranh đã lan ra cả Đông Dương. Sau
Thích Quảng Đức, tự thiêu không còn là một hình thức phản đối bất bạo động của
Phật giáo mà đã trở thành phương thức đấu tranh của cả sinh viên Mỹ.
Phan được hướng dẫn dặn rất kỹ
không bao giờ mang quân phục hay có dấu hiệu của quân đội vì có thể bị hành hung
và cả đốt xe. Cũng ngày hôm đó một đám sinh viên Mỹ kéo tới nằm trên đường rầy
xe lửa chặn không cho các chuyến tàu chở vũ khí bom đạn tới cảng Oakland để
chuyển đưa sang Việt Nam. Vĩnh biệt Cựu Kim Sơn. Thanh thản nhẹ nhàng không lưu
luyến buồn vui, để rồi ngày mai chưa biết ra sao nhưng chàng sẽ trở về với bà mẹ
già, những người lính đồng đội và cánh đồng lúa thơm chín vàng của Việt Nam. Chẳng
phải Cựu Kim Sơn, Phan đã để trái tim mình ở Sài Gòn. Chàng mơ ước cho xứ
sở cái sung túc mà người Mỹ đang có nhưng bằng niềm tin tạo dựng với sức lao động
vốn siêng năng của người dân mình...
Những năm sau hồi hương, trở lại
cuộc sống của một bác sĩ quân y bình thường. Lương sĩ quan, không thể gọi là dư
giả, cuộc sống người thầy thuốc bận bịu với những người lính và gia đình họ
nhưng thanh thản. Vốn không nhiều lý luận, không mang nặng luân lý hy sinh của
các bà sơ, nhưng Phan nhạy cảm sống nhiều bằng trực giác. Gặp khó khăn, phải
làm việc trong những điều kiện thiếu thốn như một hoàn cảnh chung của cả nước,
Phan vẫn tìm cách giải quyết mà anh cho là tốt nhất có thể được khi anh xem mỗi
người bệnh ấy như phần ruột thịt thân yêu của gia đình mình. Không quá nhiều
tham vọng, lại không thích chánh trị mà anh cho là thời cơ và giả dối; bằng
những cố gắng bình thường mỗi ngày, Phan thấy mình có ích và nghĩ như vậy là hạnh
phúc. Những tháng ngày sống ở Mỹ như một thế giới rất xa xôi với hiện tại của
chàng...
Ngày hôm đó đang nghỉ
phép giữa một Sài Gòn đầy xao xuyến, về chuyện ở đi, Phan lại có một quyết định,
có thể gọi là lầm lẫn được không, lần thứ hai thay đổi cả hướng đi của đời
mình. Chiếc máy ảnh và cả cuộn phim nằm sâu ở một nơi nào đó trong lòng vịnh Cựu
Kim Sơn, vẫn ám ảnh Phan như một lời nguyền ngăn chàng không thể trở lại nơi ấy
lần thứ hai. Khi mà cứ điểm cuối cùng là Sài Gòn cũng không còn hy vọng đứng vững,
thì người ta bắt đầu chạy tứ tán ra các vùng biển, nhào vào các hải cảng và phi
trường để tìm phương tiện thoát thân. Bọn du kích đã ra mặt kiểm soát các trục
lộ ra Vũng Tàu, xuống Rạch Giá. Từ cảng Sài Gòn đa số tàu Hải quân đã theo đội
hình tác chiến bắn phá dữ dội dọc hai bên sông trên đường ra biển từ hai hôm
trước. Còn lại phi trường Tân Sơn Nhất, tuy lác đác bị pháo kích nhưng vẫn còn
những chuyến bay lên xuống. Chuyến bay dân sự cuối cùng đã phải trở lại Hồng
Kông. Số máy bay thưa dần nhưng lượng người đổ vào trong phi trường càng đông
cho dù đám quân cảnh ra sức mạnh tay ngăn cản. Bây giờ chỉ những chuyến xe có
người hướng dẫn với Manifest của chuyến bay mới được phép vào cổng phi
trường. Đây là cơ hội cho những nhân viên trung cấp của toà Đại sứ Mỹ qua trung
gian của các bà vợ Việt tung hoành. Cũng chẳng cần có liên hệ mật thiết với
chánh phủ Hoa Kỳ hay toà Đại sứ Mỹ, nếu có tiền đô la hay vàng, là có thể thêm
tên vào danh sách hành khách cho một chuyến bay nào đó sắp tới. Xứ sở này đã
hơn một lần được báo Mỹ mệnh danh có một nền văn hóa tham nhũng/ culture
of corruption, đã rất sớm dạy cho những người Mỹ cách tham nhũng, kể
cả những vụ đổ hàng PX lậu từ Tân Cảng tới các bãi rác, đủ mọi thứ hàng gì, kể
cả súng. Và bây giờ ở trận chiến tàn, trong chuyến tàu vét, họ đang thản nhiên
ra giá cho những tấm vé nếu chưa phải để tới thiên đường thì ít ra cũng thoát
ra khỏi quần đảo ngục tù hay cả cái chết.
Phan với vợ và con nhỏ,
cùng bốn năm gia đình khác, mỗi người với túi hành lý nhẹ, ngồi kín chiếc
xe van chờ bốc họ nơi sân sau của một khách sạn gần trung tâm thành phố. Mỗi
người bước lên xe là một trao đổi sòng phẳng. Không biết bằng cách nào, có lẽ
qua giúp đỡ của gia đình, vợ Phan đã đưa được tên cả ba người vào danh sách.
Người đàn bà quá hiểu chồng, sống bằng trực giác phụ nữ, nàng tìm cách chuyển
con sang tay Phan. Như vậy nàng có thể yên tâm cho tới khi vào được bên
trong của phi trường. Dù lẫn cả trẻ con nhưng sao không khí thật nặng nề và im
lặng. Chiếc xe lầm lũi chạy nhanh trên các đường phố nhao nhác. Đám người trên
hè phố tụ tập bàn tán, chỉ chỏ nhìn dõi theo chiếc xe mà chắc họ cũng biết là
đang hướng về phía phi cảng.
Xe tới gần Bộ Tổng Tham mưu, vẫn
còn rải rác những người lính đứng canh giữ. Canh giữ cho một tổng hành
dinh trống trơn. Không ra khỏi cổng, nhưng các ông tướng còn lại đã thoát khỏi
bộ Tổng tham mưu bằng những chiếc trực thăng cuối cùng. Con bé lại làm xấu, nước
đái thơm ấm thấm xuống cả đùi chàng. Chuyền lại đứa con sang tay vợ, như
có linh tính con bé nhất định ôm chặt lấy bố, oà khóc khi lọt sang vòng
tay mẹ nó. Khi chiếc xe vừa dừng lại nơi trạm kiểm soát, do một quyết định rất
nhanh, không biết có tự bao giờ, Phan mở cửa bước xuống, dặn vói vợ. Em và con
đi trước, rồi anh sẽ gặp hai mẹ con. Phan tránh không nhìn thẳng vào khuôn mặt
vợ, vì biết mình chẳng thể cứng lòng quyết định dứt khoát về một cuộc chia ly
như vậy...
Gần trưa ngày 30 tháng 4. Tướng
Big Minh qua đài phát thanh kêu gọi buông súng. Hoang mang, ngỡ ngàng, rồi bàng
hoàng đau đớn. Lệnh đầu hàng là "phát súng thi ân" cho những đơn vị
quyết tâm tử thủ cho tới viên đạn cuối cùng... Trên đường Công Lý, từ hướng phi
trường Tân Sơn Nhất, không biết từ bao giờ, chuẩn uý Ngộ và tiểu đội của anh vẫn
trật tự lầm lũi theo hàng một tiến về hướng Dinh Độc Lập. Trước đó nhiều ngày
đơn vị anh và các tiểu đoàn Nhảy Dù đã bám trụ ngày đêm từ Ngã tư Bà Quẹo tới cổng
Phi Long, như nút chặn vững chãi cho cửa ngõ đi vào Sài Gòn và cả bảo vệ vòng
đai phi trường. Người chuẩn úy da sạm đen, gương mặt xương gầy với đôi mắt rất
sáng nhưng buồn. Súng lục trễ bên hông, trên tay một cây gậy nhỏ, dẫn đầu tiểu
đội 12 nguời lính da cũng đen sạm trong những bộ rằn ri lấm bụi bạc sờn. Không
chút ảnh hưởng nao núng bởi những khuôn mặt dân chúng hoảng loạn giữa một thành
phố xao xác, họ vẫn đều bước theo chân người chuẩn úy, với ba lô trên vai và
mũi súng chúc xuống. Có điều gì đó rất thiết thân và thiêng liêng ràng buộc
giúp họ thắng mọi sợ hãi trong nỗi sống chết không rời. Cuộc diễn hành kỳ lạ với
không trống chiêng không cờ xí, hoàn toàn vắng mặt hàng Tướng lãnh đẹp đẽ trong
nhung phục với ngực đầy huy chương trên kỳ đài, mà chỉ có những sĩ quan cấp thấp
như chuẩn úy Ngộ và các đồng đội vô danh của anh vẫn can đảm bình thản tới gần
tuyến lửa, đi tới trong kỷ luật đội ngũ, diễn qua rải rác những đám đông dân
chúng lớn nhỏ tụ tập nhao nhác trên các con phố của một Sài Gòn đang chết dần.
Đã bao năm rồi, biết bao nhiêu
nước chảy qua cầu, có quá nhiều điều để không thể nào quên. Ngay trong tù đày,
những hình ảnh hồi tưởng chưa bao giờ là cuộc duyệt binh vĩ đại đày màu sắc
và ồn ào của ngày Quân Lực; mà luôn luôn là những bước chân diễn hành thầm lặng
của một tiểu đội lính vô danh ở ngày giờ cuối cùng của một thành phố trước khi
mất tên Sài Gòn. Người chuẩn úy ấy bây giờ ở đâu, trong một trại cải tạo nào,
còn sống hay đã chết, số phận những người lính can đảm kỷ luật tới giờ phút
chót ấy bây giờ ra sao, cũng không ai được biết. Liệu có thêm được một giòng chữ
nào giữa những trang quân sử viết dở dang để nói về cuộc diễn binh kỳ lạ
cấp tiểu đội mang biểu tượng hào hùng của quân lực ở ngày giờ cuối cùng trước
khi cả toàn quân tan hàng rã ngũ...
Ở cái tuổi gần 50 không còn trẻ
nữa, mái tóc đã pha chút điểm sương, khi người thầy thuốc là con bệnh, lần thứ
hai trở lại lục địa cơ hội này, lẫn trong đám đông phức tạp của những người tỵ
nạn mà Phan tưởng rằng đã có thể tách ra từ bao lâu rồi. Được các nhân viên xã
hội dắt từ sân bay tới trạm tiếp đón, đó là một hangar trống
trải nhưng rộng mênh mông ngay trong phi trường, với trang trí chỉ là một
lá cờ vĩ đại ba màu xanh trắng đỏ sặc sỡ những sao và sọc. Rồi cũng như mọi người,
Phan chờ cho được kêu tên để đứng vào hàng làm thủ tục giấy tờ, để được phát
chiếc áo ấm cùng một màu nâu đồng phục, để được hướng dẫn bước đầu hội nhập vào
xã hội Mỹ. Người đàn ông cán sự xã hội rất nhanh nhẹn và hoạt bát, thao
thao bất tuyệt với giọng Bắc nhưng vẫn là âm gốc Huế. Anh dí dỏm kết luận bài học
công dân đầu tiên: "Xin nhớ cho đây không còn là ở Việt Nam nữa, quý vị
bây giờ đang ở trên đất Hoa Kỳ, đã có hoàn toàn tự do, kể cả tự do phê bình tổng
thống hay quốc hội, nhưng - anh ta ngưng lại một chút như để tự tán thưởng
bằng một nụ cười riêng thú vị: nhưng quý vị sẽ không có tự do trốn thuế.
Trốn thuế ở Mỹ thì chỉ có ở tù và được coi là tội nặng nhất..."
Phan vẫn còn ngạc nhiên không
hiểu lý do nào vấn đề đóng thuế lại được quan tâm đến như vậy ở đám người tỵ nạn
mới tới mà nguồn sống lợi tức trước mắt chỉ là đồng tiền "oen phe".
Quanh Phan, mấy chú ba gốc Chợ Lớn có vẻ rất tập trung và nghiêm túc tiếp thu
bài lên lớp đầu tiên ấy. Mũi dao trên trái tim, đó là Chữ Nhẫn mà Phan học được
ở những tháng ngày dài đẵng vô ích và lãng phí của tù đày. Lúc này, không có chỗ
cho cảm giác mỏi mệt, không buồn bã, không cả dư vị đắng cay, như một thói quen
vô cớ Phan tự mỉm cười và hơn bao giờ hết anh hiểu rất rõ vị trí của mình khi
chưa có được "một tấm căn cước" để bước vào cuộc sống
mới. Khoảng cách mười lăm năm ấy bỗng dưng bị xóa nhoà. Phải chăng có một ràng
buộc định mệnh, Phan đã trở lại Cựu Kim Sơn như chưa hề nói một câu giã biệt.
NGÔ THẾ VINH
Los Angeles 1984
[Mặt Trận Ở Sài Gòn, Nxb Văn Nghệ 1996]
No comments:
Post a Comment