Saturday, November 15, 2008

TỪ NÔNG DÂN DO THÁI ĐẾN NÔNG DÂN VIỆT NAM (Phần 2)

Từ nông dân Do Thái đến nông dân Việt Nam (Phần 2)
Việt Dương
http://www.doi-thoai.com/baimoi1108_193.html

Ôi! Đất nước sa cơ
.
Phùng Cung

(tiếp theo)

II. Nông dân Việt Nam

Dưới chế độ Cộng Sản trên nửa thế kỷ nay, nông dân Việt Nam đã phải đi qua nhiều đoạn đường khổ ải. Xin tóm tắt về mấy đoạn đường ấy như sau:

A. Kháng chiến

Năm 1946, khi Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam, chính quyền Hồ Chí Minh (Mới được thành lập từ tháng 8-1945, do đảng Cộng Sản nhanh tay và có tổ chức, nhân cơ hội khoảng trống chính trị - Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng kim của triều đình Huế vô lực, đã cướp được chính quyền) phải rút lên vùng thượng du Bắc Việt và đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong bản kêu gọi có đoạn:
“Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, xuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Từ đó, dân Việt nói chung hay nông dân nói riêng, vì yêu nước, vì khát vọng độc lập đã đi vào khánh chiến. Trong kháng chiến, nông dân đã trở thành chủ lực (tất nhiên vì nông dân Việt Nam lúc đó chiếm gần 90% dân số) và đã đóng những vai trò then chốt:

Thứ nhất về lực lượng vũ trang: Quân kháng chiến đã phát triển từ 75.000 năm 1948 lên 125.000 năm 1953 (kể cả địa phương quân và tự vệ quân là 350.000 người), lập thành 9 sư đoàn (gọi là đại đoàn) được Trung Cộng võ trang vũ khí tối tân và huấn luyện ở Hoa Nam cả quân sự lẫn chính trị.
(Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận, Nam Á, Paris, 2002, trg. 2267)

Thứ nhì về tiếp vận: Nông thôn vừa là nguồn cung cấp lương thực vừa là nguồn cung cấp dân phu tiếp vận chiến trường. Lương thực là thuế nông nghiệp nên có lẽ không sách nào ghi được con số thuế này. Vì thế, ở đây xin ghi lại ít con số dân công đảng Cộng Sản đã sử dụng để chuyển vận và làm đường.

Về tổng quát, trong giai đoạn chiến trường cơ động, khi bộ đội chính quy hành quân mấy tuần liền, một chuỗi kho quân nhu (gạo và đạn dược) phải được thiết lập trước và lúc nào cũng phải đầy. Bất cứ những chuẩn bị chiến dịch nào như thế cũng đòi hỏi lực lượng dân quân tổ chức những đoàn dân công để thiết lập kho quân nhu và để khai quang, làm những con đường thô sơ, và mỗi sư đoàn 10.000 người cần 50.000 dân công. Số dân công nam nữ này được trưng tập trong việc tiếp vận dọc theo đường hành quân của một sư đoàn, phải đi dân công trong khoảng từ 10 tới 14 ngày, thời gian này cho họ 7 ngày khuân vác cộng với thời gian cần để tập hợp và trở về nhà.
(Martin Windrow, The Last Valley, Da Capo Press, Ma., 2004, p. 153)

Về những chiến dịch đặc biệt, sử gia Cộng Sản Nguyễn Khắc Viện trong Histoire du Viet Nam, đã cho biết:
“Tháng 9-1953, chiến trường bao trùm cả Đông Dương. Phải động viên hàng triệu người để đánh du kích, sửa đường, chăm lo tiếp tế cho những bộ đội tham chiến nhiều khi cách xa hậu cần nhiều trăm cây số. Tỉ dụ như công tác mở đường từ Yên Bái đến Sơn La đã sử dụng tới 2 triệu ngày lao động, việc mở con đường nối liền khu II và III đã đòi tới 2.600.000 ngày.
(Trích lại trong Hoàng Cơ Thụy, sđd, trg 2390)

Còn việc chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ, sử gia Cộng Sản viết:
“Hầu hết ô tô vận tải (hàng ngàn xe) được đưa ra phục vụ mặt trận. Các đoàn thuyền buồm, thuyền độc mộc, bè mảng (gần 1 vạn 200 chiếc) đêm ngày vượt dòng sông Mã, vượt thác sông Đà hoặc xuôi dòng Nậm Na chở gạo từ Thanh Hóa lên, từ liên khu 3, Hòa Bình, Phú Thọ đến, từ Phong Thổ, Lai Châu về tiếp tế cho mặt trận Điện Biên. Hơn 2 vạn xe đạp thồ, sức chở của mỗi xe từ 160 cân đến 325 cân, đã băng đèo vượt suối đưa lương thực, vũ khí lên Điện Biên. Kết quả, 27400 tấn gạo do nhân dân đóng góp, bằng nhiều con đường đã chuyển tới Điện Biên.
(Trích lại từ Hoàng Cơ Thụy, sđd, trg. 2434)

Việt Minh đã thắng trận Điện Biên Phủ do nhiều yếu tố về lãnh đạo, về ngoại viện (Liên Sô và Trung Cộng) và sự sai lầm về chiến lược và chiến thuật của tướng Navare, nhưng nông dân (quân đội và dân công) đã là nhân lực để tạo nên chiến thắng đó.

B. Cải cách ruộng đất

Chiến thắng Điên Biên Phủ đã kết thúc cuộc chiến tranh với hiệp định Geneve (20-7-1954). Qua hiệp định, chính quyền Hồ Chí Minh đã chiếm được một nửa nước, từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc và chế độ Hồ Chí Minh bắt đầu tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trước hết là cải cách ruộng đất.

1. Mục tiêu cải cách ruộng đất
Từ 1949 đến 1954 đã có nhiều sắc lệnh về cải cách ruộng đất, hầu hết đặt nặng về vấn đề địa tô, giải quyết việc giảm nợ hoặc xóa nợ và tịch thu đất ruộng của những thành phần có tội gọi là Việt gian chia cho nông dân. Nhưng do chiến tranh nên việc cải cách chỉ thực hiện được trong một số vùng thuộc phạm vi kiểm soát của chính phủ kháng chiến. Đến năm 1953, việc cải cách mạnh hơn với mục tiêu tịch thu toàn bộ đất đai của thực dân Pháp, Việt gian, địa chủ phản động để thực hiện chương trình ruộng đất cho người cày và quy định thành lập tòa án nhân dân để xét xử những thành phần có tội trong cải cách ruộng đất. Chương trình cải cách lần này đã tác động nhiều vào tinh thần kháng chiến của nông dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ và đã tạm ngưng sau hiệp định Geneve với cuộc di cư của gần 1 triệu dân miền Bắc di cư vào miền Nam.
Tới giữa năm 1955, chương trình được tiếp tục trên qui mô toàn miền Bắc với cơ cấu tổ chức như sau:

2. Cơ cấu tổ chức
Cấp trung ương là Ủy Ban Cải Cách Ruộng Đất do Trường Chinh, Tổng bí thư đảng Lao Động Việt Nam (đảng Cộng Sản) lãnh đạo với 3 phụ tá là Hoàng Quốc Việt (Ủy viên bộ chính trị), Lê Văn Lương (Ủy viên bộ chính trị) và Hồ Viết Thắng (Ủy viên trung ương đảng).
Cấp tỉnh là Đoàn Cải Cách Ruộng Đất. Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ, có trưởng đoàn đứng đầu, nhận lệnh từ Ban Cải Cách Trung Ương, không qua hệ thống đảng ủy hay chính quyền địa phương. Đoàn được phân phối về huyện và mỗi đoàn có nhiều đội, mỗi đội có khoảng chục cán bộ. Đội phụ trách cải cách ở xã và có quyền hạn tuyệt đối, nên trong thời gian cải cách, người ta đã nói: Nhất đội nhì trời.
(Trần Gia Phụng, Án Tích Cộng Sản, Non Nước, Canada, 2001, trg. 121)

3. Phân loại thành phần giai cấp nông thôn

Để tiến hành cải cách ruộng đất, đảng Cộng Sản đã ra sắc lệnh (3-1953/1955) ấn định 5 thành phần ở nông thôn như sau:
- Địa chủ có 3 loại: Địa chủ Việt gian phản động, cường hào ác bá, địa chủ thường và địa chủ kháng chiến (Định như thế, nhưng loại 2 và 3 không hề có, nên tất cả địa chủ đều bị liệt vào loại địa chủ Việt gian phản động.
- Phú nông: Loại có khoảng 3 mẫu ta đất ruộng.
- Trung nông: Loại có dưới 3 mẫu ta và được chia thành 3 loại là trung nông cứng, trung nông vừa và trung nông yếu (không có trâu bò hay gia súc).
- Bần nông: Loại có ít sào đất, phải đi làm thuê hay thuê đất.
- Cố nông: Loại chỉ đi làm thuê.
Từ sự phân loại này, đảng đề ra chiến thuật đấu tranh là: Dựa vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, liên hiệp với phú nông để tiêu diệt địa chủ.

4. Biện pháp thi hành
Cuộc cải cách ruộng đất năm 1955-56 có tính chất toàn diện, nhằm thay đổi tận nền móng xã hội nông thôn miền Bắc, nên mỗi xã là một trận địa và Đội Cải Cách đã thực hiện cuộc cách mạng “long trời lở đất” như Cộng Sản đã gọi qua những bước như sau:

Bước thứ nhất
Đội về xã và mỗi cán bộ được phân nhiệm phụ trách một thôn. Ở thôn, cán bộ đi từng nhà điều tra bằng cách Thăm Nghèo Hỏi Khổ, tìm và ở lại một gia đình bần hay cố nông, và sử dụng cố nông đó, gọi là bắt rễ. Rồi tìm Chuỗi (có thể là con của gia đình cố nông), và chuỗi này sẽ tìm bạn kết chuỗi khác. Cứ thế lan ra, gọi là xâu chuỗi. Rễ và chuỗi, gọi là cốt cán. Từ thành phần bần cố nông này, có thể nhận rõ rễ chuỗi là những nông dân nghèo, ít học hay mù chữ.

Bước thứ nhì
Ở bước này, cán bộ tuyên truyền về việc nông dân đứng lên đánh đổ giai cấp địa chủ để làm chủ ruộng đất và tổ chức những buổi họp rễ chuỗi, thúc đẩy nông dân tố khổ những địa chủ, cường hào gian ác trong thôn, gọi là cụng đầu tố khổ. Trong những buổi cụng đầu tố khổ, rễ chuỗi đua nhau nói về sự nghèo đói, đau khổ của đời bần cố nông và sự bóc lột của địa chủ. Họ bắt địa chủ tới tố khổ trong những buổi tố khổ của thôn cho tới khi địa chủ chịu nhận tội bóc lột và phản động, rồi bắt nhốt địa chủ ở một nơi nào đó.

Về chuyện này, nhà văn Tô Hoài đã thuật lại như sau:
“Theo kế hoạch chung, tối nào cũng họp tổ nông hội, họp thôn kể khổ, đôi khi đấu lưng cả địa chủ đã chết tới sáng. Phải soi mói cùng kiệt, không để lọt lưới. Bố mẹ nhà địa chủ xuống âm phủ đã tám hoánh thì moi lên đấu bóng, đấu cho tăng căm thù đón ngày mit tinh xóa bỏ giai cấp địa chủ toàn xã”.

Cứ như thế, ở bước thứ nhì, Đội Cải Cách lên danh sách địa chủ, danh sách phú nông, bắt người này, xin lệnh đoàn bắn người kia. Chính sách khủng bố này đã khiến nhiều người đã phải tự tử trước khi bị bắt, gây nên một bầu khí đe dọa toàn xã như Tô Hoài mô tả:
“Đường làng vắng hẳn, người nào bần cùng lắm mới ra đường, đi len lét, không ai dám đến nhà ai. Gặp anh Đội, người già lùi vào bờ rào, ngoảnh ra cúi đầu chắp tay vái”. (Trg. 77)

Bước thứ ba
Tới bước thứ ba, xã thiết lập tòa án nhân dân để xử tội số địa chủ đã bị tố ở bước hai. Tòa án này do cán bộ cải cách làm chánh án, và nông dân được chọn lựa lên làm biện lý. Phiên tòa nào cũng giống nhau, địa chủ bị cáo, bị trói quỳ trước tòa. Sau khi quan tòa đọc bản cáo trạng về tội ác của bị cáo là tới dân chúng đứng ra tố cáo tội ác của bị cáo với những lời chửi rủa thóa mạ, cùng đấm đá. Cuối cùng quan tòa tuyên án, những bản án đã được định sẵn. Phần lớn là tử hình với nhiều kiểu hành quyết như bắn tại chỗ (huyệt được đào sẵn trước bãi tòa án), tội nhân bị trói nhốt vào giỏ như heo, rồi đem ra sông hoặc ao đầm dìm cho chết, hoặc trói trên một ổ kiến cho kiến đốt chết, hoặc chôn sống…, như cha vợ của nhà thơ Hữu Loan (tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim) đã bị chôn sống để thò đầu lên khỏi mặt đất, rồi cho bừa đi bừa lại nhiều lần.
Sau những vụ hành quyết, gia đình tử tội bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng, toàn bộ nhà cửa, tài sản bị tịch thu để chia cho bần cố nông, và ở đâu người ta cũng thấy cảnh nhà của địa chủ bị đào sới từ trong nhà ra ngoài sân, vườn để tìm đồ bị nghi là được chôn dấu ở đâu đó.

Bước thứ tư
Bước cuối cùng là chia ruộng đất tịch thu của địa chủ cùng ruộng cống hiến của phú nông và trung nông lớp trên. Rồi mỗi thôn lại trở về với những cuộc họp chia ruộng, tố khổ để tìm ra số ruộng, tranh nhau chỗ ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng mặn, ruộng chua… lại chính bần cố nông làm công việc phân chia ruộng cho mình, đúng theo ý nghĩa ruộng đất đã về với nông dân lao động. Và chuyện này, nhà văn Tô Hoài đã ghi lại mấy hình ảnh:
“Nhiều người vác cả bó thừng ra sắp sẵn đóng cọc chung quanh thửa ruộng sẽ được cắm thẻ. Cả một đời bây giờ mới nhìn thấy một miếng ruộng của mình. Những cành tre phơ phất các góc ruộng. Người vừa được gọi tên ra nhận ruộng, nước mắt ràn rụa quay lại chắp tay vái trời, vái anh đội. Có người lầm rầm khấn ông bà, ông vải tổ tiên về chứng giám với con cháu, rồi ngồi xuống khóc rưng rức”. (Trg. 170)

Sau bước thứ tư, theo thống kê, 2.104.100 hộ nông dân lao động đã được chia 810.000 ha ruộng đất của giai cấp địa chủ, phú nông. Như thế là đảng Cộng Sản Việt Nam đã thực hiện khẩu hiệu “Đất Cho Người Cày”. Nhưng việc nông dân làm chủ ít mảnh đất đã không kéo dài được lâu, vì tới cuối năm 1957, đảng đi tới một bước khác là thực hiện cách mạng vô sản ở nông thôn bằng chính sách hợp tác hóa nông nghiệp để đưa nông dân vào con đường vô sản làm chủ tập thể, và bước này kéo dài qua mấy giai đoạn:
- Tổ đổi công: Việc đổi công, giúp nhau làm mùa đã có từ lâu ở nông thôn, nhưng bây giờ khác là thành tổ chức có tên.
- Hợp tác xã: Giai đoạn tổ đổi công không được lâu, và chỉ là giai đoạn chuyển tiếp để đảng tiến lên Hợp Tác Hóa với đơn vị là Hợp Tác Xã. Tới đây thì nông dân phải góp ruộng đất, nông cụ, trâu bò vào hợp tác xã để làm chung dưới sự lãnh đạo của đảng. Khởi đầu là hợp tác xã cấp thấp, đơn vị sản xuất tập thể nhỏ với khoảng từ 10 tới 20 hộ và canh tác khoảng trên 10 ha. Rồi từ 1960, hợp tác xã cấp thấp được tập hợp lại thành những hợp tác xã cấp cao. Nhân số và diện tích ruộng đất của hợp tác xã cấp cao cũng khác nhau tuỳ theo địa phương, trung bình từ 300 tới 500 ha. Tới 1975, hợp tác xã cấp cao chiếm 88% tổng số hợp tác xã.
(Lâm Thanh Liêm, Chính Sách Cải Cách Ruộng Đất Việt Nam, Nam Á, Paris, 95, t. 42)

5. Kết quả cải cách ruộng đất

Trong cải cách ruộng đất, đảng Cộng Sản đã đạt được nhiều mục tiêu. Có thể kể:

Thứ nhất là truyền bá ý thức đấu tranh giai cấp, gây lòng căm thù để cho nông dân thấy đảng đã cho mình vai trò làm chủ qua việc đấu tố, hành hạ và giết địa chủ, phú nông, rồi được phân chia nhà cửa, đất ruộng của địa chủ. Từ đó, đảng biến nông dân thành một lực lượng đi với đảng.

Thứ nhì là đưa ý thức đấu tranh vào thực tiễn, đảng đã vận dụng nông dân tàn sát, theo ước lượng, trên 300.000 người, gồm tầng lớp địa chủ, phú nông, và những thành phần tư sản, tiểu tư sản, gọi là Việt gian. Nông dân đấu tố, dân quân bắt tội nhân ăn cứt, liếm đờm, đem trấn nước cho chết, chôn sống hoặc kéo xác tội nhân quanh đường làng…Việc tàn sát dã man này đã đưa ý thức đấu tranh giai cấp lên cao, đồng thời cũng tạo được sự khiếp sợ trong tâm trí nông dân trước quyền uy của đảng.

Thứ ba là đã thay đổi toàn diện cơ cấu xã hội và kinh tế nông thôn. Sau cải cách ruộng đất, nông thôn chỉ còn một giai cấp là giai cấp nông dân vô sản với tính chất trại lính: Đi làm theo lệnh Ban Quản Trị Hợp Tác Xã để được chấm công, chấm điểm. Mỗi ngày lao động 10 giờ, mỗi giờ được 10 điểm, mỗi điểm được 150 gam gạo. Sau mỗi vụ gặt, hợp tác xã chia số thu hoạch thành 4 phần: Phần thứ nhất để đóng thuế, phần thứ hai để làm nghĩa vụ, tức là bán cho chính phủ bốn lần rẻ hơn giá ở thị trường tự do, phần thứ ba để trả nợ cho ngân hàng và các cơ quan khác, phần thứ tư để chia cho xã viên theo tổng số điểm mỗi người đã làm được trong toàn vụ.
(Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, Đại Nam, California, trg. 32)

Thứ tư là hủy diệt văn hóa dân tộc. Văn hóa Việt Nam về căn bản là văn hóa xã thôn với con người hiền hòa, giàu đạo nghĩa được khuôn đúc từ tôn giáo: Thờ kính tổ tiên, theo đạo từ bi của Phật, theo tín nghĩa của Nho, từ nhiều thứ lễ hội biểu hiện tín ngưỡng. phong tục và nếp sống văn hóa dân gian… Nhưng với chủ nghĩa duy vật Marx – Lenin thì tất cả nền văn hóa này đề là tàn tích phong kiến phản động và đảng Cộng Sản đã sử dụng thành phần cán bộ nông dân cuồng tín theo đảng tàn phá hết từ đình chùa miếu mạo, nhà thờ họ tới tất cả lễ hội. Chuyện phá nhanh, phá hết những cơ sở văn hóa tinh thần đã trở thành một chính sách thi đua lập thành tích, đến như Nguyễn Huệ Chi, một nhà nghiên cứu hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã phải nói:
“Từ hơn 50 năm lại đây, văn hóa truyền thống đã trải qua một “đại nạn”: Vì nghĩ đây là những tàn tích phong kiến, chúng ta đã công nhiên lên án chúng, thẳng tay “đàn áp”, “xử tội” chúng, đã để cho bao nhiêu đình, chùa, bia mộ, sách vở quý giá ở khắp mọi vùng bị đốt phá, hoặc mất mát hư hỏng mà không một chút động tâm, như nhiều thế hệ đã tận mắt nhìn thấy”.
( Để làm được chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, Talawas, 21/9/05)

Trên đây là 4 cái thành trong cải cách ruộng đất, còn thất bại có thể kể:

Thứ nhất là ý thức về tư hữu: Đảng Cộng Sản đem chủ nghĩa Marx – Lenin về làm cách mạng vô sản, dùng chuyên chính vô sản để hủy diệt ý thức tư hữu, xây dựng ý thức vô sản. Đảng làm kinh tế quốc doanh và bắt làm tập thể thì phải làm, nhưng cơ chế, giáo dục và truyền thông đã không tẩy não được ý thức tư hữu. Vì thế nông dân đã sao lãng công việc trên đất hợp tác xã và trở về với mảnh vườn nhỏ quanh nhà được đảng dành cho để chăm lo cho luống khoai, luống sắn, luống rau. Về chuyện này, đảng đã thường cảnh cáo và nhắc nhở là phải cảnh giác, đừng để cho óc tư hữu ngóc đầu dậy. Nhưng đối với đảng viên, cán bộ có chức quyền trong hợp tác xã, những người thực hiện cách mạng vô sản, lại tìm cách vun quén cho tư hữu của mình, mà ngay những năm đầu của hợp tác hóa, dân miền Bắc đã đặt thành ca dao:
Mỗi người làm việc bằng ba
Để cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân.

Đó là chuyện của 40 năm trước. Còn bây giờ, từ sau đại hội đổi mới (1986) thì ý thức vô sản đã trở thành chuyện lỗi thời, vì đảng Cộng Sản đã chứng minh một điều là đảng làm cách mạng vô sản, nhưng ý thức tư hữu lại thắng trong lòng đảng viên và đảng đã dùng chuyên chính để tích lũy tư hữu cho đảng viên.

Thứ nhì là chuyện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa: Hợp tác hóa nông nghiệp với hợp tác xã từ thập niên 1960 tới năm 1975, với đảng là tổ chức làm ăn tập thể qui mô, có tổ chức để nâng cao sản lượng, nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa cho nông dân. Nhưng vào việc cho thấy đảng đã thất bại là sản lượng nông nghiệp đã không tăng mà ngày càng giảm, mặc dù trong những năm từ 1965 tới 1969, Liên Sô và Trung Cộng đã viện trợ mỗi năm 1 triệu tấn gạo mà dân miền Bắc vẫn phải ăn độn khoai lang, khoai mì.
Theo tổng kết chung thì sự thất bại này do nhiều nguyên nhân như chiến tranh, thiếu sự cải tiến kỹ thuật canh tác, quản lý kém để thất thoát nông phẩm, phân bón, tài chánh…, và thuế nông nghiệp quá cao, khoảng 85% hoa lợi mỗi vụ lúa.
(Lâm Thanh Liêm, sđd, trg. 45)

Nghiên cứu và phân tích thì đủ thứ nguyên nhân, nhưng chuyện này, ông Hoàng Hữu Cát, trong bài phóng sự “Tiếng Đất” đã nói lên một nguyên nhân căn bản qua tâm sự của một lão nông như sau:
“Hàng ngày, từng đoàn người đói rách, với đôi bao tải và chiếc cuốc bàn trên vai, chen chúc nhau vào ga Hướng Lài để ngược tàu lên tận Làng Giàng mót sắn. Các nhân viên soát vé của nhà ga không nỡ chặn họ lại, bắt phải mua vé, đành đứng tránh ra cho họ ùa lên các toa đen và nhìn theo họ mà ái ngại và buồn bã.
Thỉnh thoảng lại gặp một vài người ăn xin, đấy là những ông già hoặc phụ nữ có dắt theo con nhỏ.
Một người đàn ông, trạc năm mươi tuổi, dừng xe máy trước cửa ga, vừa bước vào quán nước, chưa kịp uống cạn chén trà, đã thấy một bàn tay xương xẩu, run run giơ ra trước mặt. Người đàn ông móc túi áo, lấy ra tờ bạc hai mươi đồng, nhưng lại nhét vội vào và rút ra tờ một trăm đồng:
- Cháu nhìn ông quen quá (người đàn ông cho tiền ông già nói). Hình như ông là ông Mô có phải không?
- Vâng tôi là Mô đây. Anh có phải là anh Lai, con trưởng cụ Dũng ngày xưa không?
- Vâng, thằng Lai đây ông ạ! Ông ơi! Năm năm tư, ông nói: “Vì bị bố cháu bóc lột nên ông mới nghèo khổ”, thế bây giờ, ông bị ai bóc lột mà ông nghèo khổ thế?
Ông già cúi nhìn mãi bàn chân đen đủi của mình, rồi chậm rãi nói, mặt vẫn không ngẩng lên:
- Nông dân đói vì không có ruộng anh ạ! Đời tôi hơn bảy chục tuổi trên đầu rồi mà chưa được thực sự làm chủ lấy một ngày. Trước cách mạng, đi làm thuê cho ông cụ nhà anh. Cải cách ruộng đất, được Đảng và chính phủ chia cho mấy sào ruộng với một chân trâu, bụng khấp khởi mừng thầm, chắc mẩm giờ đây mình sẽ được làm chủ, nhưng rốt cục, lại vẫn là làm thuê, kiểu làm thuê lấy điểm, cốt lấy thật nhiều điểm chứ lúa tốt, lúa xấu thế nào không cần biết. Thời anh mới học làm đồng, tôi hay mắng anh về tội cày lỏi, bừa dối, anh còn nhớ không? Tôi ghét thậm tệ những thằng làm ăn láo lếu. Vậy mà vào hợp tác xã, tôi phải học cách cày lỏi, bừa dối mới được nhiều điểm. Thật thà ăn cháo, lếu láo ăn cơm. Những người thực thà chăm chỉ trở thành những thằng ngố cho mọi người cười nhạo. Ngày xưa, ông bà ta có dám nói dối, nói điêu đâu. Giờ thì tin được con người khó quá. Người tử tế thì ít, bọn đầu trộm đuôi cướp thì nhiều… Nếu biết cơ sự này, trước đây đừng hòng tôi vào hợp tác xã (?). Trước tôi tưởng chỉ mất đất thôi, không ngờ mất cả người. Cái đói nó sinh ra cả đấy anh ạ! Ông lão đột ngột im lặng. Chén trà trên tay ông run run, làm nước sánh cả ra ghế. Và ông khóc”.
( Đoàn Kết, số 404, tháng 7&8, 1988, Paris)

Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với hợp tác xã ép buộc đã phản tác dụng, vì nông dân không có đất và không thể giác ngộ ý thức vô sản đã đưa đến sự thất bại của hợp tác xã, của hệ thống sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân đơn giản và thiết thân với con người như thế mà những người lãnh đạo Cộng Sản không chịu hiểu. Nhưng trong bài Tiếng Đất, ông Hoàng Hữu Các còn cho biết thêm một chuyện nữa là ông Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú đã nhận ra cái hỏng của cơ chế xã hội chủ nghĩa và ông đã đặt tên cho nó là “chủ nghĩa xã hội kiểu trại lính” mà đặc trưng tiêu biểu nhất của nó là “Cào bằng”. Thấy được đó là căn nguyên làm cho nông dân đói, nên ông đã chống lại chính sách cào bằng và thay bằng chính sách Khoán Sản Phẩm đến hộ xã viên. Với chính sách này, hợp tác xã trao cho xã viên một số ruộng đất để gia đình xã viên tự canh tác, và sau vụ thu hoạch, ngoài thuế nông nghiệp xã viên trả lúa theo hợp đồng khoán. Chính sách khoán đã cứu đói, nhưng đã trở lại với đơn vị cá nhân chịu trách nhiệm, trái với chính sách tập thể vô sản, nên ông Kim Ngọc đã bị thanh trừng. Đáng tiếc là lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã không theo sáng kiến của ông Kim Ngọc để 14 năm sau (1981) lại tôn Đặng Tiểu Bình làm thầy, đi theo chính sách khoán của họ Đặng. Khoán của Đặng khác gì khoán của Kim Ngọc? Đúng là Bụt nhà không thiêng mà còn bị chém đầu!

Theo ông Các thì tuy mất chức, nhưng ông Kim Ngọc vẫn tuyên bố rất tự tin rằng: “Lịch sử sẽ chứng minh tôi đúng!” Mà ông đúng thật, vì chỉ sau khi ông chết được một năm, đảng đã phải ban hành nghị quyết số 100 (1/81) thực hiện chính sách khoán. Rồi từ đó tới cuối thập niên 1980, chính sách khoán đã thay đổi dần để đi tới chính sách cới trói nông dân.

C. Cởi trói

Sau khi chiếm Miền Nam (30/4/75), đảng Cộng Sản đã để ra hai năm nghiên cứu về nông dân và ruộng đất. Năm 1977, đảng bắt đầu tiến hành chương trình hợp tác hóa nông nghiệp như đã làm ở miền Bắc.
Nhưng có lẽ do nhiều yếu tố từ tinh thần nông dân đến thực tế là miền Nam đa số nông dân đã trở thành tiểu nông, trung nông qua hai cuộc cải cách ruộng đất thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-63) và Đệ Nhị Cộng Hòa (1964-75), nên đảng Cộng Sản đã không thể làm thêm một cuộc cách mạng long trời lở đất, đấu tố địa chủ và giết nhiều người, mà phải tiến hành bằng nhiều biện pháp ôn hòa qua nhiều giai đoạn. Xin tóm tắt như sau:

1. Giai đoạn hợp tác hóa ruộng đất (1978-79)
Từ năm 1978, nông dân miền Nam đi vào làm ăn tập thể trong hai thứ tổ chức là hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Ngoài những biện pháp thuyết phục và cưỡng bách, đảng đã dùng biện pháp kinh tế là cấm tư thương chuyên chở nông sản, nhu yếu phẩm từ nông thôn lên thành phố, hay từ vùng này qua vùng kia, và bắt buộc nông dân phải bán nông sản cho nhà nước theo giá quy định. Đảng cho rằng biện pháp “Ngăn sông cấm chợ” sẽ buộc nông dân vào hợp tác xã và nhanh chóng tạo được cơ chế độc quyền mua bán của nhà nước. Nhưng đảng quên một điều là nông dân miền Nam đã sống tự do với quyền tư hữu ruộng đất lâu năm, nhất là thành phần trung, tiểu nông có thân nhân theo Cộng Sản không ít, nên nông dân đã chống lại chương trình hợp tác hóa bằng những biện pháp tiêu cực như không gia tăng sản xuất, chỉ làm đủ sống, bán lén lút gia súc ra thị trường tự do, nên khắp nơi trở thành chiến trường mua chui, bán chui, và đồng ruộng miền Tây của tư nhân cũng như nông trường bỏ hoang khắp nơi. Từ sự chống đối này, sản xuất lương thực giảm sút, nạn đói đe dọa và dân miền Nam trong những năm 1977, 78, và 79 đã phải ăn cơm độn khoai mì, khoai lang hay bo bo (do Liên Sô viện trợ).

2. Giai đoạn sửa sai (1980-82)
Để đối phó với tình thế đói kém, đảng Cộng Sản đã triệu tập phiên họp thứ 6 Ban Chấp Hành Trung Ương (9/1979) xét lại chính sách và đề ra nghị quyết sửa sai, trong đó về nông nghiệp có mấy điểm:
- Cho gia đình xã viên mượn một năm 2 ha đất để trực canh.
- Bỏ ngăn sông cấm chợ, cho phép lưu thông hàng hóa từ nông thôn lên thành phố.
- Khuyến khích chăn nuôi gia đình.

Sau đó, nghị quyết 26 (6/1980), rồi nghị quyết 100 (1/1981) đã lùi thêm với mấy điểm:
- Chính thức ấn định chính sách khoán, gọi là Hợp Đồng Hai Chiều, trong đó nhà nước ấn định năng xuất theo loại ruộng và ấn định tỷ lệ khoán. Theo chính sách khoán, xã viên nhận một số ruộng của hợp tác xã đảm trách mấy khâu như cấy, bón phân, chăm sóc và gặt, còn các khâu khác như cày bừa, làm đất, thủy lợi thì hợp tác xã chịu trách nhiệm.
Như thế là chính sách sản xuất tập thể, chấm công chấm điểm đã bị hủy bỏ để trở lại với đơn vị cá nhân, gia đình, và theo giáo sư Lâm Thanh Liêm thì mấy biện pháp “Giải phóng” kinh tế, do lợi nhuận thúc đẩy, đã khuyến khích nông dân vượt khoán, nên số lượng lúa thặng dư được bán ngoài thị trường tự do giá cao đến 15 hay 20 lần giá lúa chính thức.
(Lâm Thanh Liêm, sđd, trg. 124)

3. Giai đoạn tái tập thể hóa ruộng đất (1983-85)
Sau đại hội 5 (3/1982), thành phần lãnh đạo bảo thủ nắm ưu thế, nên chính sách tập thể hóa ruộng đất lại được phát động. Lần này nhà nước đã dùng biện pháp gia tăng các loại thuế nông nghiệp để trói nông dân và ép nông dân phải trở lại hợp tác hóa. Theo thông tấn xã Việt Nam (10/10/85) thì năm 1986, hầu hết ruộng đất miền Nam đã được tập thể hóa từ Thuận Hải đến mũi Cà Mâu với 622 hợp tác xã và 35.853 tập đoàn sản xuất.
(Lâm Thanh Liêm, sđd, trg 236)

Chính sách tập thể hóa ruộng đất cùng nhiều chính sách xã hội hóa triệt để với những biện pháp siết chặt cả nông, công, thương nghiệp và nghị quyết 8 về thay đổi giá lương tiền, chống bao cấp, cùng việc đổi tiền lần thứ ba (9/85) đã đưa nền kinh tế tới phá sản: Lạm phát lên tới 700%, và giá cả đại loạn với hàng hóa tăng giá hàng ngày không thể kiểm soát được. Trước tình thế đó, nhà nước Cộng Sản không thể lý luận bào chữa, đổ lỗi cho những yếu tố khách quan như họ vẫn thường làm mà đã nhận sai lầm. Từ đó, chiến dịch phê bình, học tập sự sai lầm đã được phát động trên toàn quốc. Trong chiến dịch học tập, Nguyễn Văn Linh đã có một bài phân tích về sự sai lầm trong đường lối lãnh đạo kinh tế (bài nói chuyện không phổ biến ra báo chí). Trong đó ông nói rằng Trung Ương sai lầm trong cải cách ruộng đất vì đã làm theo kiểu Trung Quốc, rồi phạm nhiều sai lầm khác trong công thương nghiệp vì đi theo con đường làm ăn cũ. Trong bài nói chuyện có câu: “Nền kinh tế này không còn phải ở bên bờ vực thẳm mà thật sự đã ở dưới vực thẳm. Chúng ta phải tìm cách nhảy lên không sẽ chết”.

Như thế chính trong cơn khủng hoảng này mà chuyện đổi mới thành cao trào trong đảng, chẳng hạn đến như Trường Chinh, tổ sư của hàng lãnh đạo giáo điều bảo thủ mà trong đại hội đảng bộ Hà Nội ngày 19/10/1986, cũng lớn tiếng phê phán những thứ gọi là sai lầm ấu trĩ tả khuynh, duy ý chí, làm trái quy luật khách quan, lên án cách nghĩ, cách làm cũ, và kêu gọi đổi mới. Tứ đó, đảng Cộng Sản đã đem đường lồi đổi mới vào Đại Hội VI (12/1986), được gọi là Đại Hội Đổi Mới và Nguyễn Văn Linh được bầu làm tổng bí thư để theo gương Gobachev, thực hiện đổi mới ở Việt Nam. Vì thế, sau đại hội 6, nhiều nghị quyết giải phóng kinh tế đã được ban hành. Riêng về nông nghiệp, đảng ban hành nghị quyết 10 (4/88), gọi là khoán 10, thiết lập chính sách khoán trắng, cho phép xã viên canh tác không hạn chế diện tích và chịu trách nhiệm hoàn toàn về số ruộng đất khoán. Với khoán 10 cùng với luật đất đai do quốc hội biểu quyết tháng 12/1986, nhà nước Cộng Sản đã luật hóa chính sách khoán, hủy bỏ chính sách sản xuất tập thể xã hội chủ nghĩa, nới rộng thời gian cho nông dân thuê đất khoán là 15 năm và cho phép người thuê có quyền để lại cho con thừa kế phần đất ruộng thuê hoặc nhượng lại cho một nông dân khác.

Theo ông Vũ Trọng Khải trong bài “Thực Trạng Chính Sách Phát Triển Nông Thôn Hiện Nay” thì nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị (4/1988) về “Đổi mới quản lý nông nghiệp” và nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ 6 là những chính sách mang tính “Cởi Trói”, vì nghị quyết 10 đã thừa nhận hộ nông dân là đơn vị tự chủ sản xuất trong nông nghiệp, khôi phục lại vị thế vốn có từ bao đời nay của kinh tế hộ nông dân đã bị xóa bỏ trong suốt 30 năm tập thể hóa nông nghiệp, coi hợp tác xã dựa trên chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, là đơn vị sản xuất và phân phối theo kế hoạch nhà nước. Còn nghị quyết Đảng lần 6 và các nghị quyết sau đó của đảng đã thừa nhận nền kinh tế thị trường như nó đã vốn có bao đời nay, xóa bỏ chính sách ngăn sông cấm chợ, để hàng hóa, trong đó có nông sản, được tự do buôn bán, không phân biệt chủ thể quốc doanh hay dân doanh, không giới hạn qui mô và địa giới hành chính”.
(Tiasang.com, 17/7/08)

D. Tước đoạt

Chính sách cởi trói, công nhận quyền làn ăn cá thể với quyền sử dụng đất dài hạn và chuyển nhượng đất, đã thúc đẩy canh tác, nên chỉ chỉ sau một năm Việt Nam đã có thể xuất cảng gạo. Khởi đầu với 1.4 triệu tấn năm 1989, rồi lên tới 2 triệu tấn năm 1995.

Nhưng việc cởi trói đã gây nên một trận chiến mới ở nông thôn. Đó là trận chiến cướp đất và giữ đất. Vẫn là đấu tranh giai cấp, nhưng bây giờ là đấu tranh giữa nông dân và đảng viên Cộng Sản. Trận chiến ngày càng khốc liệt, đã và đang diễn ra dưới nhiều hình thức. Có thể kể:

1. Đảng viên giành đất tốt
Do luật lệ mơ hồ và tham nhũng, việc phân chia lại ruộng đất đã mở cửa cho cán bộ địa phương sử dụng quyền độc đoán phân chiếm những vùng đất màu mỡ cho gia đình và họ hàng. Chuyện bất công này không những đè nặng lên số phận nông dân mà đã đụng độ ngay cả những gia đình đảng viên, thương binh, liệt sĩ, nên đã đưa đến nhiều sự phản kháng dưới một số hình thức như:
- Nhiều nơi, nông dân nhận được đất xấu hoặc quá ít, đã tự động chiếm đất hưu canh và chính quyền đã đem lực lượng đến trấn áp.
- Nhiều nơi, nông dân đã tập họp đông đảo phản đối chính quyền, đôi khi tới bạo động ở những điểm nóng. Chẳng hạn riêng tỉnh Thanh Hóa từ 1988 tới 1992 đã xảy ra 120 vụ, còn trên toàn quốc thì cùng thời gian đó đã có ít nhất 2600 vụ.
(Gabriel Kolko, Viet Nam: Anatomy of Peace, Routledge, New York, 1997, p. 92, 93)

2. Đảng viên thành địa chủ

Sau cải cách ruộng đất ở miền Bắc, rồi ở miền Nam sau 1975, chế độ Cộng Sản đã hủy diệt giai cấp địa chủ, phú nông, trung nông, tiểu nông để chỉ còn một giai cấp nông dân vô sản. Nhưng với chính sách cởi trói nông nghiệp (nghị quyết 10), chế độ lại tái tạo một giai cấp địa chủ mới mà lâu nay dân đã gọi là đám cường hào ác bá mới và nhà thơ Cộng Sản Nguyễn Duy trong bài thơ “Nhìn Từ Xa…Tổ Quốc” đã đúc kết thành mấy câu:
Lãnh chúa sứ quân san sát vùng cát cứ
Lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa – như có – như không.

Nghiên cứu về sự hình thành với cách làm ăn của giai cấp địa chủ mới này, giáo sư Gabriel Kolko đã ghi lại một số điều:

Thứ nhất, cán bộ ở nông thôn, cả triệu người, đã lợi dụng việc cải cách đất đai để thu lợi cá nhân, quyết định việc phân chia ruộng đất, ấn định những thứ thuế phi pháp trong vùng họ cai trị và chiếm nhiều đất để trở thành địa chủ.
Thứ nhì, sự bất bình đẳng gia tăng nhanh ở nông thôn. Nhiều nông dân có ít đất đã phải đi làm thuê cho những địa chủ mới, và do không có luật pháp bảo vệ, nông dân làm thuê đã bị bóc lột tàn tệ không khác thời Pháp thuộc. Những gia đình giàu có lợi tức gấp hơn 40 lần gia đình nghèo, cựu binh và thương binh nghèo nhất và cán bộ địa phương đã trở thành một giai cấp mới được gọi là chế độ cường hào mới.
Thứ ba, tầng lớp địa chủ mới đã cho nông dân thuê nông cụ và cho vay với lãi cao gấp 3 lần lãi thường. Vì thế trong một số vùng, đời sống của trên một nửa nông dân nghèo đã tùy thuộc vào họ với nợ nần chồng chất.
(Gabriel Kolko, sđd, trg 94-100)

Để có thể nhìn cụ thể hơn vào giai cấp đại chủ mới, xin lấy hai thí dụ điển hình, đã được ông Võ Đắc Danh ghi lại trong bài ký “Nông Dân và Đất”. Bài ký viết về “xã Khánh Bình Tây thuộc Cà Mau, một xã có 2600 hộ dân, với hơn 40% sống dưới mức nghèo khổ, trong đó có gần 500 hộ dân không có đất, nghĩa là có hàng ngàn con người trên cái vùng đất nhỏ nhoi này không biết phải làm gì để sống. Làm mướn ư? Đâu phải lúc nào cũng có người ta mướn để mà làm. Mùa gặt họ vào nông trường mót lúa, giũ rơm thì bị cán bộ nông trường đốt thúng, đốt rơm. Mùa mưa họ vào nông trường săn chuột, bắt ốc, hái rau thì bị đuổi xô, bị tịch thu phương tiện, bị đánh đập, thậm chí bị bắn trọng thương, bởi dưới con mắt của cán bộ nông trường, họ là những phần tử bất hảo cần phải cách ly. Nhiều người kéo nhau ra biển xúc cua giống để bán thì bị các anh bảo vệ nguồn thủy sản vây bắt vì cái tội ăn trộm tài nguyên thiên nhiên”.

Từ cái nghèo đó, Khánh Bình Tây đã sản sinh hai thứ địa chủ:

Một loại là kinh doanh đất, theo ông Võ Đắc Danh thì do cái nghèo bủa vây, đại bộ phận nông dân có đất ở đây phải cầm cố cho người khác, rồi thuê lại làm với giá mỗi công một năm 10 giạ lúa. Và người đầu tư cho việc kinh doanh đất đai này lại là ba ông bí thư chi bộ, trưởng ban nhân dân và trưởng công an ấp, mỗi ông nắm trong tay hàng trăm công, rồi cho những khổ chủ ấy thuê lại, mỗi năm thu hàng ngàn giạ lúa. Khi lãi mẹ đẻ lãi con, chủ đất buộc lòng phải sang bán thì các ông cũng chính là người mua. Như ông Bảy Châu, nguyên là bí thư chi bộ ấp, khởi nghiệp chỉ có bảy công ruộng, nhưng kết quả của một quá trình kinh doanh cầm cố, số ruộng đã lên tới cả trăm công.

Còn loại thứ nhì là dùng quyền chiếm đất. Ông Danh cho biết Khánh Bình Tây có một nông trường tên là Nông Trường 402, diện tích 700 ha, được hoạt động theo hình thức phát canh thu tô. Ông Nguyễn Thanh Vọng, giám đốc nông trường, ngoài chuyện bóc lột hàng trăm nông dân làm thuê (gọi là nông trường viên), đã thâu tóm nhiều ruộng đất riêng. Không ai biết chính xác ông có bao nhiêu ruộng, nhưng biết chắc ông có hai mươi công đất gieo mạ, và mỗi công gieo mạ cấy được mấy chục công đất. Ông độc quyền cho thuê máy cày, máy suốt, và vợ ông, bà Tuyết Bạc, là người cho vay nặng lãi nổi tiếng, với các loại cho vay như vay lúa, vay tiền và có thể trả bằng tiền, bằng lúa và bằng sức lao động (20.000 đồng một công gặt). Từ cách làm ăn này, ông Vọng đã thu hàng chục ngàn giạ lúa mỗi năm.
(Thế Kỷ 21, 230, tháng 6/ 2008, California, Số đặc biệt về nông thôn Việt Nam)

3. Đảng viên cướp đất bán cho tư bản ngoại quốc

Từ thập niên 1990 đến nay, theo đà phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đất đai là nơi dễ làm giàu nhất nên đất của nông dân (nhà cửa, ruộng vườn) đã bị thu hồi dưới nhiều cái tên như giải phóng mặt bằng, phục vụ qui hoạch các khu công nghiệp, các dự án đầu tư quốc tế… để đảng viên làm ăn với tư bản. Việc thu hồi này có bồi thường, nhưng là thứ bồi thường ăn cướp theo chế độ chuyên chính vô sản, thấy bị tước đoạt oan ức nên nông dân đã đi khiếu kiện.
Chuyện bồi thường kiểu tước đoạt này đã được báo chí, trí thức và cả những quan chức Cộng Sản công khai nói lên nhiều. Xin ghi lại ít điều:

Về thu hồi đất:
- Ông Lê Huy Ngọ, nguyên Bộ Trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, trong cuộc “Hội Thảo Người Dân Nông Thôn Trong Quá Trình Công Nghiệp Hóa” đã nhận định: Cách thu hồi đất hiện nay hầu như là tước đoạt. Một chữ ký của chính quyền tỉnh Hà Tây, hơn 200 ha đất thuộc loại “bờ sôi ruộng mật” được giao cho Công Ty CP Tuần Châu làm khu du lịch giải trí, người dân hầu như mất trắng. Chuyện tương tự như vậy xảy ra ở nhiều nơi. Người dân ở đồng bằng sông Cửu Long than: “Làm ngày nào biết sống ngày đó, chỉ biết còn mơ đến trúng số độc đắc”.
(Xây dựng nông thôn phát triển bền vững, Tiasang.com/17/7.08)

- Luật sư Phạm Duy Nghĩa, trong bài Nông Thôn, Nông Dân Từ Góc Nhìn Sở Hữu, đã viết:
“Trước những ánh mắt them khát tài nguyên của các ông chủ tư bản và sự im lặng của người có quyền, đôi khi người ta lảng tránh bàn về đề tài này (Dân cày có ruộng). Song càng lảng tránh, đơn thư khiếu nại nhà đất càng chồng chất. Hơn 80% trong số gần 2 vạn đơn thư khiếu nại của cử tri gửi tới các cơ quan và đại biểu dân cử có nội dung liên quan đến quyền tài sản nhà đất, đền bù, giải tỏa khi chuyển đổi đất ruộng thành đất kinh doanh là mầm mống cho vô số vụ “khiếu kiện tập thể” lan dần từ thôn quê lên thành thị. Chẳng cần tốn kém điều tra, chỉ tắt máy điều hòa, mở cửa sổ và nhìn ra cái oi bức của xứ nhiệt đới, quan chức nước ta sẽ cảm nhận được cái nóng từ quyền sở hữu ruộng đất đôi khi áp sát cổng chính quyền”.
(Tiasang.com/2/7/08)

- Ông Trần Tiến Dũng, trong bài Nông Dân Trong Cơn Hồng Thủy Thu Hồi Đất, đã viết:
“Lúc này ở Việt Nam cứ bước chân về các vùng nông thôn quanh các đô thị, đâu đâu cũng thấy cắm bảng qui hoạch giải tỏa. Nhà nước Cộng Sản trong cơn cuồng chạy theo các chỉ tiêu phát triển công gnhiệp đã thả nổi cho các tỉnh tha hồ lập dự án ký kết đầu tư. Cứ nhìn vào bản đồ các khu công nghiệp, các dự án phát triển đô thị cao cấp… thì sẽ thấy cả nước đang bị xé rách tan hoang ra sao. Không ai có thể thống kê hết có bao nhiêu hectares bờ biển đã bán sạch cho các công ty du lịch nước ngoài, người ta chỉ nghe ngư dân than thở, đến cả những làng chài heo hút, họ cũng không còn chỗ để đậu thuyền. Một nhà báo có thẻ hành nghề kể rằng, một lần anh được mời miễn phí đi ăn, đi chơi, đi tham quan các công trình du lịch ven biển lộng lẫy, nhưng anh không thể viết, mà có viết cũng không được đăng về chuyện các ông chủ này đã liên kết với các quan tham địa phương sang đoạt đất đai của lương dân với giá rẻ mạt ra sao”.
(nguoiviet online/04/24/08)

Trong cuộc hội thảo về chủ đề “Công Tác Qui Hoạch Sử Dụng Đất Nông Nghiệp và Chính Sách Pháp Luật Về Sử Dụng Đất Trong Tình Hình Hiện Nay” do văn phòng Quốc Hội và Bộ Tài Nguyên Môi Trường tổ chức tại Sài Gòn (6/9/08), lần đầu tiên đại biểu Quốc Hội nhìn nhận những sự thực đau lòng:

- Ông Trần Thế Vượng, ủy viên Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội cho biết: Kết quả khảo sát gần đây cho thấy, khoảng 80% khiếu nại, tố cáo của người dân liên quan đến đất đai, thậm chí có nơi tỷ lệ này là 90%.
- Bà Nguyễn Thị Bạch Mai, đại biểu Quốc Hội tỉnh Tây Ninh, nhận xét: Giá đất theo quy định hiện hành không đồng bộ, chỉ cách nhau một con mương, nhưng giá đất ở vị trí Sài Gòn giá cao hơn nhiều so với giá đất ở vị trí thuộc Tây Ninh. Vì mỗi nơi một kiểu nên người dân không đồng tình. Thu hồi đất là đụng đến sinh kế, nhưng một số địa phương đền bù theo kiểu ban ơn.
- Ông Nguyễn Hữu Nhơn, đại biểu Quốc Hội tỉnh Đồng Tháp nhận định: Chính sách bồi thường khi thu hồi đất chỉ mới chú trọng đến thiệt hại trước mắt về vật chất. Còn đời sống, việc làm của người dân về lâu dài ra sao chưa được quan tâm đúng mức. Có trường hợp thu hồi đất chỉ nhằm để giao cho doanh nghiệp kinh doanh, nhưng một số nơi lại nói là để thực hiện các mục tiêu quốc phòng an ninh để đền bù nên giá bồi thường bị sai lệch, người dân gần như mất trắng.
- Ông Trần Thế Ngọc, Thứ Trưởng Bộ Tài Nguyên Môi Trường xác nhận: Mỗi năm quỹ đất nông nghiệp ở Việt Nam mất thêm 50.000 héc ta. Tương đương 400.000 đến 500.000 tán lương thực, ảnh hưởng đến hàng trăm ngàn người dân. Một trong những nguyên nhân khiến quỹ đất nông nghiệp càng ngày ít là do thiếu quy hoạch vùng. Tỉnh nào cũng muốn làm khu công nghiệp này, khu đô thị nọ để thu hút đầu tư.
- Về chuyện này, ông Nguyễn Hữu Nhơn phê phán: Do chạy theo các chỉ số tăng trưởng nên muốn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, nhưng không có quy hoạch, cuối cùng xảy ra tình trạng chủ đầu tư chỉ đâu thì chính quyền địa phương thu hồi đất ở đó. Bất kể hậu quả là quỹ đất nông nghiệp vơi đi nhanh chóng. Mất sinh kế, hàng triệu nông dân gặp đủ thứ khó khăn. Đó là chưa kể tình trạng phát triển các khu công nghiệp trong khu vực sản xuất nông nghiệp đã khiến môi trường bị ô nhiễm trầm trọng.
(nguoi-viet online/09/07/08)

Về bồi thường và khiếu kiện

Xin ghi lại ít chuyện bồi thường thu hồi đất:
- Nữ đạo diễn Song Chi trong bài “Những Sự Im Lặng Đáng Sợ” viết: Những người nông dân nghèo từ những vùng nông thôn xa xôi lặn lội lên thành phố Sài Gòn, đem theo những tờ đơn khiếu kiện đất đai bị chiếm đoạt hoặc ép bán với giá đền bù giải tỏa rẻ như cho, mỗi mét vuông giá chỉ tương đương với 4 tô phở, sau đó lại được những kẻ khác bán lại với giá vài triệu đồng và nhiều lần hơn nữa. Những lá đơn trong tay họ nhàu nhĩ, đẫm mồ hôi và cả nước mắt. Họ cứ việc ngồi đấy hết ngày này qua ngày khác, ăn bờ ngủ bụi, mòn mỏi hy vọng có ai đó giải quyết cho. Rồi không ai giải quyết cả. Lá đơn lại được trả lại với lý do khiếu kiện vượt cấp, đem về tỉnh giải quyết. Tỉnh lại trả về huyện, huyện lại trả về xã là nơi chính quyền đã trực tiếp thi hành lệnh giải tỏa, cưỡng chiếm đất đai của họ.
(Doi-thoai.com/9/7/08)

- Luật sư Trần Lâm trong bài “Luật Đất Đai và Tam Nông” viết: Chị Dậu sau cải cách ruộng đất được làm chủ ruộng đất, vào hợp tác xã chị mất ruộng, hợp tác xã tan vỡ chị được tạm cấp ruộng, thành ra nửa có nửa không. Rồi đảng tuyên bố ruộng đất là của toàn dân, có người lại nói “Ruộng đất là của cán bộ”, cả hai câu khác chữ nhưng cùng một nghĩa. Nhớ lại “đất của vua chúa, đất của làng” là thế đó! Cái từ “Thu hồi” cũng là như vậy!... Đất “thu hồi” đền bù 23 triệu 1 sào (360m2), thế rồi đo, vẽ, lên dự án, rồi bán, rồi mua: 15, 20 triệu/m2, thế là công an và dân xô xát. Tự điển thêm một từ mới “dân oan”, công an thêm một nhiệm vụ mới: “Bảo vệ nhà đầu tư”.
(Doi-thoai.com/9/15/08)

Về dân oan và khiếu kiện


Quyền độc trị với chế độ vô luật, tham nhũng và sự tàn ác đã tạo nên thảm trạng dân oan. Thảm trạng này sẽ gia tăng theo thời gian, vì đất là tài sản của đảng (nhân danh hai chữ nhân dân tổng thể trừu tượng, chứ không có nhân dân cá thể mà chỉ đảng viên là hiện hữu cá thể) để đảng viên tự do làm ăn với tư bản, mà chương trình đầu tư nào (nhà máy, khu du lịch, sân golf, khu đô thị…) đều có phần chia chác. Tham quá tối mắt, nên mới có hiện tượng chủ tư bản chỉ đâu, quan Cộng Sản thu đất ở đó, mới có loại trách nhiệm “Nhiệm vụ của chúng tôi là phải phủ kín khu công nghiệp” mà Luật sư Trần Lâm, trong bài đã dẫn, đã nhắc lại lời tuyên bố của một quan đầu tỉnh với câu hỏi: Vậy có tính đến hiệu quả tốt hay xấu sau này? Luật sư Lâm hỏi như thế, còn chúng tôi thì coi đó như một thứ nhiệm vụ vùi dập nông dân để tạo ra nguồn dân oan.

Từ thập niên 1990 đến nay, dân oan và khiếu kiện đã trở thành một phần lịch sử của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ vô sản tiến lên tư sản. Vì là một phần lịch sử phản lại chế độ nên khó có thể ước lượng số dân oan mà chỉ thấy là hàng ngày, hàng tháng… lớp lớp dân oan lũ lượt kéo đến trụ sở tiếp dân tỉnh, thành phố, quốc hội, dinh chủ tịch, dinh thủ tướng, dinh tổng thanh tra…trương biểu ngữ tố cáo đích danh những ông quan tại địa phương: Bí thư, chủ tịch tỉnh, huyện, xã… cướp nhà, cướp đất và xin các quan trên đèn trời soi xét, cứu giúp. Nhưng bao lâu nay, dân oan đã ít khi tới gần được cổng dinh quan, vì bị lực lượng công an nhân dân ngăn cản xua đuổi. Trước mắt những ông quan vô sản thì đây là đám người gây rối mất trật tự, nhưng không thể bỏ tù và bắn bỏ, vì quá nhiều mà trong đó đa số là gia đình đã đi theo đảng Cộng Sản, đi theo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng, nên đã dùng sách Thời Gian và Trời Đất để trừng trị dân oan, vì chắc rằng sự kiệt sức, cạn tiền và bệnh tật của dân oan sẽ giúp họ đưa những lớp sóng khiếu kiện ra biển Đông.

Cứ nhìn vào hàng triệu nông dân đang tiếp tục mất đất và bị gạt qua bên lề nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ nhận rõ số phận dân oan đi khiếu kiện.

E. Nông dân Việt Nam ngày nay

Mấy tháng qua, vấn đề tam nông được đảng và báo chí quan tâm, nên đời sống của nông dân đã được chính thức phơi bày nhiều phần. Chúng tôi xin tóm tắt thực trạng đó như sau:

1. Nghèo và lạc hậu
- Ông Thành Trung trong bài “Hãy nghĩ tới miếng cơm của dân nghèo” cho biết về tổng quan, theo Ngân Hàng Thế Giới, Việt Nam có 13.5 triệu người sống nghèo khổ, trong đó có 5-6 triệu người nghèo lương thực. Căn cứ vào ngưỡng nghèo mới do Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội quy định năm 2006 thì mức thu nhập 260.000 đồng/người /tháng ở thành thị bị coi là nghèo, còn ở vùng nông thôn thì con số này là 200.000 đồng.
Theo ước tính của Viện Khoa Học Xã Hội, hiện nay có 7 triệu nông dân không có đất canh tác và tình trạng này sẽ tiếp diễn khi dân số ngày càng tăng kéo theo sức ép về việc làm trong nông nghiệp.
(Doi-thoai.com/26/2/08)

- Ông Nguyễn Huệ Chi trong bài “Mấy chữ “Cư Trần lạc Đạo” và vấn đề hòa gỉải – hòa hợp dân tộc” viết: Khoảng 60-70% nông dân lâm cảnh bần hàn, tệ hơn trước vì họ đã làm không đủ ăn lại sống trong một môi trường độc hại và ngày càng bị thu hẹp.
(Talawas.org/11/6/07)

Đó là những con số tổng quát, còn đi vào cụ thể thì ở miền Nam, ngoài cái nghèo của Khánh Bình Tây (Cà Mau) đã nói trên, xin ghi thêm ít điều của nhà báo Võ Đắc Danh qua cuộc nói chuyện với phóng viên báo Người Đô Thị, Nguyễn Thị Ngọc Hải:
Phóng viên: Anh viết nhiều về nông dân, vậy anh thấy đời sống họ có khá lên? Không lẽ họ không được hưởng lợi gì (dù ít hơn) trong cuộc chuyển đổi kinh tế và phát triển đất nước?
Nhà báo Võ Đắc Danh: Nông thôn nghèo hơn. Xơ xác. Chị thử đi một lần. Ra khỏi đường nhựa là nhà không ra nhà, người không ra người, bần cùng tăm tối. Tôi đã có làm phim tài liệu giữa rừng U Minh. Cảnh con nít mặt mày vằn vện ăn chuối luộc thay cơm, khán giả không cầm được nước mắt. Miền Tây thì những người không nhà cửa, sống trên ghe giăng câu thì nhiều.
(viet-studies.info/NTNgocHai_VoDacDanh.htm/11/1/2008)

Đó là cái nghèo, lạc hậu ở nông thôn miền Nam, còn ở miền Bắc thì Nam Đan trong bài “Lúng liếng là lung liếng ơi” đã ghi lại cảnh nghèo ở làng Diềm tỉnh Bắc Ninh như sau:
“Xe đỗ ở đầu làng. Hai đứa bé khoảng 4, 5 tuổi đang ngồi chơi thơ thẩn bên thềm nhà tò mò nhìn chúng tôi. Một đứa ở truồng khoe bụng vẫy tay chào rồi cười hồn nhiên. Hai bên đường làng là những ngôi nhà lợp ngói, tối và cũ kỹ. Dọc vệ đường, rơm rạ được bó lại từng bó để phơi. Người ta còn phơi rơm trên các mái nhà. Nhìn đâu cũng thấy rơm rạ, trước sân mỗi nhà có một ụ chất cao. Tháng này đang vào ngày mùa, mọi người đều bận rộn gặt hái nên đi suốt quãng đường tôi không thấy bóng dáng các thanh niên. Phân trâu bò vương vãi trên đường. Phảng phất trong không khí mùi phân ải, mùi rơm rạ, mùi đồng đất, mùi nắng gió… tất cả tổng hợp lại thành một mùi rất đặc trưng: “Mùi thôn dã” của đồng quê Bắc Việt. Cũng là nông thôn như nhau, nhưng khứu giác của tôi cho biết mùi thôn dã này khác hẳn với cái mùi mà tôi đã gặp ở đồng ruộng các tỉnh Nam bộ. Loa phát thanh chương trình tin tức, thời sự trong ngày vang vang trên cao, loáng thoáng những từ “chỉ tiêu”, “năng xuất” được lặp đi lặp lại nhiều lần. Một người đàn bà nặng nhọc kéo chiếc xe cút kít đóng thùng gỗ chất đầy rơm rạ, sau xe có một thằng bé đẩy giúp mẹ, hai mẹ con bước chậm từng bước, lưng gò xuống, những ngón chân bấu lại cố bám lấy mặt đường trơn, chiếc nón lá che sụp tầm mắt của chị.
Tôi có cái cảm giác thời gian trong ngôi làng này cũng lừ đừ lặng yên như dòng nước của con sông Đuống chiều nay. Một thứ thời gian ngầy ngật nặng nề như sau một cơn say mà con người không muốn ngồi dậy. Quang cảnh trong mắt tôi là một hiện thực không đổi của nông thôn miền Bắc Việt ở đầu thế kỷ trước mà tôi được xem qua phim ảnh. Yên bình nhưng trầm buồn. Và nghèo, nghèo quá! Tôi cảm thấy rợn trên da mình những ngọn gió thổi se sắt qua cánh đồng chiều mùa đông lạnh trong màn mưa chùng hiu hắt. Đồng chiều cuống rạ… (Thơ Hoàng Cầm).
(Talawas/10/3/08)

2. Sống dưới sự đe dọa
Phải sống trong cảnh nghèo, nhưng người nông dân còn bị nhiều thứ đe dọa bao quanh:

Thứ nhất là sưu cao thuế nặng:
Tháng 10 năm 2007, chính quyền công bố bãi bỏ tổng cộng 340 loại lệ phí (thuế) và hứa hẹn sẽ miễn các khoản thu phí về thủy lợi, an ninh quốc phòng, chống bão lụt, xây dựng điện, đường, trường, trạm. Với con số 340 loại phí cùng một loạt lệ phí khác, có lẽ khó có thể hình dung được là nông dân phải đóng bao nhiêu loại thuế và khi miễn mấy trăm thứ thuế này thì còn phải đóng bao nhiêu loại thuế nữa. Một bát quái trận đồ thuế khóa! Thu ra sao và kiểm soát thế nào?

Khi chính quyền Việt Nam công bố bãi bỏ 340 loại phí, Đài Phát Thanh Tự Do (Radio Free Asia) có liên lạc trực tiếp một số nông dân ở miền Nam để tìm hiểu tình hình thực tế về các khoản thuế, phí mà họ phải đóng hàng năm thì mọi người đều chung một tâm trạng vô cùng bức xúc với câu: “Đóng nhiều lắm. Mỗi năm đóng tùm lum hết và không biết đâu mà kể. Đóng hoài”.

Chuyện thuế rối rắm, nên người dân dùng tiếng “tùm lum”, còn ông Vũ Trọng khải trong bài “Thực trạng chính sách phát triển nông thôn hiện nay”, khi phê phán những nhà hoạch định chính sách đã làm theo ý thích chủ quan mà không căn cứ trên nghiên cứu thực tiễn, không nhìn vào cuộc sống của người dân, nên mới tạo ra thảm kịch “Một hạt thóc gánh 40 khoản phí”. Ông Khải chỉ dẫn cái tên bài phóng sự mà không nói rõ chi tiết, nhưng con số đó cho thấy rõ tiếng “tùm lum” đáng sợ của nông dân.

Thứ nhì là sự áp chế:
Để thấy cảnh sống này, xin dẫn ít lời của nông dân theo bản tin “Nông dân bức xúc vì phải gánh chịu hàng trăm khoản thuế phí khác nhau” của đài RFA (12/6/07):
- Bà Sếu, thuộc tỉnh Long An, nói: Ở khu vực này đều là dân nghèo không à, mần ngày nào ăn ngày nấy. Thì bây giờ tới khoản đóng tiền mà không có cũng phải chạy, không có thì nó mời.
- Một nông dân ở Tiền Giang nói: Cũng muốn lắm chứ, nhưng giờ đâu có ai dám nói. Nói người ta không có nghe đâu. Nó chỉ có cầm được tiền thôi. Cũng như mình bức xúc vì đóng nhiều tiền quá thì mình cũng nói lên. Mà mình nói lên thì nó nói sao mình chống đối, vậy đó.
- Một nông dân ở Long An nói: Người dân hồi nào tới giờ chịu quá nhiều cái đau khổ. Nghe đất nước hoàn toàn giải phóng mà người dân chưa được quyền gì tự do hết, chưa được quyền làm chủ cái gì hết. Cái gì cũng thuế má, quỹ, quỹ này quỹ kia đủ thứ, người dân chịu mọi mặt. Người dân mong muốn sự miễn giảm như thế nào về địa phương phải làm sao cho cán bộ nó thông suốt, chớ cán bộ rất là ăn hiếp dân.

Thứ ba là lo mất đất:
Việc nhà nước thu hồi đất cho khu công nghiệp, khu du lịch, khu đô thị, sân golf… trên khắp nước đã trở thành mối lo của nông dân. Để thấy cụ thể mối lo đó, xin trích ít điều trong bài “Mất đất, mất cả cơ nghiệp” của Đức Kế - Phong Cầm trên Tienphong online/23/05/08:

- Năm 1998, khi quốc lộ 1 A chạy qua địa phận Bắc Ninh hoàn thành và đưa vào sử dụng cũng là thời điểm mở đầu cho quá trình công nghiệp hóa của tỉnh này. Lúc đó, hàng chục xã được Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh chọn để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị. Và đương nhiên, việc thu hồi đất nông nghiệp với diện tích không nhỏ cũng diễn ra rầm rộ. Hiện nay trụ sở công ty, nhà máy, xí nghiệp mọc lên khắp nơi. Tốc độ đất đai bị thu hẹp diễn ra nhanh đế chóng mặt. Theo thống kê của xã này, từ năm 1999 đến nay, Hoàn Sơn đã bị thu hồi tới 260/390 ha đất canh tác nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp Tiên, Hoàn Sơn, Đại Đồng. Nhiều thôn trên địa bàn xã diện tích bị thu hồi lên tới 90 - 95%,, thậm chí một số hộ không còn tấc đất để cắm dùi.

- Anh Định, một nông dân ở thôn Đoài than thở: Cả nhà có 7 miệng ăn, chỉ trông chờ vào 1 mẫu ruộng. Thế mà nay gia đình tôi đã bị thu hồi tới 7 sào để cho các doanh nghiẹp xây nhà máy. Với 3 sào còn lại chắc chắn gia đình tôi sẽ không đủ ăn.

- Còn chị Nguyễn Thị Biển, thôn Giang Liễu ngậm ngùi: Cả nhà có 6 nhân khẩu với 1.2 mẫu ruộng, nay đã bị thu hồi hơn một nửa. Tiền đền bù (25 triệu/sào) đã nhận và tiêu hết vào việc xây nhà. Số ruộng còn lại vừa xấu vừa khó canh tác nên không thể thu hoạch mỗi vụ 3 triệu đồng như trước đây. Nghe nói, số ruộng này tới đây cũng sẽ bị thu hồi nốt nên gia đình tôi đang rất lo, không biết nay mai sẽ sống bằng gì?
Theo khảo sát của Sở Lao Động, Thương Binh và Xã Hội Bắc Ninh, việc thu hồi đất của tỉnh này thời gian qua đã tác động đến khoảng 43.000 hộ dân (chiếm khoảng 20% số hộ) với khoảng 220.000 người bị ảnh hưởng, tương đương ¼ dân số toàn tỉnh.

Thứ tư là môi trường ô nhiễm:

Trên 10 năm qua, nông dân nhiều vùng Bắc, Trung, Nam đã đụng phải nạn ô nhiễm môi trường độc hại. Nhưng chỉ mấy tháng qua, từ vụ công ty sửa chữa tàu biển Hyundai Vinashin thải hàng triệu tấn hạt nix thải, dầu nhớt, bụi bẩn, làm ô nhiễm môi trường vùng biển Khánh Hòa đến vụ công ty Vedan hủy diệt sông Thị Vải… báo chí Việt Nam mới rộn lên những bài phóng sự về vấn đề ô nhiễm môi trường và người dân mới biết là khắp Bắc Trung Nam, ở đâu cũng bị ô nhiễm. Xin tóm tắt một số sự việc từ báo chí Việt Nam nói về tình cảnh phải sống với ô nhiễm của người nông dân:
- Ông Lãng Quân trong bài “Nông thôn, một thùng rác đẹp” cho biết nông thôn ngày nay nhà nước đã bỏ lơ (hay đồng lõa) để cho những con buôn vô nhân đạo hoành hành. Vì thế nông thôn đã trở thành vùng đất tiêu thụ đủ các loại hàng độc hại: Với thực phẩm thì đó là những loại hàng sắp hết hạn sử dụng, hàng mập mờ quá đát, hay hàng ế, hàng thải, hàng lừa đảo. Với thuốc men thì đó là những loại hết hạn hay sắp hết hạn, người ta gọi đó là thuốc “nhà quê”.
(Vietnamnet.vn)

Ngoài thùng rác đẹp này, nông dân còn là nạn nhân của những dòng sông đã chết hay sắp chết do những công ty ngoại quốc và hàng chục ngàn công ty quốc doanh của đảng Cộng Sản thi nhau làm ăn vội vã (chỉ biết lập nhà máy và dùng sông để chuyên chở chất thải của nhà máy) tàn phá mà năm 2006, phúc trình của Liên Hiệp Quốc đã cho biết 10.000 cây số sông ngòi ở Việt Nam bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi các nhà máy sản xuất đã đổ chất thải độc hại ra sông không qua khử lọc. Đó là con số tổng quát, còn bây giờ thì những dòng sông đó đã được báo chí nêu tên như sông Hồng, sông Cầu, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Lừ, sông Sét, phá Tam Giang, những sông hồ miền cao nguyên Kon Tum, Pleiku, sông Vàm Cỏ Đông, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Tiền, sông Hậu… Quá nhiều bài báo nói về thực trạng ô nhiễm của các dòng sông, nên ở đây xin ghi lại mấy dòng sông tiêu biểu:

- Bài “Sông Nhuệ - Đáy ô nhiễm nghiêm trọng” trong Lao Động cuối tuần (9/12/07) đưa tin: Kết quả kiểm tra cho thấy sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét chảy qua Hà Nội đã ô nhiễm nghiêm trọng. Về nguyên nhân gây ô nhiễm, theo các cơ quan chức năng thì trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy đang có nhiều nguồn nước thải gây nên tình trạng ô nhiễm nước sông mà chỉ tính riêng Hà Nội đã đóng góp 54% lượng nước thải sinh hoạt của toàn khu vực, tiếp đến là Hà Tây với 17%. Số liệu thống kê cho thấy toàn lưu vực đang có khoảng 26.300 giường bệnh (trong đó Hà Nội chiếm tới 47%) thuộc hơn 1400 cơ sở y tế, với lượng nước thải y tế ước tính khoảng hơn 10.000 m3/ngày và nước thải bệnh viện không hề được xử lý mà đổ thẳng vào các dòng sông.
Đến nay toàn bộ lưu vực sông Nhuệ - Đáy có hàng ngàn doanh nghiệp công nghiệp, trong đó Hà Nội chiếm 67% số cơ sở. Hoạt động của các cơ sở này đã phát sinh nhiều chất thải (rắn, lỏng, khí) gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy đang có tới khoảng 6, 70% dân số toàn lưu vực sản xuất nông nghiệp đang gây ảnh hưởng đến môi trường nước do sử dụng phân bón và thuốc BVTV không đúng quy cách.

- Bài “Việt Nam là một quốc gia thiếu nước” đưa tin: Tại hội thảo, Sở Tài Nguyên Môi Trường tỉnh Đồng Nai cho biết một thông tin rất đáng ngại: Tại một số khu vực gần Biên Hòa, nước sông có hàm lượng coliform vượt chuẩn từ 186 đến 920 lần, có nơi đến 1860 lần! Xem ra so với sông Sài Gòn, sông Đồng Nai cũng chẳng “mạnh khỏe” hơn bao nhiêu.

Nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng hệ thống sông Đồng Nai? Các cơ quan chức năng cho biết mỗi ngày sông Đồng Nai phải tiếp nhận khoảng 60.000 m3 nước thải từ các cơ sở sản xuất phân bổ trong 24 khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đó là chưa tính lượng nước thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài khu vực công nghiệp. Hầu hết lượng nước thải ấy lại thải trực tiếp mà chưa qua xử lý.

Tình hình trên sông Thị Vải lại ảm đạm theo một hướng khác: Đây là con sông ô nhiễm nhất hệ thống (cũng do phải hứng nước ô nhiễm từ các khu công nghiệp dọc hai bên bờ) đến nỗi có cả một đoạn dài trên 10 km, từ hợp lưu Suối Cả - Thị Vải đến khu công nghiệp Mỹ Xuân đã biến thành đoạn sông chết.
Xét sơ sơ trên hai con sông lớn thuộc hệ thống sông Đồng Nai là thế. Còn trong tổng thể, toàn hệ thống sông Đồng Nai đều mỗi ngày vẫn phải tiếp nhận khoảng 1.73 triệu m3 nước thải sinh hoạt. Trong lượng nước thải khổng lồ này, các chuyên gia xác định có đến 702 tấn cặn lơ lửng, 756 tấn COD, 421 tấn BOD5, nhiều vi trùng gây bệnh và các tác nhân gây ô nhiễm khác. Dự kiến đến năm 2010, hệ thống sông Đồng Nai còn tiếp nhận thêm khoảng 1.54 triệu m3 nước thải công nghiệp với nhiều chất độc hại, kim loại nặng…
(Laodong online/2/7/08)

- Ông Kiến Giang trong bài “Cần Thơ: Công khai bức tử sông Hậu” cho biết tháng 3/2008, hội thảo “Khoa học phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất khu vực đồng bằng sông Cửu Long: Triển vọng và thách thức”, tổ chức tại Long An đưa ra con số thống kê: Đồng bằng sông Cửu Long có 113 khu - cụm công nghiệp với 12.757 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên diện tích khoảng 24.000 ha đất, mỗi năm thải 42.7 triệu m3 nước thải công nghiệp, 220.000 tấn rác thải công nghiệp. Các khu công nghiệp này cạnh sông Tiền, sông Hậu và đến nay chưa có khu công nghiệp nào có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
(Tienphong online/29/9/08)

3. Tương lai vô định

Trong cái nghèo với đời sống bất ổn, người nông dân nghĩ gì về nghề nông với xóm làng? Câu hỏi này khó có có thể trả lời một cách rốt ráo, nhưng có thể hiểu phần nào qua cuộc hội thảo về tam nông và một số bài báo nói về chuyện tam nông là hiện nay có nhiều nông dân chán ruộng, chán quê.

Về chán ruộng, hai nhà báo Đức Kế - Phong Cầm, trong bài “Làm quần quật, mỗi ngày được 1 bơ gạo” viết: Muôn đời nay, người nông dân gắn liền với con trâu, cái cày, thửa ruộng. Thế nhưng, vài năm trở lại đây, lại không ít địa phương trên cả nước, hiện tượng người dân chán ruộng “ly nông” và “ly hương” ngày càng nhiều. Riêng ở Thái Bình, hiện tượng người dân đất lúa Thái Bình bỏ hoang hoặc trả lại ruộng cho hợp tác xã bắt đầu diễn ra từ năm 2003, nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Theo giải thích của ông Bùi Công Trứ, phó bí thư đảng ủy xã Tân Hòa, nguyên nhân bà con nông dân bỏ ruộng là do thu nhập từ nông nghiệp quá thấp, nhất là giá vật tư nông nghiệp như đạm, lân, kali, thuốc trừ sâu… tăng vùn vụt, quá sức chịu đựng của người dân.

Ông Đào Trọng Thu, một nông gia xã Vũ An cho biết: Tổng chi phí đầu vào cho 1 sào khoảng 500.000 đồng. Nếu được mùa, mỗi sào (360 m2) cho thu hoạch 3 tạ thóc, với giá 520.000 đồng/tạ như hiện nay thì được 1.560.000 đồng. Trừ cho phí đầu vào còn lại 1.060.000 đồng. Số tiền này chia cho 180 ngày (đất hai vụ lúa, mỗi vụ 6 tháng) thì mỗi ngày công của người dân chưa được 6000 đồng. Đối với các hộ dân không có tư liệu sản xuất (trâu bò, máy tuốt lúa) thì con số này chỉ khoảng 3000 đồng, tương đương 6 lạng thóc (hơn 1 bơ gạo). Trong khi đó, một ngày công phụ hồ xây dựng cũng được 20.000 – 25.000 đồng (kèm bữa ăn trưa). Chính vì thế người dân khắp nơi bỏ ruộng đi làm thuê. Theo một thống kê chưa đầy đủ, hiện trung bình mỗi xã trong tỉnh có từ 500 đến 700 lao động nông nghiệp thường xuyên đi làm ăn xa. Do đó, lực lượng lao động làm nông nghiệp trong tỉnh chủ yếu là người già và trẻ em.
(Tienphong online/22/5/08)

Còn chuyện nông dân chán quê thì Luật sư Trần Lâm trong bài đã dẫn ở phần trên, viết: “Từ lâu, sinh đẻ có kế hoạch bị quên lãng. Dân số nông thôn tăng đột biến, ruộng đất ít, không nghề phụ, sau mùa cấy gặt, không có việc làm. Trường học phổ thông sừng sững khắp nơi. Chất lượng thật yếu kém: Phạm Văn Đồng đã nói từ những năm 60, thế kỷ trước “Có một thìa đường mà pha đến ba cốc nước thì uống làm sao được”. Trừ các làng nghề, không có nơi nào có trường dạy nghề. Số thanh niên vào nhà máy có vốn nước ngoài đa số là nữ, lao động 12 giờ/ngày, đói khổ, cái “xóm không chồng” của thanh niên xung phong trước đây như đang chờ đón các em. Số khác kiếm sống bằng mọi cách, đi khắp nơi. Có người đọc các báo của công an thốt lên: Sao mọi tệ nạn, mọi tội phạm toàn thấy thủ phạm là các em ở nông thôn ra tỉnh”.

Chuyện chán quê không phải chỉ tìm đường lên thành phố mà còn tìm đủ cách vươn xa hơn là ly hương ra nước ngoài. Hàng chục năm qua, mấy trăm ngàn người đã tới được các nước Đại Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai…, nam thì làm lao động chân tay, nữ thì làm người ở, làm nô lệ tình dục… Và hàng năm, Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội đã rất vui khi công bố những hợp đồng xuất khẩu lao động.
Nửa thế kỷ làm cách mạng xã hội chủ nghĩa giải phóng nông dân để đến nay, theo nhận định của Luật sư Trần Lâm thì “mọi người phấn đấu để con cái ly nông, ly hương, coi như mục đích tối cao của cuộc đời”.

(còn tiếp)

No comments: