Việt Nam: Viễn tượng dân chủ hoá
04:29:am 06/06/10
http://www.danchimviet.com/archives/10058
LTS: Dưới đây là bản dịch bài mở đầu bằng Anh ngữ cho Nhóm thảo luận về “Triển vọng cho Xã hội Công dân” tại cuộc Hội luận về Việt Nam năm 2005: Tương lai Phát triển và Hội nhập Toàn cầu, tổ chức tại Đại học St. Thomas, Houston, Texas, ngày 12-13 tháng Mười Một, 2004.
-------------------------
.
Dân chủ dưới hình thức chính quyền chưa bao giờ được nghĩ đến ở Việt
Mặc dù dân chủ như một định chế chính trị là một sản phẩm của Tây phương, yếu tố cốt lõi của nó, tức là “vì dân”, đã được giảng dạy ở Trung Hoa và Việt Nam thời cổ như một thiên chức của nhà vua. Theo Mạnh Tử, một triết gia chính trị nổi tiếng của Nho giáo, “vua” đứng hàng thứ ba sau “dân” và “nước” (dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Theo quan niệm này, một vị minh quân có lòng “thương dân như con đẻ” sẽ được nhân dân tôn kính và tuân lệnh; trái lại, một nhà vua độc tài tàn bạo không quan tâm đến trách nhiệm của mình và “coi dân như cỏ rác” sẽ bị nhân dân coi như kẻ thù cần phải lật đổ. Ở thôn quê Việt
.
Những trở ngại của Dân chủ hoá
Điểm tương đồng này –“vì dân”– giữa chính thể dân chủ thật sự và nền quân chủ lý tưởng đã bị chế độ Cộng sản gạt bỏ cho đến khi Đảng bắt buộc phải chuyển hướng bốn mươi năm sau. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Đảng vẫn luôn luôn tuyên dương nhãn hiệu dân chủ. Quốc hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” được duy trì trong ba mươi năm cho đến khi được đổi thành “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” năm 1976 sau khi thống nhất đất nước. Sau đó, Đảng nói nhiều hơn đến quyền lực của nhân dân, nhấn mạnh rằng dưới chế độ cộng sản, nhân dân làm chủ đất nước, ban hành và thực thi các chính sách. Đây là định nghĩa của “dân chủ nhân dân” hay “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vì nguyên tắc của xã hội chủ nghĩa là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên thực tế, nhân dân không có quyền hành gì và tám chục triệu người dân Việt
Theo gương Mikhail Gorbachev trong chính sách “mở cửa” (glasnost) và “tái cấu trúc” (perestroika), Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Đổi mới hay là chết” và bắt đầu một chương trình cải tổ gồm có những nỗ lực tiến đến một nền kinh tế thị trường và một chính sách cởi mở về tự do ngôn luận mệnh danh là “cởi trói văn nghệ sĩ”. Năm 1990, trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đồng thời là Ủy viên Bộ Chính trị, đã thẳng thắn nhìn nhận rằng “những thành quả ban đầu trong chính sách đổi mới của chúng tôi đã cho thấy rõ những sai lầm cơ bản. Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng một xã hội vì dân nhưng sai lầm là ở chỗ, trên thực tế, đây là một xã hội của nhà nước và bởi nhà nước.” Tiếp đó, ông Thạch long trọng tuyên bố rằng “việc xây dựng một xã hội của dân, bởi dân và vì dân đòi hỏi phải đổi mới không chỉ về kinh tế mà cả về mọi mặt bao gồm kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị. Song song với công cuộc đổi mới và tái cấu trúc kinh tế, Việt
Vì quá lo ngại sau khi khối Sô-viết hoàn toàn sụp đổ năm 1991, các nhà cầm quyền Việt Nam đã lập tức bãi bỏ tình trạng tự do ngôn luận có giới hạn và đưa ra những lời cảnh giác mạnh mẽ chống lại “âm mưu diễn biến hòa bình do các thế lực thù địch.” Việt Nam vội vàng nối lại các quan hệ bình thường với Trung Quốc và cố gắng theo sau nước đồng minh gần nhất và mạnh nhất này trong những toan tính thực hiện một nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng như những phương cách đối phó với áp lực của quốc tế về các vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, vốn là một nước nhỏ không có thế lực mặc cả như Trung Quốc, Việt Nam phải vất vả hơn nhiều trong những cuộc đàm phán với Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới để có thể được đối xử bình đẳng như những quốc gia không cộng sản. Trong tiến trình này, Việt
.
Những biện pháp nửa vời
Vấn đề đặt ra là các nhà lãnh đạo ở Việt
Năm 2000, từ ngữ “dân chủ” lại nổi bật trong ngôn ngữ chính thức ở Việt
Nhằm đáp lại áp lực của quốc tế, Việt
Trong khi dò dẫm trên bước đường cải tổ chính trị, chính quyền Việt
.
Một đường lối thực tế
Dân chủ là một mục tiêu mà Việt
Trong một bài báo đăng trên nguyệt san China Review tháng Chín, 2003(2) Mao Vu Thức (không có quan hệ với Mao Trạch Đông) thảo luận về tiến trình đổi mới kinh tế và chính trị ở Trung Quốc từ giữa thập kỷ 1980 và nhận xét rằng “mặc dù môi trường chính trị ngày nay tốt hơn nhiều so với 25 năm về trước, vẫn chưa có sự cải tổ thiết yếu trong hệ thống chính trị và không có điều gì có thể tiên đoán được. Không ai biết là cần phải đi và sẽ đi về đâu. Bước đi nào là khả thi và an toàn cho mọi phía?” Tiếp đó, họ Mao nhấn mạnh rằng điều kiện tiên quyết cho nhân dân và chính phủ đạt được đồng thuận là sự nhìn nhận lẫn nhau và thái độ khoan dung đối với nhau. Nhân dân cần phải nhìn nhận tính cách chính đáng của chính phủ vì không thể có lãnh đạo hữu hiệu nếu không có thẩm quyền và ổn định xã hội. Để đổi lại, chính phủ phải chấp nhận sự tham gia của những công dân không phải là đảng viên, không chỉ trong những cuộc thảo luận xây dựng mà còn cả trong vấn đề điều hành việc nước, từ các hội đồng ở cấp xã lên đến cơ quan chính quyền trung ương. Mao phàn nàn rằng “Hiện nay, tỉ lệ những người ngoài đảng trong các chức vụ bộ trưởng và thứ trưởng còn ít hơn cả dưới thời Mao Trạch Đông. Đất nước được quản lý giống như đảng cộng sản. Đó là điều bất bình thường. Nếu chúng ta không qua được trạm kiểm soát thì vấn đề dân chủ và pháp trị chỉ là những lời nói rỗng tuếch.”
Về vấn đề khoan dung, Mao yêu cầu bộ tuyên truyền đình chỉ lề lối độc quyền việc nước để cho những ý kiến độc lập có thể được phát biểu. Ông nói: “Nếu những ý kiến dù hay hay dở đều bị cấm xuất bản, nếu mọi cuộc thảo luận đều bị chiếm độc quyền thì làm sao chúng ta có thể nhận diện đây (Trung Quốc) là một xã hội dân chủ?” Ông còn đề nghị rằng các tù nhân lương tâm phải được đối xử tử tế hơn vì “trên nguyên tắc, những tội phạm chính trị không thể bị trừng phạt.” Ông còn mạnh bạo hơn khi lý luận: “Nếu đảng Cộng sản tuyên bố ân xá các phạm nhân chính trị thì tính cách chính đáng của Đảng sẽ lập tức được mở rộng và địa vị quốc tế sẽ được nâng cao. Đặc biệt sẽ có một không khí khoan hoà cho những cuộc thảo luận về chính trị.” Mặt khác, theo Mao, những ý kiến khác biệt cần phải được phát biểu bằng lý trí chứ không bằng cảm tính, bằng lịch sự chứ không bằng xúc phạm. Mao cảnh giác rằng: “Sự chỉ trích cần phải xuất phát từ những ý định tốt để được bên kia vui lòng chấp nhận…. Những điều chúng ta đọc thấy trên mạng thông tin hầu hết là than phiền và ngay cả xỉ vả… Bày tỏ lòng bất mãn có thể chấp nhận được, nhưng nếu hầu hết mọi người đều thảo luận với thái độ (chỉ trích) như thế, cuộc thảo luận sẽ trở nên gay go và sẽ phải gián đoạn nửa chừng.”
Từ ngày Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền, Trung Quốc đã tiến lên chậm chạp nhưng vững chãi trên con đường dân chủ hoá, dù cho mục tiêu chưa được xác định rõ và không biết chắc bao giờ mới đạt được. Theo ý kiến họ Mao, tiến trình này có thể lâu từ ba tới bốn chục năm, và ông yêu cầu mọi người chớ nên vội vã vì đa số dân Trung Quốc vốn nghèo và thất học. “(Họ) không coi dân chủ thời hiện đại là chính trị tốt, họ chỉ mong có được một chính phủ nhân đức do một vị minh quân cầm đầu.” Ông quả quyết rằng dân chủ hoá “không phải là một tiến trình thông suốt… Đây là một quá trình một bước lùi, hai bước tiến.” (3)
Đề nghị của Mao Vu Thức về sự nhìn nhận lẫn nhau và khoan dung đối với nhau có thể thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay còn lê bước ở đàng sau Trung Quốc về đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Đã đến lúc Việt
Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề nhìn nhận lẫn nhau và khoan dung với nhau không phải chỉ đặt ra giữa chính quyền và nhân dân trong nước. Nó còn là vấn đề giữa chính quyền trong nước và một cộng đồng hải ngoại ngày càng lớn mạnh về tiền bạc, trí tuệ và ảnh hưởng chính trị. Trong trường hợp này, chính quyền trong nước cần phải đi bước trước và chứng tỏ thiện chí một cách cụ thể hơn, nhất là những cử chỉ hòa giải với các nạn nhân của những chính sách học tập cải tạo và vùng kinh tế mới, để có được sự đáp ứng tích cực của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Đây là một vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp cần phải được thảo luận riêng biệt trong một dịp khác.
—
Giáo sư Lê Xuân Khoa là cựu Chủ tịch Trung Tâm Tác Vụ Đông Nam Á (SEARAC) và là giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Johns Hopkins, Washington, D.C. Ông là tác giả của nhiều bài viết về vấn đề tị nạn và về quan hệ giữa cộng đồng người Việt hải ngoại và Việt Nam. Cuốn sách của ông mới xuất bản gần đây “Việt
Chú thích:
1 Diễn văn đọc tại phiên họp thứ 45 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc,
2 Bài báo nhan đề “Con Đường Dân chủ hóa ở Trung Quốc” (The Road of Democratization in China) được in trên ấn bản Anh ngữ của nguyệt san China Review, tháng Chín 2003, do Unirule Institute of Economics xuất bản ở Bắc Kinh. Tất cả những lời của Mao Vu Thức (Mao Yushi) trích dẫn trong bài này, trừ chú thích số 3 dưới đây, đều được dịch lại từ bản dịch tiếng Anh của Wang Hongchang.
3 Riêng câu này của Mao Vu Thức là do Jim Yardley trích dẫn trong bài báo “Democracy: Chinese Style: Two Steps Forward, One Step Back” (New York Times, December 21, 2003).
4 Viện này được đặt tên là ”Thiên Tắc” (qui luật thiên nhiên) để xác định rằng mọi sinh hoạt kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và xã hội đều phải tuân theo qui luật của vũ trụ chứ không thể theo những qui luật hoàn toàn do ý muốn của con người. Vì ý nghĩa đó, Viện Kinh tế Thiên Tắc được dịch sang Anh văn là “Unirule Institute of Economics” (Unirule là cách gọi tắt Universal Rules). Tr. 1, đoạn thứ nhất.
5 như trên, tr. 1, đoạn “
6 Bản phúc trình này nhan đề là “Mục tiêu của Hiện đại hoá Trung Quốc là Dân chủ” (The Goal of Chinese Modernization is Democracy), trong
.
.
.
No comments:
Post a Comment