Wednesday, January 11, 2012

CHUYỆN CỦA THỜI MẤT NƯỚC & CHUYỆN CỦA THỜI CƯỚP ĐƯỢC CHÍNH QUYỀN (J.B Nguyễn Hữu Vinh)



J.B. Nguyễn Hữu Vinh
10/01/2012


“Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.
Cai lệ tát vào mặt chị một cái bốp, rồi hắn cứ nhẩy vào cạnh anh Dậu, chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn giúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.
Người nhà Lý trưởng sấn sổ bước đến, hươ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chành ‘hầu cận ông Lý’ yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”.


Đoạn văn trên trong tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố tôi đọc đã ngót 40 năm. Khi đọc những đoạn văn trên lần đầu tôi không hiểu vì sao một chị Dậu hiền lành như vậy lại dám đánh lại cả đám người nhà Lý trưởng? Thế rồi đến khi đi học, thầy giáo mới dạy cho tôi hiểu rằng: “Theo đúng nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, ở đâu có áp bức, ở đó sẽ có đấu tranh. Dòng văn học hiện thực phê phán đã vẽ lại cho chúng ta bức tranh sinh động của nông thôn Việt Nam thời nô lệ thực dân Pháp, thời mất nước. Nó khác xa với cuộc sống mới, nền văn hóa mới, con người mới Việt Nam làm chủ đất nước ngày nay”.
Cứ tưởng cái nổi khùng, cái vùng lên đấu tranh của người nông dân như chị Dậu chỉ có cách đây 75 năm trong thời mất nước, thời nô lệ vì ở đó có áp bức nên có đấu tranh mà thôi.

Nhưng mấy hôm nay, báo chí nói về câu chuyện Đoàn Văn Vươn, một cựu quân nhân, kỹ sư nông lâm ở xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng, T.P Hải Phòng vác mìn, súng chống lại cả trăm công an bộ đội thì xem ra anh Vươn này lại còn “khùng” hơn cả chị Dậu ngày xưa nhiều lần.
Cái khác nhau nhiều lần là ở chỗ, ngày xưa chị Dậu chỉ vì không có đủ tiền nộp sưu nên đã phải bán con, bán chó. Ngày nay anh Vươn dù có nộp thuế đầy đủ vẫn chưa yên và việc mất trắng toàn bộ cơi ngơi là điều rất dễ dàng chỉ bởi một tờ lệnh “thu hồi”.

Ngày xưa, chị Dậu thiếu tiền sưu, tiền thuế bán con vẫn còn ngôi nhà rách để ở và để bị dọa “tao dỡ nhà nhà mày đi” còn anh Vươn hôm nay, chẳng cần dọa dỡ nhà mà là “thu hồi” cả mấy chục ha đất anh bỏ công sức tiền của tạo nên. Cái cơ ngơi đó anh tạo ra bằng sức lực, mồ hôi, nước mắt của mình, còn có cả máu thịt của đứa con mình ở đó để quai đê lấn biển tạo nên khu đất ròng rã ngót 30 năm trời nay bị tước đoạt.

Ngày xưa, bán ổ chó, chị Dậu được một đồng bạc trong số hai đồng rưỡi tiền sưu. Nếu chị có ba ổ chó, thì chắc chẳng phải khùng lên mà đánh lại đám người nhà Lý Trưởng. Ngày nay, anh Vươn bỏ gần ba chục năm trời mới tạo được một cơ ngơi và bỗng nhiên không cánh mà bay bởi một tờ lệnh “thu hồi”.

Ngày xưa, việc thu tiền nộp sưu của chị Dậu theo luật thuế nhà nước thực thi hàng năm công bố rõ ràng cả làng cả nước biết. Việc “thu hồi” đất của anh Vươn hôm nay để làm gì thì khi trả lời câu hỏi của báo Pháp luật TPHCM, rằng thu hồi khu đất này để giao cho ai, ông Lê Văn Hiền – Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng nói: “Việc này không thể công khai”?

Gia đình Chị Dậu ngày xưa làm ăn, sinh sống, đóng sưu đóng thuế cho nhà nước theo quy định về thuế đinh. Anh Vươn ngày nay được thuê lại đất của mình bỏ công quai đê, lấn biển mà có.

Việc thu sưu, thuế ngày xưa có định kỳ hàng năm “theo quy định của pháp luật”, cứ đến kỳ thu thuế thì chuẩn bị tiền để đóng sưu. Việc “thu hồi” đất của anh Vươn hôm nay chẳng theo quy định pháp luật nào khi thời hạn hợp đồng thuê khu đất do chính anh tạo ra còn hai năm nữa mới đến. Nhưng bỗng chốc có lệnh thu hồi.

Chị Dậu phải nộp thuế đinh cho em chồng đã chết, đã khiếu nại và được giải thích vì chú em chồng chết dở năm Tây nên vẫn còn sổ đinh, đó là do chị Dậu sống trong thời phong kiến, nô lệ, người dân chịu áp bức vô lý. Còn anh Vươn hôm nay được hạnh phúc sống trong một đất nước có “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, … khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản” (Giáo sư tiến sĩ – Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan). Ở đó, anh đã khiếu nại, kiện tụng theo quy định của pháp luật hẳn hoi, nhưng vẫn cứ có lệnh cưỡng chế và công an, bộ đội, chó nghiệp vụ và súng ống đến lấy đất, lấy nhà của anh như thường.

Thời chị Dậu, với những khẩu hiệu như: “Người cày có ruộng”, “Lấy ruộng đất địa chủ, chia cho dân nghèo”… như cương lĩnh của những người Cộng sản những ngày đầu: “Đối với kháng chiến, nông dân đóng góp nhiều nhất, hy sinh nhiều nhất. Nhưng nông dân phần nhiều lại không có, hoặc có rất ít ruộng đất. Nông dân làm lụng vất vả quanh năm mà vẫn không được no cơm, ấm áo. Tình hình ấy rất không hợp lý, không công bằng… Chỉ có thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, làm cho hàng chục triệu nông dân hăng hái tham gia kháng chiến, thì kháng chiến mới hoàn toàn thắng lợi, cách mạng chắc chắn thành công”. (Trích Cương lĩnh của Đảng LĐVN tháng 11/1953). Những lời lẽ ngon ngọt này đã làm hàng chục triệu dân nghèo Việt Nam lao vào cuộc cướp ruộng đất, tài sản của địa chủ và tạo nên cơn biến động sâu sắc về đạo đức và đời sống trong xã hội Việt Nam.

Và với những người cộng sản, thì sau khi cướp được chính quyền tháng 8/1945, “cuộc cách mạng đã thành công”. Tưởng rằng, từ đó, việc cướp đất đai đã kết thúc và từ đây, dân nghèo được làm giàu trên phần đất của mình.

Thế nhưng, khi những người cộng sản đã nắm chắc được quyền lực trong tay, thì đất nước lại chuyển qua giai đoạn mới, ruộng đất lại được tập trung vào tay những kẻ lắm tiền, nhiều của và nắm quyền lực. Người nông dân một nắng hai sương quanh năm cắm mặt trên đồng ruộng để kiếm sống từ bao đời nay lần lượt bị biến thành thất nghiệp, trở thành lưu vong ngay trên chính quê hương mình. Dần dần họ trở lại kiếp nô lệ trên đất nước bằng những cảnh đời đi làm thuê, kiếm sống, rơi vào tệ nạn xã hội…

Những người như anh Vươn, tin tưởng ở chính sách và các phong trào như “nông dân thi đua làm giàu, nông dân thi đua kinh doanh sản xuất giỏi”… đã không tiếc công sức, tiền của để khai hoang, lấn biển tạo nên cơ nghiệp.
Bỗng chốc một tờ quyết định biến những thứ anh bỏ công sức, xương máu và lòng tin cả một đời trai trẻ của mình và gia đình thành công cốc.

Trong hoàn cảnh như vậy, anh không “khùng” mới là chuyện lạ.

Không bàn đến cách hành động khi nổi khùng của anh Vươn giải quyết nỗi bức xúc của mình. Bởi con người khi đã khùng lên, khi bị đẩy vào bước đường cùng, thì người ta có thể làm mọi việc theo đúng nguyên lý cha ông đã dạy “Chó cùng cắn giậu” là lẽ thường. Người đàn bà mấy con như chị Dậu vốn nhẫn nhịn là vậy còn phải vùng lên, thì việc anh Vươn vùng lên cũng chẳng có gì là lạ.

“Tội ngu”?

Mấy ngày qua, khắp các quán bia, quán nước vỉa hè, quán cóc Hà Nội câu chuyện nóng bỏng của người dân là những chuyện như anh Vươn dùng mìn, súng chống lại cưỡng chế, chuyện nhà riêng Giám đốc Công an Thái Nguyên bị nổ mìn, chuyện nhà riêng của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) bị trộm lấy đi 1 tỷ đồng, chuyện trộm cắp bây giờ cứ nhằm nhà quan chức mà trộm…

Trong một quán thịt chó chiều đông Hà Nội, một người đàn ông béo tốt, cái bụng to kềnh đang tu nốt chén rượu, dùng tay quẹt ngang mồm và nói lớn: “Ôi dào, cái thằng đó nó mang tội ngu, tội thừa lòng tin, học hành thành kỹ sư từ hồi đó mà lại chạy về làm nông dân khai hoang là ngu rồi. Cứ như tao chẳng học hành gì nhiều, kiếm cái bằng dởm dởm, làm quan tao mua cả chục cái đầm của thằng đó. Nhưng sao công an đông thế mà giữa cái chòi nó chạy thoát được nhỉ?”.

Nhiều cặp mắt khác đổ dồn vào người đàn ông này, nhưng ngẫm lại anh ta đang có lý. Kể từ khi “cả nước thi đua tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội theo lời bác dạy”, xã hội Viêt Nam ít có người nào như anh chàng Vươn này.

Lẽ ra, Đoàn Văn Vươn sẽ không lâm vào tình cảnh hiện nay, bị khởi tố tội “giết người”, bị thu hồi đất và gia đình tan nát sau đó nếu anh ta không làm những việc khác người là “Mặc dù đã nhanh chóng trang bị kiến thức bằng một tấm bằng đại học Nông lâm, nhưng anh lại từ chối làm cán bộ Nhà nước. Từ bỏ mộng quan trường ở thời điểm đó là một quyết định “lạ đời”, nhất là khi có bằng cấp trong tay”. – Một tờ báo đã viết về anh như thế – Tất nhiên là ở thời điểm hiện nay, khi anh đã bị khởi tố thì ngay cả tờ báo này cũng đã thể hiện bản lĩnh của mình bằng cách xóa bài viết đó đi.

Nếu như, anh cũng như nhiều và rất nhiều người trong hệ thống công chức, trong bộ máy nhà nước đừng việc gì phải quai đê lấn biển, đừng bỏ công sức nhọc nhằn mấy chục năm làm con dã tràng xe cát. Anh chỉ việc vào nhà nước, cố gắng “phấn đấu” làm một chức quan nào đó có chút quyền lực, thì chỉ cần một tờ giấy A4 với chiếc dấu đỏ trong tay, anh có thể có đủ khả năng ra lệnh “thu hồi” cả trăm ha đất mà chẳng cần đào một xẻng đất, bê một hòn đá. Anh cũng rất có khả năng làm được như vậy vì anh xuất thân của anh với cái lý lịch đẹp đẽ: “một cựu quân nhân, kỹ sư nông lâm, sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng” chứ không phải thành phần địa chủ, phản động, công giáo…

Còn nếu anh không thể leo lên đến chức quyền có thể đóng dấu ra lệnh thu hồi, thì chí ít anh cũng kiếm được một chân như quan chức nho nhỏ ngay ở Hải Phòng như các quan chức ăn đất ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Chẳng cần gì nhọc công lao động, chiến đấu với biển cả và đánh cược tính mạng của mình, con cái và để gia đình phải vay mượn lâm cảnh nợ nần mà vẫn đất, nhà đầy đủ, bạc tiền không thiếu.

Hoặc ít nhất, là một kỹ sư nông lâm, anh cũng có thể có một chân kiểm lâm, có thể thông đồng với lâm tặc, phá rừng kiếm tiền làm giàu…

Nói tóm lại, anh chàng Vươn này vướng “tội ngu, tội thừa lòng tin” nên mới gây nên cơ sự như thế. Cả xã hội có ít người chăm chỉ như anh, lo lắng làm giàu bằng sức lực nhỏ bé của mình như anh, khai phá đất hoang, lấn biển làm giàu như anh, nên anh mới lâm cơ sự này.

Trong một nồi canh, nếu làm một con sâu thì con sâu được vứt bỏ. Nhưng trong một nồi sâu, làm một lá rau mới là điều lạ, là khác người, là ngu(!).

Chính vì anh “khác người”, nên mới về làm anh nông dân, xung phong vào giai cấp liên minh của giai cấp tiên phong dẫn đến việc biến bãi biển hoang hóa, lấn biển thành cơ ngơi đẹp đẽ với mấy chục ha đất đầm, vườn thành miếng mồi ngon ai nhìn cũng thèm. Nếu anh cứ để vậy, biển vẫn hoang hóa, vẫn là nước biển và sình lầy, thì ai thèm thu hồi làm gì.

Bởi vì việc thu hồi cũng phải tùy nơi, tùy chỗ. Chẳng hạn khu đất Cồn Dầu – Đà Nẵng dân ở bao đời nay, nhà cửa, mồ mả từ cả trăm năm, bỗng dưng bị “thu hồi” và đền bù 350 ngàn đồng/m2 để rồi ngay sau khi chưa thu hồi xong, đã có người rao bán trên mạng với giá 5 triệu đến 12 triệu đồng/m2. Thu hồi có lợi như vậy sao ai chẳng khoái thu hồi? Chỉ có điều, bây giờ người ta ngang nhiên thu hồi đất đai, máu xương của người khác như chỗ không người.

Mặt khác, cũng vì anh được sống trong chế độ ta tươi đẹp có “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, … khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”- nên khi bị “thu hồi” bất công, anh mới nổi khùng, và vì nổi khùng, anh lâm vào vòng lao lý. Nếu anh sống hẳn trong chế độ tư bản thối nát, người bóc lột người và bản chất dân chủ thấp hơn vạn lần của ta, thì có lẽ anh phải chấp nhận việc cướp không tài sản, đất đai của mình mà không một lời oán thán.

Trong giai đoạn hiện nay, việc “thu hồi” đất đai của nhân dân như một bệnh dịch lan tràn từ Nam ra Bắc, từ xuôi lên ngược, dân khiếu kiện khắp nơi, lòng dân đầy oán thán, hàng đoàn hàng lũ người đưa nhau đi khiếu kiện… thì việc “nổi khùng ” càng ngày càng nhiều là điều dễ hiểu. Và khi dân nổi khùng với hai bàn tay không, thì sẽ nhanh chóng bị “xử lý nghiêm minh”.

Đoạn văn sau đây của Ngô Tất Tố dù đã 75 năm qua vẫn như còn mới: “Anh Dậu sợ quá muốn dạy can vợ, nhưng mệt đắm ngồi lên lại nằm xuống, vừa run vừa rên:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù phải tội.
Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận:
- Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”

Vâng, đến nước như anh chàng Vươn, thì chỉ còn hai cách chọn, hoặc như anh Dậu là cứ để người ta đánh mình, hoặc một cách thứ hai là cách của chị Dậu vì “ Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.

Và anh Vươn đã chọn cách thứ hai.

Hà Nội, ngày 9/1/2012
J.B. Nguyễn Hữu Vinh

Phụ lục:

Đoàn Văn Vươn – Kỳ tài đất Tiên Lãng và cuộc chinh phục lời nguyền của biển (Quang Trung)

Đôi lời: Cái gì đã đẩy một cựu quân nhân, kỹ sư nông lâm, từ “gia đình có truyền thống cách mạng”, ước mơ vươn ra biển lớn lại trở thành kẻ “giết người” mù quáng để bảo vệ cái ước mơ mà mình đã bỏ bao mồ hôi công sức đó?
Sẽ có rất nhiều câu trả lời, lúc này và cho tới cả mai sau, về hiện tượng điển hình cho một kết cục mà bắt đầu là một “cuộc cách mạng long trời lở đất” rồi dẫn tới những cuộc … mất đất, mất mạng, mất hết niềm tin.

Đã biết về anh cách đây mấy năm, biết về cuộc đời đầy sóng gió và bão táp, biết cả những nỗi đau và day dứt hằn sâu tâm can con người anh, nhưng tôi chưa có dịp tìm hiểu sâu về cuộc đời nhiều bi hùng ấy. Trung tuần tháng 7 vừa qua, tôi lại có dịp về Tiên Lãng, đúng vào ngày có dự báo cơn bão Conson chuẩn bị đổ bộ vào nước ta, để ngồi với anh, nghe anh kể về cuộc chinh phục lời nguyền của biển…

Chinh phục “thần” biển

Câu tôi nói vui với anh, ngay khi biết về những việc anh đã làm, là cái tên anh nó vận vào đời anh nhiều quá. Anh tên là Đoàn Văn Vươn, sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng, T.P Hải Phòng. Dường như, khi cha mẹ sinh ra anh đã có dự cảm về cuộc đời đứa con mình nên đã đặt cho anh cái tên lạ lạ: Vươn. Cái tên như gửi gắm một hi vọng: anh sẽ vươn ra biển khơi, chinh phục cuộc đời, chinh phục biển cả để thoả lòng mong mỏi của người cha già với nguyện ước “con hơn cha, nhà có phúc”.

Đối với người dân vùng biển, biển luôn là người mẹ nuôi dưỡng những khát khao. Biển cũng là nguồn tài nguyên thuỷ hải sản vô giá và cũng là nỗi lo sợ, ám ảnh trước những cơn bão tố. Một trận cuồng phong có thể san bằng tất cả! Hơn ai hết, Đoàn Văn Vươn, người con của một vùng biển nghèo hiểu rõ điều đó. Ở tuổi hừng hực chí trai, sức trẻ, anh đã đầu quân đi bộ đội. Môi trường quân đội đã thêm một lần nữa rèn giũa ý chí, nghị lực cho anh. Rời quân ngũ năm 1986, trở về địa phương, anh chỉ có một khát khao duy nhất, chinh phục chính miền đất quê mình để làm kinh tế. Để có cái ăn, để có cái mặc. Mặc dù đã nhanh chóng trang bị kiến thức bằng một tấm bằng đại học Nông lâm, nhưng anh lại từ chối làm cán bộ Nhà nước. Từ bỏ mộng quan trường ở thời điểm đó là một quyết định “lạ đời”, nhất là khi có bằng cấp trong tay. Đoàn Văn Vươn đã quyết làm một người nông dân thực thụ. Quyết làm một điều mà trước anh không ai dám nghĩ đến, chứ đừng nói là bắt tay làm.

Bỏ bằng đại học đi làm nông dân

Tiên Lãng có một địa danh gắn với sự dữ dội của biển và nghèo khó của con người: cống Rộc. Mỗi mùa mưa bão đến, sóng biển, gió biển ào ạt ngập lụt, đói kém thì sự cùng cực mà người dân nơi đây phải gánh chịu, phải chống đỡ trong kiệt quệ tinh thần, vật chất không gì diễn tả nổi. Trên một con đê trải dài ngút ngát, cống Rộc như một hiệp sỹ dũng cảm đối đầu với biển cả để bao bọc, chở che cho những người dân trót gắn đời mình vào phận biển. Nhưng sức mạnh khủng khiếp của thiên tai đã không biết bao lần bắt cống Rộc phải đầu hàng và cũng vì thế nó thành nỗi khiếp sợ mỗi khi bão biển, nước biển vượt qua phòng tuyến này. Lúc đó chỉ là mênh mông trời nước. Lòng người cũng dậy sóng theo từng con nước lớn.

Hiểu rõ điều đó, Đoàn Văn Vươn đã quyết làm một điều gần như không tưởng: chinh phục “thần” biển. Chinh phục cả nỗi khát khao không chịu đầu hàng số phận. Thế là từ cuối những năm 80, những viên đá đầu tiên được chàng trai Đoàn Văn Vươn mang đến trong cuộc trường chinh lấn biển, tạo hành lang bảo vệ để lấy diện tích khai thác nuôi trồng thuỷ sản. Chuyện đời, đâu dễ như nói.

Bằng cách nào để khuất phục biển? Đó là câu hỏi ngày đêm Đoàn Văn Vươn trăn trở. Anh đã bỏ hàng tháng trời để ăn biển, nằm biển, lắng nghe từng cơn sóng thuỷ triều lên, xuống, mải miết tìm đáp án. Không có sách vở nào dạy, không có kinh nghiệm tiền lệ nào để học theo. Chỉ có một điều đang dần lớn lên – Đó là ý chí. Bão lòng người đang dần lớn hơn bão biển. Nó dường như muốn phá tung khao khát đang bùng cháy trong anh. Đoàn Văn Vươn đối diện với hàng ngàn thách thức, suy tư. Khi đã hiểu rõ quy luật con nước, hiểu rõ thời điểm nào cần “ra tay” để bắt đầu, thì anh vấp phải không ít sự dèm pha.

Cái sự dám khuất phục “thần” biển của Đoàn Văn Vươn chả hiểu thế nào lại lan ra khắp vùng, lan ra cả các địa phương khác, trong đó có vùng đất Tiền Hải của tỉnh Thái Bình. Anh kể: “Lúc đó có một người chuyên khai thác các vùng đất ven biển của huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình, để làm ăn. Khi biết tôi có ý định chinh phục vùng biển quê Tiên Lãng này, người ấy đã thông qua nhiều người thách thức tôi, rằng nếu tôi làm được, sẽ sẵn sàng mất cho tôi một chiếc xe máy đẹp. Người ấy mỉa mai, diễu cợt việc làm của tôi. Người vùng biển, nói là làm, người kia thách thức tôi chắc vì nghĩ tôi không làm nổi. Mặt khác, tôi hiểu đây còn là một sự thách đấu. Lúc đó, một chiếc xe máy đẹp có thể ví như con xe Camry bây giờ. Người thách đấu tôi không sợ, chỉ sợ Trời thách đố tôi thôi”, anh nói, mắt nhìn xa xăm. “Đã thế tôi càng quyết tâm làm”.

Đã có người bảo Vươn dại như con vích. Một con vật kỳ lạ của biển, là hay lôi ngược lại người ta. Nếu muốn bắt nó vào bờ, thì thay vì lôi nó vào bờ, người ta lôi nó ra… biển để nó đi theo chiều ngược lại. Cũng có người bạo mồm nói, thằng Vươn dám đi khuất phục “thần” biển là việc làm mạo hiểm.

“Vui sao nước mắt lại trào”

Nhiều năm trời, người dân nơi đây chứng kiến Đoàn Văn Vươn cùng anh em họ hàng quần quật lao vào cuộc trường chinh lấn biển. Có khi hôm trước làm, hôm sau sóng biển san thành bình địa. Hôm sau nữa lại làm, sóng biển lại biến sức người thành bong bóng. Có khi nhìn thấy ít đất, đá còn bám trụ sau con sóng mà rơi nước mắt, Vươn đã tự đặt câu hỏi, thế này thì đến bao giờ? Hay là mình thất bại? Cứ thế, cứ thế, từng hạt đất bám trụ, từng viên đá trơ gan bám trụ là lại thêm một tia hi vọng. Một ngày trôi qua là khắc khoải chờ đợi một ngày mới, công sức bỏ ra không biết bao nhiêu mà kể hết.

Nói với chúng tôi, anh bồi hồi nhớ lại: “Nếu tính sơ sơ, đã có trên 20.000 m3 đất, đá được đưa đến đây, trên vùng đất ven biển Tiên Lãng mà các anh đang đứng trong cuộc chinh phục biển cả của tôi. Nói ra chính tôi cũng ngỡ ngàng, tôi làm như mê, như say. Bởi chỉ còn phía trước để tiến, chỉ còn biển để vươn ra. Tôi không có đường lùi, bởi thành công chỉ có cách duy nhất với tôi, đó là vươn ra biển”.

Ngoài hàng chục ngàn m3 đất, đá đó, là biết bao sức người, sức của. Vừa lấn biển, chỉnh trị dòng nước triều dâng, vừa trồng cây bám đất, đã biết bao lần cây trồng lên lại bị biển nuốt trôi. Mất sạch. Tiếp tục trồng lại từ đầu, hàng ngàn cây bần, cây vẹt đã theo con sóng lẫn vào trùng khơi. Tiếp đó, không chỉ đất đá, hàng trăm tấn xi măng được đưa vào để tiếp thêm sức gắn kết thô mộc của đất và đá… Cuối cùng Trời không phụ lòng người, dòng chảy của biển ngoài đê biển cống Rộc đã bị khuất phục mà chuyển hướng. Phía chân đê có chỗ sâu gần 2 m, cốt âm, đã được nâng lên cốt dương. Từ đó hàng chục héc ta đất bãi bồi ven biển hình thành. Cũng theo đó, gần 70 ha rừng vẹt ngăn sóng biển đã bám trụ thành công. Không có tiếng vỗ tay.
Ngày nhìn thấy thành công trong mắt, trong lòng, thoả khát khao của ước mơ ngàn đời “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”, lại là ngày nước mắt ầng ậc tuôn trào. Một nỗi đau câm nín, ngày đón nhận sự thành công mà có người đã nói là không tưởng đó, Đoàn Văn Vươn đã một mình đi lang thang ven biển. Đi trên chính phần đất bồi ven biển mà công sức anh đã tạo nên. Một mình vừa đi vừa lẩm nhẩm gọi tên đứa con gái xinh xắn dễ thương của mình, để tưởng nhớ đến nỗi đau và mất mát của riêng anh. Con gái anh, đứa con gái 8 tuổi ngây thơ và thân thương, nó cũng mang trong mình dòng máu chinh phục biển cả của bố đã vĩnh viễn ra đi. Và lý do cũng chính vì con nước biển trào dâng dẫn đến việc cháu chết đuối ở cống Rộc, trong chính những ngày bão tố ầm ầm, khi đó cũng là lúc anh đang chinh phục biển. Nỗi khiếp đảm khi nhắc lại chữ cống Rộc với người dân xứ này giờ trở nên thanh bình kỳ lạ. Anh đã thành công, cống Rộc trở nên yên ả trước phong ba, bão tố. Còn anh, một mình hứng nỗi đau câm lặng.

Anh không nói, nhưng vị đồng nghiệp đi cùng bảo, sự thành công trong việc trồng rừng chắn sóng, lấn biển của anh đã khiến người Nhật quan tâm. Một số chuyên gia người Nhật cũng đã tìm đến anh để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm. Ngẫm ra, anh cũng là bậc kỳ tài rồi. Vậy mà 3 năm gặp lại, kể từ ngày biết anh, anh vẫn thế, mộc mạc và thuần hậu. Những việc anh làm có trời biết, đất biết. Còn việc đời và mất mát của anh, tôi cũng chỉ chia sẻ được phần nào. Bởi có những lúc, lòng người còn dậy sóng hơn biển cả. Đứng với anh trên con đê nơi có cống Rộc, phóng tầm mắt nhìn ra, ngút ngát một mầu xanh, mầu xanh tươi từng thấm đẫm cả máu, mồ hôi và công sức. Phía xa hình như đang có một cơn giông…

Thứ Năm, 22/07/2010 - 8:33 AM
Quang Trung
Nguồn: Đời sống & Pháp luật
.
.
.

No comments: