Tuesday, November 11, 2008

DI TẢN (Phần 1)

Di tản
Huỳnh Ngọc Tuấn
Đăng ngày 19.10.08
http://danchimviet.com/articles/531/1/Di-tn-1/TrangPage1.html

Tin Buôn Mê Thuột thất thủ đã phủ một bóng đen lên toàn bộ cuộc sống. Chiến tranh hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc. Chiến tranh là đề tài của tất cả mọi người. Người ta nói về chiến tranh ở quán càfê, ở quán ăn bên vỉa hè, trên bàn ăn của mỗi gia đình, ở chợ và ở cả trường học.
Trường của Tín nhìn bên ngoài vẫn không có gì thay đổi, họ vẫn đi học, vẫn diện thật đẹp: đồng phục thẳng nếp, dày da bóng loáng, đồng hồ đắt tiền. Các thầy cô vẫn lên lớp nhưng có vẻ trầm tư hơn. Những thầy trước đây vẫn hay la hét bây giờ trở nên dịu dàng và lặng lẽ. Tín nhìn thấy nơi đôi mắt các thầy cô một ánh nhìn âu lo và sầu thảm. Kỉ luật đã trở nên lỏng lẽo từ bao giờ mà chẳng ai hay. Những giờ dạy học được cắt ngắn ở mọi môn học. Thầy cô dành nhiều thời gian để nói chuyện với nhau. Trong giờ học, nếu có ai đó mất trật tự thì cũng được nhắc nhở nhẹ nhàng và qua quýt. Thầy cô chẳng còn để tâm đến với tiết học. Đối với anh, đó là một sự yên lặng rất khó hiểu. Nhưng giờ công dân vẫn như mọi ngày, cuối tiết học nào thầy T.S.X cũng dành thời gian cho các đề tài thời sự, chỉ khác là bây giờ năm phút thời sự đã kéo dài thành ba mươi phút. Hôm nay, thầy nói về chiến sự xảy ra ở những điểm nóng và phê phán lớn tiếng chính quyền bất lực, tham nhũng và dối trá. Thầy chỉ trích hệ thống tuyên truyền và thông tin của chính phủ, coi thường công luận: chiến sự xảy ra ở đâu thì cũng “địch quân thiệt hại nặng, quân ta hoàn toàn vô sự”. Rồi ông lên án ông Tỉnh trưởng này, Thị trưởng kia ăn cướp của dân.

Thầy nói:
- Người nông dân thì bánh tráng cuốn thịt heo, còn các quan chức thì tole quấn ximăng. Những nhà lãnh đạo quân đội thì bất tài, không hiểu gì về binh pháp. Thông tin tình báo thì mù tịt, bất cập, không nắm hiểu ý đồ chiến thuật của địch. Buôn Mê Thuột mất chính là biểu hiện sự bất tài bất lực của những nhà lãnh đạo quân đội.

Rồi thầy đả kích nước Mỹ bán đứng Việt Nam Cộng Hoà, đâm sau lưng, hi sinh Việt Nam Cộng Hoà vì chiến lược toàn cầu của Mỹ. Tất cả những gì thầy nói, họ chẳng hiểu gì và cũng không quan tâm gì mấy. Họ chỉ mến thầy ở sự sinh động, cởi mở; kính trọng thầy vì kiến thức và tác phong sư phạm. Lúc ấy, Tín thật sự không hiểu : Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam, sự hưng vong của đất nước, của dân tộc Viêt Nam là trách nhiệm của những người lãnh đạo chính phủ, của chế độ, tại sao lại đổ tất cả lên đầu người Mỹ, người Mỹ quan trọng đến thế sao?!. Còn sứ mệnh và trách nhiệm của chính quyền Việt Nam ở đâu? Thoáng nghĩ vậy thôi, chứ anh vẫn biết mình chỉ là một thằng nhóc, thì hiểu cái gì !

***

Ở trường về, ăn cơm xong, Tín vẫn đi chơi như mọi khi. Nhưng phố xá yên lặng hơn. Trên đường phố, nhiều người trở nên ủ dột, nét mặt đăm chiêu. Họ mua hàng nhiều hơn để dự trữ, phòng khi chiến tranh kéo đến. Những quán cà phê, quán nhậu, người ta mở nhạc nhỏ hơn và cũng vắng khách hơn. Tín đến nhà một thằng bạn nhà giàu - nhà kín cổng cao tường, bấm chuông và chờ đợi. Tường (tên thằng bạn) ra mở cửa. Không như mọi khi, nó nói rất khẽ :
- Vào đi.

Vẻ mặt nó đăm chiêu. Tín cũng hiểu một phần nhưng vẫn hỏi:
- Mày làm sao vậy? Có vấn đề gì sao?

Nó trả lời, giọng trầm xuống. Cái kiểu cách này Tín chưa gặp ở Tường bao giờ, nhưng đã gặp nhan nhản ở ngoài kia, trên nét mặt của những người lớn.
- Không phải tao mà ông già tao. Ông đang tính chuyện thu gom tài sản và di tản.

Tín thấy mọi việc đã vượt quá tầm suy nghĩ của mình. Tín linh cảm mọi cái bắt đầu rạn nứt: trường học, bạn bè và còn gì nữa đây. Những trật tự và những quan hệ đã trở nên trục trặc. Người ta bắt đầu có những dự kiến đau xót và đầy rủi ro, bất trắc.
- Nhưng đi đâu bây giờ? Chiến tranh ở mọi nơi.

Tường vừa đi vừa nói:
- Đi Mỹ. Ông già tao định bán hết tài sản ở Sài Gòn, Đà Nẵng, rút tiền ở ngân hàng và đi Mỹ. Tao có anh và chị đi học ở bên đó, và đã trở thành công dân Mỹ từ năm 70. Anh chị tao sẽ thu xếp cho gia đình tao sang định cư tại Mỹ.

Họ ngồi đối diện nhau trên ghế đá. Có rất nhiều ghế đá được đặt dưới tán cây. Một khoảng vườn đẹp và êm ả của những buổi chiều yên bình trước đây - nơi tụ họp của bạn bè. Bây giờ chỉ có Tín và Tường. Họ có cảm giác như khoảng vườn rộng ra. Và cái cảm giác hiu quạnh của buổi chiều như giãn ra choáng ngợp cả không gian. Tường không còn sinh động như trước đây. Thay vào vẻ nghệ sĩ và khoáng đạt là nét trầm tư và đau khổ. Tín nghĩ anh có thể hiểu nỗi đau của Tường. Được sang định cư tại Hoa Kỳ trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và đầy bất trắc này thì đó là ước mơ không dám nghĩ tới của đại đa số dân Việt Nam. Nhưng đối với Tường giờ đây, đó là một nỗi đau và cuộc chiến tranh này là một cơn ác mộng… Nỗi đau đó là Hạnh, một cô gái đài các và tuyệt đẹp. Tường vào nhà mang ra hai lon nước trái cây mát lạnh và cây đàn ghita. Tín uống một ngụm nước, mùi thơm quen thuộc mà anh rất thích, bây giờ trở nên nhạt nhẽo. Lon nước mở nắp để trên mặt bàn đá, những giọt nước đóng quanh lon chảy thành dòng nhỏ đã làm ước mặt bàn, nhưng Tường giờ đây như quên hết mọi thứ. Cây đàn ghita hững hờ trong tay Tường, đôi mắt xa xăm. Khu vườn vẫn yên tĩnh lạ thường. Không một nốt nhạc vang lên trong chiều nắng vàng thơ mộng. Những chiếc lá vàng rơi đầy vườn không ai buồn quét. Chậu quỳnh thật đẹp dưới gốc vương vãi mấy đoá hoa tàn đã héo nhàu, không ai chăm sóc. Sự lịch lãm của chủ nhân được thể hiện qua từng viên đá, từng nét uốn lượn của những cây xương rồng, từng vị trí của mỗi chậu hoa. Nhưng nét chăm chút gọt tỉa của cây bonsai đã có sự xao lãng vô tình. Tường cứ ngồi như vậy: ủ dột và buồn bã, không còn che dấu nữa. Tín không muốn kéo dài sự yên lặng này. Sự yên lặng làm nặng trĩu bầu không khí và cả những tán cây trong vườn.

- Mày đã nói việc này với Hạnh chưa?
- Rồi. Tường trả lời mà không nhìn Tín. Ánh mắt Tường nhìn ra xa xăm.
- Vậy Hạnh phản ứng thế nào?

Duỗi dài đôi chân, ưỡn người một chút, Tường có vẻ mỏi mệt. Mái tóc gợn sóng, dáng người cao lớn, cái dáng vẻ nghệ sĩ và đầy ấn tượng đó. Tín nhìn và nghĩ thầm: Tường là một người mà Trời ban cho rất nhiều may mắn. Gia đình giàu có bật nhất trong tỉnh, đẹp trai và học giỏi với rất nhiều tài năng, một giọng hát tuyệt vời. Nhưng điều làm anh yêu mến nhất ở Tường là sự nhạy cảm và tấm lòng nhân hậu.

- Còn phản ứng thế nào đây? Chỉ có khóc và khóc. Tối qua, tao có đến. Hạnh gầy đi rất nhiều. Tao không biết phải làm thế nào đây?! Tao là đứa được mẹ yêu mến nhất, là báu vật của mẹ. Như mày biết đó, không có tao bên cạnh mẹ sẽ không sống được. Bệnh tim của mẹ mỗi ngày một nặng. Lần này sang Mỹ là cơ hội để chữa bệnh cho mẹ tao. Nếu mẹ không ở trong tình trạng như vậy tao sẽ xin phép ba mẹ cho tao ở lại. Không có Hạnh, tao sống cũng như chết và Hạnh cũng vậy thôi. Không biết sẽ như thế nào đây, nếu tao đi Mỹ. Tao sợ Hạnh héo hon mà chết mất. Hạnh mảnh mai như một đoá hoa quỳnh, chịu sao nổi. Tao không biết, người ta nghĩ gì, mưu cầu điều gì mà cứ lao đầu vào chiến tranh, húc hết chỗ này đến chỗ khác. Họ có chịu hiểu những người trẻ như mình mong muốn điều gì ở họ, ở tương lai? Họ hiểu là chúng ta cần cái gì không? Đó là hoà bình, để cho chúng ta được sống tự do với tư cách là một con người. Chúng ta được sống với số phận của chính chúng ta, chứ không phải là sự áp đặt của người khác.

Tín không ngạc nhiên gì khi nghe những lời tâm sự đó, vì chính anh cũng nghĩ như thế, và thế hệ của họ đều nghĩ như thế. Bình thường, Tường đã ăn nói lưu loát và đầy suy tư, nhưng cuộc chiến này đã làm cho Tường già dặn hơn và đau khổ hơn. Họ - mỗi người theo đuổi sự suy nghĩ của mình.

Có tiếng chuông ngoài cửa. Tín nhìn khu vườn yên tĩnh, cây ngọc lan già nua với những đoá hoa trắng muốt và thơm ngát là quà tặng của họ cho các bạn gái để tỏ ra”gallant” một thời; khóm trúc sau vườn mà họ vẫn làm cần câu cá những ngày hè trên cầu ao, những con cá bạc lấp lánh và những tiếng cười tự nhiên đầy thán phục của mấy cô bạn gái mỗi lần một chú cá vô phúc bị mắc câu và giãy đành đạch trong giỏ; và cây mai giữa vườn mà cứ mỗi lần Tết đến Tường tặng chúng bạn mỗi đứa một cành, đến nổi nó mang thương tích đầy mình. Nhưng thật lạ, trong cái vẻ tiều tuỵ và đầy thương tích nó lại đẹp lạ lùng.Tín ngước nhìn mấy cây mận đã từng gắn bó với họ trong những ngày hè nóng bức. Những trái mận vừa chua vừa ngọt, mọng nước chấm với muối ớt thật cay.…Tất cả những gì ở đây, trong khu vườn này, Tường cùng với người cha uyên bác và người mẹ nhân hậu, từ lâu đã trở thành một phần của tuổi thơ họ, và nơi đây là thiên đường nhỏ của anh. Bất giác, Tín thấy nhói đau trước cái viễn cảnh Tường sẽ ra đi, ngôi nhà này sẽ thuộc về một người nào đó xa lạ; và những cây mận, cây mai, ngọc lan không còn là những người bạn, chúng sẽ trở nên xa lạ. Anh chợt mường tượng :mỗi lần đi ngang qua, nhìn vào ngôi nhà, khu vườn vẫn gần gũi và thân thiết nhưng lại thuộc về người khác, sẽ không còn nghe thấy tiếng đàn ghita và giọng hát trầm ấm của Tường. Ở xứ người, Tường có còn hát: Ướt mi, Hoài Cảm…. nữa không? Còn nếu hát thì hát với ai, cho ai nghe? Có thể Tường sẽ có mối quan hệ khác với ai đó. Nhưng nơi đây, cái xứ sở nghèo nàn và đầy đau khổ vì chiến tranh này mới thực sự là thiên đường của họ.

Một bàn tay đặt nhẹ lên vai Tín. Nụ cười vẫn rạng rỡ như mọi ngày, Hưng đã đến tự bao giờ:
- Tụi mày sao mà thiểu não vậy. Đã chết đâu, chuyện gì đến nó sẽ đến, cứ vô tư mà sống.

“Cứ vô tư mà sống”, liệu có được không đây? Khi chiến tranh mỗi ngày một ác liệt, sự tàn phá mỗi ngày mỗi lớn, cầu cống, đường sá bị đổ nát. Thây người đẫm máu, tổn thất nhân mạng cho cả hai bên và nhiều nhất vẫn là dân chúng. Sự đảo lộn lớn đến nỗi con người chưa kịp lấy lại sự cân bằng thì lại đảo lộn, mỗi ngày một rối tung lên. Còn những chia cắt trong các mối quan hệ, những tình cảm thương yêu máu thịt, thì có dễ dàng, bình thản được không? Những nỗi đau quằn quại. Người nối tiếp người ra đi mà chẳng biết còn có một ngày gặp lại không. Rồi những ước mơ, dự định về một hạnh phúc, một “thiên đường” tưởng như rất thực ngày hôm qua, bây giờ chỉ còn là một lâu đài trên cát. Một ánh mắt nồng nàn, một vẫy tay lưu luyến ngày hôm qua đã mãi mãi trở thành kỉ niệm. Những con người trẻ trung và ngây thơ có đủ khả năng chịu đựng không, và những vết đau đó sẽ để lại cái gì trong lòng họ, sẽ biến họ thành con người như thế nào?

Tín hỏi Hưng, thay lời chào:
- Mày biết hết rồi phải không? Trước cả tao, phải không?
- Tất nhiên rồi. Nhưng tao thấy quyết định ra đi của gia đình Tường là hơi vội vàng. Biết đâu mọi chuyện lại ổn thoả, quân đội sẽ tái chiếm, lập lại an ninh, và những người cộng sản sẽ thực hiện hiệp định Paris, lập lại hoà bình và tổng tuyển cử.

Tường cười một cách cay đắng:
- Những người cộng sản họ đâu có nghĩ như mày. Mục tiêu của họ là “giải phóng” miền Nam bằng vũ lực. Mày cũng ấu trĩ như một số nhà chính trị của cánh trung lập .

Hưng cười một cách hồn nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tín thèm muốn sự vô tư ấy, nhưng không phục sự vô tư, dễ dãi đó .
- Mày và thằng Tường thuộc cánh nào: chống cộng, thân cộng hay trung lập .
- Tao chẳng thuộc cánh nào hết. Nhưng theo sự phân tích của một số người am hiểu thời cuộc thì Việt Nam Cộng Hoà sẽ thất bại vì bị Mỹ bỏ rơi .
- Chưa chắc, biết đâu đó là đòn “hồi mã thương”của Mỹ. Nếu Mỹ đổ quân trở lại thì sao ?

Tường cười chua chát:
- Đừng nằm mơ, người Mỹ họ không đặt chân vào vũng lầy này nữa đâu. Tao nghe ba tao nói đây là môt phần của kế hoạch toàn cầu. Họ chấp nhận thua một trận đánh để thắng trong cả cuộc chiến .

Tín tham gia vào cuộc tranh luận :
- Nhưng nếu như ba Tường nói đúng thì Mỹ cũng không phải là kẻ mạnh và việc bỏ rơi một đồng minh cũng làm hoen ố hình ảnh của nước Mỹ. Bỏ rơi Việt Nam thì còn có đồng minh nào dám gắn bó vói nước Mỹ nữa.

Tường lại chua chát :
- Nhưng đồng minh như thế nào đây? Việt Nam và Mỹ là quan hệ giữa một siêu cường và một nhược tiểu .

Tín nhận thấy tất cả bọn họ đã lớn, đã trưởng thành từ lúc nào không biết. Thời cuộc làm cho con người già trước tuổi chăng? Họ thấy trên tivi và báo chí hằng ngày vẫn diễn ra những cuộc biểu tình khắp cả nước, nhất là ở Sài Gòn - Huế, các cô cậu học sinh - sinh viên còn non choẹt hùng hổ giơ cao nắm đấm, miệng hét thật to: ”Chống tham nhũng, đòi hỏi hoà bình, thực hiện hiệp định Paris”. Tín thấy lạ lùng và khó hiểu, chống tham nhũng thì đúng rồi nhưng đòi hoà bình thì không thể nào hiểu nổi, chiến tranh thì ác liệt, Việt Nam Cộng Hoà giờ vào thế thủ - thế phòng ngự chứ đâu có tấn công, hoà bình đâu có ở trong ngăn kéo các nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà đâu. Anh giật mình, nhìn lại chính mình. Ở cái tuổi đầy nhiệt huyết này, việc gì cũng dám làm nhưng không khéo sẽ mắc sai lầm biến thành con tốt trong thế cờ định trước. Tốt hơn hết là nên học, nên yêu. Tình yêu sẽ làm cho tuổi trẻ nhân hậu hơn và hiểu về tha nhân hơn.

Tín nói nhưng không tin lắm vào những gì mình nói:
- Biết đâu chỉ thời gian nữa thì trật tự sẽ được tái lập. Mọi việc sẽ tốt đẹp như cũ, tụi mầy có thấy năm 1968? Nghe tao đi, mọi việc rồi sẽ qua thôi.

Tường nói có vẻ ưu tư và buồn bã:
- Năm 1968 khác, bây giờ khác. Năm 1968, chúng ta còn có quân đội Mỹ, với hoả lực áp đảo và tại Hoa Kỳ chúng ta còn được ủng hộ. Bây giờ thì người Mỹ đã ra đi, sự ủng hộ tại Quốc hội cũng như dân chúng Mỹ không còn. Lần này thì chết chắc rồi.

Tín thấy thương Tường quá và nhận ra Tường am hiểu hơn anh nhiều. Bóng đèn trong mấy lùm cây bật sáng. Tín biết đã trễ. Bây giờ, anh nhận ra có mùi hương gì đó quen thuộc của khu vườn khi về đêm. Nó mơ hồ và bàng bạc, gần gũi và xa vời, có lẽ là một chút hương ngọc lan toả ra từ lùm cây rậm rạp pha lẫn với mùi hoa lài, hoa ngâu cùng với nhiều thứ hoa khác sống lặng lẽ ở đâu đó. Họ chia tay. Tường vẫn tiễn Tín và Hưng như mọi lần ra đến đường phố. Phố đã lên đèn. Cái thị xã nhỏ bé và thơ mộng, khiêm tốn và thân thương, hiền hoà như một thiếu nữ con nhà gia giáo: không nổi bật, không rực rỡ, nhưng anh thấy không nơi nào đẹp như nơi đây. Tuổi thơ của anh và các bạn lớn lên nơi đây, gắn bó như máu thịt. Nếu vì một lý do gì đó phải ra đi, thì suốt đời khắc khoải nhớ mong, suốt đời hoài vọng.

Tín chia tay với Hưng… Khi về đến nhà, mọi người đang quay quần bên bàn ăn. Tín thường đi chơi về muộn nên mẹ anh cũng không lo lắng gì. Tín lặng lẽ ngồi vào bàn. Bữa cơm vẫn ấm cúng và sung túc nhưng mọi người có vẻ trầm ngâm. Anh biết mọi người đang nghĩ gì, cũng là chiến tranh sắp đến chỗ họ và một tương lai đầy bất trắc, không ai ăn được nhiều. Trong nhà, ba Tín là người lo lắng nhất. Cả đời ông vất vả, cuộc sống đang yên lành, tương lai đang mở ra với họ, tất cả con cái ông đều học giỏi. Ông đang chuẩn bị tiền để xây lên một tầng, có chỗ cho mấy người con nghỉ ngơi và học tập. Bây giờ thì phải đình lại hết. Trong ba đứa con, ông hi vọng ở Tín nhiều nhất. Anh muốn trở thành luật sư và ông ủng hộ anh. Ông luôn tạo điều kiện tốt nhất để anh học tập. Ông không nói nhưng Tín biết ông rất hoang mang vì mấy ngày nay ông trở nên dễ dãi lạ lùng. Bình thường, ba anh rất nghiêm khắc và hay phạt con mỗi khi phạm lỗi. Còn bây giờ ông không để ý đến lỗi lầm của con cái nữa. Hình như ông linh cảm thấy một điều gì đó sắp xảy ra và làm thay đổi mọi thứ. Ông không còn tự tin vào bản thân mình nữa.

Đêm hôm ấy, lại xảy ra một cuộc giao tranh nhỏ. Đơn vị nghĩa quân đóng gần để bảo vệ cây cầu và tuyến đường chạy về vùng duyên hải và cả nhà máy điện nữa. Tín nghe có tiếng B40 nổ rất gần. Những tiếng nổ chát chúa có sức uy hiếp lớn. Tín nhanh chóng và thành thạo lao xuống giường và chui vào hầm trú ẩn. Chỉ một lát, cả nhà đã đầy đủ trong hầm. Ngọn đèn dầu nhỏ với ánh sáng mờ mờ, anh chọn chỗ thuận lợi để nhìn ra ngoài qua cửa hầm. (Tín vẫn thích như thế từ lúc còn bé). Cứ mỗi lần có đánh nhau là Tín được thưởng thức cái cảm giác vừa lo sợ, vừa thích thú của trẻ con. Ngoài kia, trong những tiếng hỗn loạn của nhiều loại vũ khí từ hai bên, Tín nhìn thấy qua một khoảng không gian hẹp, những tia chớp sáng loè nối tiếp nhau. Ánh sáng lân tinh của hoả châu mờ mờ và ma quái. Tín lắng nghe và hình dung những tiếng rít xé bầu không khí của vô vàn những viên đạn, dệt thành một mảnh lưới cuả thần Chết. Cuộc đọ súng kéo dài khoảng 2 giờ đồng hồ, rồi dịu đi. Không còn những tia chớp sáng loè xé bóng đêm, chỉ còn những tiếng nổ rời rạc. Tín rất buồn ngủ nhưng không sao ngủ được. Cái mùi ngai nhái và ẩm mốc của đất và xi măng làm anh khó chịu, cùng với tiếng muỗi vo ve khắp gian hầm. (Tuy mẹ anh đã cẩn thận dùng thuốc chống muỗi). Tín nằm co chân lên vì không có đủ chỗ cho đôi chân khá dài của mình, anh nằm chờ trời sáng… Ngoài kia trời đã tờ mờ sáng. Chung quanh thật im ắng, nhưng anh đã quen với tất cả những điều này. Đó là cuộc sống của họ. Tín nhìn ra ngoài nhưng mẹ không cho, vậy là phải nằm co ro chờ đợi. Tín đã thiếp đi lúc nào không biết và giật mình tỉnh dậy khi nghe thấy những tiếng người hỏi thăm nhau. Những người lớn tuổi thường đi thăm hỏi xóm giềng để biết có tổn thất gì không? Tín ăn vội chén cơm chiên bơ - kiểu ăn điểm tâm của những gia đình không mấy giàu có ở thành thị và chạy nhanh ra ngoài. Nhiều người đi trên đường vẻ mặt hớt hải, anh biết đã có việc chẳng lành xảy ra. Đi theo một đám người trong xóm, anh đến nhà một người quen, tuy không thân lắm. Tiếng khóc của người mẹ nghe ai oán. Tiếng nức nở của hai đứa trẻ con làm anh hơi hoang mang. Tín vào nhà thấy nhiều người vây quanh chiếc giường tre đã cũ. Nằm trên giường là một thiếu nữ như đang ngủ say. Mái tóc cô gợn sóng, dài và đen nhánh xoã trên gối. Một mái tóc thật đẹp, đẹp hơn cả mây trời mùa thu, Tín thầm nghĩ vậy. Làn da trắng nõn, và hồng hào, đôi môi mọng đỏ và thật quyến rũ. Gương mặt cô còn hơi trẻ con nhưng quí phái. Tín mang máng nhớ cô bé này giống ai đó, à đúng rồi - Chân Trân một nữ diễn viên Hồng Kông. Cô bé này anh không dám mơ ước, tuy cô và anh ở cùng xóm. Nhà anh cách nhà cô chỉ vài nóc nhà. Họ vẫn thường hay gặp nhau. Vẻ tinh nghịch đáng yêu của cô đã làm tan chảy trái tim của biết bao chàng trai. Cô bé nằm trên giường, đắp tấm chăn mỏng, vết thương rất nhỏ nơi ngực hơi rỉ máu. Tín cảm thấy đau nhói, và trong trái tim còn trẻ con ấy dấy lên một sự bất bình. Cô gái đó là một tác phẩm tuyệt vời của Tạo Hoá - hiện thân của cái đẹp ngàn đời - lại bị huỷ hoại bởi một mảnh đạn nhỏ bé, xấu xí và ngu xuẩn. Cô đã ra đi đột ngột giữa lúc cha cô đang đi làm xa không một lời từ biệt với người cha kính yêu. Tín thấy cay đắng và bất lực. Anh cảm thấy một cái gì đó đang nghẹn lại trong cổ họng. Thân phận con người thật yếu đuối và mong manh. Anh bỗng muốn đi tu quá. Chắc Đức Phật từ bi hiểu được lòng anh.

Tín ra về như một kẻ mất hồn, nhưng lại bị cái đám đông ở cuối con phố cuốn hút, rồi quyết định đến đó để chứng kiến cái cảnh bi thương của con người và bộ mặt xấu xa tàn ác của chiến tranh. Người ta đem từ lô cốt ra một người lính trẻ. Anh ta rất trẻ khoảng 24-25 tuổi. Mái tóc cắt gọn gàng và khá đẹp. Anh ta khá bảnh trai, nhưng nhìn kỹ thì biết anh xuất thân từ nông thôn. Gần đó, người mẹ của anh - một người đàn bà cao lớn và hơi thô - bà khóc như điên như dại, ôm xác đứa con bê bét máu. Anh ta bị trúng đạn ở nhiều chỗ qua, chỉ có khuôn mặt là còn nguyên vẹn. Bà mẹ khóc và chửi mắng. Lúc đầu bà chửi cộng sản rồi sau lại chửi quốc gia và trách cứ ông Trời sao mà nghiệt ngã và tàn ác với bà. Bà đứng lên hơi loạng choạng, có hai người lính là bạn của con bà đỡ hai bên. Bà tiến về phía người sĩ quan chỉ huy con bà, túm chặt cổ áo anh ta và xỉa xói chửi mắng đủ điều, như là anh ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của con bà. Anh sĩ quan chỉ lặng yên, khuôn mặt đau buồn vì mất một người bạn. Bản thân anh cũng đâu quyết định được số phận của mình. Bất ngờ, bà mẹ vùng ra khỏi tay hai người lính, nhưng bà lại gục ngã và quị xuống. Bà đã kiệt sức vì quá đau buồn.

Tín lại đi theo dòng người dẫn dắt. Tín muốn chứng kiến hết bộ của mặt chiến tranh, không bỏ sót một chi tiết nếu có thể, để sau này anh có thể nói cùng mọi người rằng: chiến tranh là điều đáng ghê tởm, và mỗi người phải tự ý thức được rằng mình không bao giờ là nguyên nhân gần hay xa của chiến tranh. Tín thấy có ba xác chết của những người cộng sản ở một góc phố: hai nam và một nữ. Cô gái còn trẻ khoảng 22-23 tuổi thôi - một cô thôn nữ không đẹp nhưng duyên dáng, bàn tay không nuột nà nhưng cũng khá đẹp, bàn chân nhỏ nhắn nhưng bị nứt nẻ nhiều vì cuộc sống gian khổ trong chiến khu, hoặc vì một hoàn cảnh khó khăn. Hai người đàn ông tuổi ba mươi và ba lăm gì đó: một người là nông dân lực lưỡng với cái đầu vuông và khuôn mặt cứng cỏi; người kia có vẻ thư sinh hơn, tuy khó xác định anh ta làm nghề gì, là thành phần nào trong xã hội. Trên người cả hai vẫn còn đeo vài trái lựu, đạn súng AK báng xếp, đội mũ tai bèo, mái tóc cắt rất vụng, nham nhở và không hề cạo chân tóc, chắc là họ tự cắt cho nhau. Người sĩ quan quân đội cộng hoà từ trên xe xuống, anh ta thận trọng xem xét ba người cán binh cộng sản đã chết nằm sóng soài trên mặt đất, máu chảy ra rất nhiều, thấm cả một vạt đất ở xung quanh. Mấy người lính mang theo ba chiếc chiếu mới, người sĩ quan ra lệnh cho họ rải ba chiếc chiếu kề nhau, rồi họ bê ba xác chết đặt lên chiếu. Họ làm việc thận trọng với vẻ mặt trang nghiêm trước những người chết. Khi còn sống, họ là kẻ thù, còn bây giờ họ không là gì nữa. Họ chỉ là những người xấu số, không bạn bè, không người thân. Tín thấy xót xa, không biết họ ở đâu, cha mẹ anh em, vợ con họ có biết họ đã chết không? Nếu biết họ sẽ rất đau lòng, một nỗi đau tột cùng như anh đã thấy người thân của cô gái trẻ và anh lính kia. Người sĩ quan thận trọng và rất tế nhị khi khám xét trong túi áo và quần của người nữ cán binh: tìm xem họ có mang theo giấy tờ gì không. Trong những chiếc túi mang theo trong người của họ chỉ có ba cây đèn pin, ba tấm vải dù và một ít tiền, ngoài ra không có gì hết, không tên tuổi không quê quán.

Tín nghĩ nếu không có chiến tranh, thì có thể ở đâu đó, người lính cộng hòa kia đã phải lòng cô gái quê trẻ này cũng nên. Tín hình dung ra cô gái duyên dáng đó giặt áo ở cầu ao hay chăn trâu, cắt cỏ, anh lính thì cày bừa. Họ sẽ hạnh phúc với nhau, sinh con đẻ cái. (Thỉnh thoảng anh vẫn hay mơ mộng như thế). Nhưng mọi việc đã không như vậy, chiến tranh đẩy họ vào vòng xoáy và họ đã bắn vào nhau. Rồi bây giờ thì họ đã ra đi mãi mãi.

Tín về nhà buổi cơm trưa không nuốt được, trong người cảm thấy nặng nề như trước một cơn đau. Anh đi tắm, và dùng nhiều xà phòng thơm hơn mọi lần để tìm một cái cảm giác dễ chịu trong cái mùi thơm nồng nàn của xà phòng, để đẩy lùi cái cảm giác ghê ghê cứ đeo bám anh từ những vũng máu của cô bé hàng xóm, người lính và ba cán binh cộng sản. Tín thấy mình thật ích kỉ, nhỏ nhen, và tội lỗi khi có cái cảm giác như vậy. Họ cũng như anh thôi, cũng máu thịt, cũng thân phận con người, có gì mà ghê? Sau đó, anh đi ngủ, cả một đêm không ngủ được bao nhiêu.

Tín thức giấc lúc 4h chiều, và đạp xe đến nhà Thương - cô bạn gái của anh. Với anh, Thương là thanh mai-trúc mã. Tín học với Thương từ tiểu học đến giờ. Bây giờ thì Thương đã là một cô gái xinh đẹp, còn anh chẳng còn là trẻ con như ngày xưa nữa. Tín của ngày xưa ngốc nghếch và tinh nghịch. Những buổi chiều đầy nắng trên đám ruộng sau nhà, anh mãi chạy theo bầy bò người ta chăn thả, cố leo lên ngồi trên lưng bò để cảm nhận cái cảm giác phiêu bồng của chàng kị sĩ, nhưng anh đã bị hất nhào, ngã lăn xuống đất, đau ê ẩm. Lúc đó, Thương chạy đến, hớt hải lo sợ hỏi anh: “Có sao không?”. Tín tự ái, giấu cái đau ê người: “Không sao”, nhưng rơm rớm nước mắt.

Và có những chiều anh dẫn Thương lang thang trong khu rừng nhỏ còi cọc, tìm hái cho Thương thật nhiều hoa dẻ. Thứ hoa dẻ thơm ngát một mùi dịu dàng và chỉ thơm vào buổi chiều. Còn Thương thì tìm cho anh những chùm hạt dẻ chín vàng ngọt lựng nhưng khá nhiều hạt. Những hạt dẻ đen, đen như răng của những cụ già người Bắc “Năm Tư” vẫn hay đến nhà anh chơi với mẹ. Rồi Tín dẫn Thương đi câu cá trên dòng sông tuổi thơ xanh biêng biếc. Bờ sông cát trắng mượt mà, có những đoạn rất nông. Những ngày mùa, từng đàn trâu bò và nhiều người đi qua, nước chỉ quá gót người lớn thôi. Tín và Thương đi dọc bờ sông. Đôi bàn chân bé nhỏ, mũm mỉm của Thương in trên cát mịn.

Có một lần đi câu, với chiếc cần câu thô sơ anh mua ngoài chợ nhưng cũng nhỏ nhắn và đáng yêu như họ. Họ chọn một chỗ vừa mát, vừa đẹp theo ý Tín, thả câu và ngồi chờ. Thương ngồi bên theo dõi đến nín thở, nhìn chiếc phao trắng nhỏ xinh xinh thả trôi trên mặt nước. Bất chợt, chiếc phao biến mất hút trong làn nước xanh. Tín giật mạnh, con cá bé tí bay vút lên bờ, rơi xuống, giãy giụa một cách tuyệt vọng trên bãi cát. Thương đã dùng bàn chân xinh xắn giữ lấy con cá vì sợ nó vụt mất. Nhưng bỗng Thương ôm chân kêu lên. Tín chạy đến và nhìn thấy con cá có gai độc (ở quê anh, gọi là cá ngạnh). Thương khóc rất nhiều. Tín đã làm đủ mọi cách: hút máu, rồi xoa bóp, nhưng Thương vẫn khóc. Lần đó, anh bị cấm không cho đi câu cá nữa….

Rồi một ngày, họ ra vườn đào dế, anh nhận ra một điều rất lạ. Thương cẩn thận vén chiếc áo đầm màu hồng trước khi ngồi xuống và cũng cẩn thận che đi hai đầu gối trắng muốt. Thương đã biết xấu hổ trước mặt anh. Và cũng từ đó, khi ngồi với nhau, Thương vẫn giữ khoảng cách nhỏ, chứ không quá gần như ngày xưa nữa. Chỉ có một điều là : có gì ngon Thương vẫn giữ cho anh phần nhiều và ngon nhất. Họ vẫn cùng nhau đi học và đi chơi. Nhưng bây giờ Thương ít nói hơn và dành nhiều thời gian để mặc áo, chải đầu và soi gương. Đã nhiều lần anh nhìn thấy Thương đứng rất lâu trước gương để ngắm nhìn chính mình. Lúc đó anh nghĩ: tại sao lại phải dành nhiều thời gian để ngắm mình trong gương - một việc chẳng có ích gì!!.

Và cũng có một ngày Tín đi đá bóng, bị sai khớp, phải đi nhà thương. Anh đau quá nên khóc rất to, không biết xấu hổ là gì nữa. Thương cũng khóc. Khi mọi việc tạm ổn, Thương ngồi bên cạnh anh, tỉ mẩn lột vỏ từng quả nho cho anh ăn. Trông Thương cứ như một người chị. Tín buồn và hơi lo lắng….

Nhưng cũng có một ngày, Tín bỗng thấy mình lớn vụt hẳn lên: 17 tuổi-1m7-52kg. Giờ đây Tín là một chàng trai “oai phong lẫm liệt”. Khi đi chơi, hay đi học anh đều bắt gặp những cái nhìn, nhất là những cô gái. Anh tự biết mình khá đẹp trai và quyến rũ. Tất cả những kỉ niệm xưa ngọt ngào và đằm thắm ấy cứ hiện lên đầy ắp trong anh.

Hàng cây hai bên đường xanh hơn, rậm hơn, và càng yên tĩnh hơn khi gần đến nhà Thương. Một khoảng vườn rộng và cũng khá đẹp. Một căn nhà nằm khuất sau những lùm cây. Ngôi biệt thự không lớn nhưng cái vẻ yên tĩnh và sang trọng của nó cũng nói lên được phần nào cá tính và xuất thân của chủ nhân. Thương xuất thân từ một tầng lớp khác với anh. Mẹ Thương là một bác sĩ, còn ba Thương là nhà báo nổi tiếng. Ông thường xuyên vắng nhà để làm công sự. Nhưng lúc còn bé Tín thường hay gặp ông. Đối với anh, ba mẹ Thương thật gần gũi. Ông là một người trầm mặc nhưng đối với trẻ con thì ông rất dễ gần và tuyệt vời. Trong dáng người cao lớn và nghiêm nghị là một tâm hồn bao dung, nhân từ. Trái lại, mẹ Thương là một phụ nữ cứng rắn. Dưới cái vẻ ngoài hiền thục và quí phái là cả một cá tính bản lĩnh, tế nhị vô ngần… Tín tự tay mở cổng và đạp xe trên con đường trải đá phẳng lì, hai bên là thảm cỏ xanh mượt mà, với những chậu cây được chăm sóc khá cầu kì. Thương đang đọc sách nên không nhìn thấy anh qua ô cửa sổ. Những bức rèm màu xanh nhạt tạo cho căn nhà một vẻ quyến rũ đến lạ lùng.

Thương ra đón anh với lời trách nhẹ nhàng :
- Sao bây giờ anh mới đến. Mẹ và em sốt ruột quá.

Tín nhìn Thương, cảm động. Mái tóc nàng mượt mà quá, xoã xuống ôm lấy bờ vai nhỏ nhắn. Thật đáng yêu!! Thương của anh đẹp lạ. Một vẻ đẹp thanh tao và tươi mát, khiến người chiêm ngưỡng nó cảm thấy như có một dòng suối mang cả hương ngàn ban mai xuyên chảy trong lòng. Mỗi lần gặp Thương là một lần anh nhận thấy một sự mới mẻ.

Tín nói với Thương như nhiều lần đã nói:
- Em đẹp thật.

Đôi mắt Thương long lanh khi nhìn anh, niềm vui khi gặp Tín cộng với niềm vui của người con gái khi được người yêu khen ngợi làm cho nụ cười và nét mặt của Thương càng rạng rỡ hơn trong ánh chiều. Thương làm bộ nghiêm trọng, khẽ nói yêu:
- Thôi đi ông! Mẹ đang chờ anh đó, mẹ lo cho anh lắm.

Có tiếng guốc từ phía dưới nhà đi lên, quen thuộc từng bước đi. Mẹ Thương niềm nở đón Tín như một người con. Tín chào bà kính cẩn như một người mẹ, nhưng không chút khách sáo mà nó đã là thói quen từ nhỏ. Bà hỏi khi họ ngồi vào bàn,chiếc bàn tròn, loại bàn cổ, mặt đá khung gỗ cầu kì, quí phái. Bà tự tay rót trà. Tín rất mê mùi hương dìu dịu của hoa ngâu xen lẫn trong mùi hương lài. Và với anh sau này dù đã uống rất nhiều loại trà ngon, nhưng chén trà anh uống ở nhà Thương vẫn luôn làm anh nhớ mãi.

- Sao bây giờ mới đến hả con? Nhà con vẫn bình yên chứ ? Bác định xuống thăm nhưng chị Tư đã xin phép về quê mấy hôm, không đi được, chỉ có mỗi một mình Thương ở nhà không tiện, an ninh mỗi ngày một lỏng lẽo.

Tín cảm thấy hãnh diện và rất vui khi được bà quan tâm. Điều này cũng không phải lần đầu.
- Dạ nhà con không sao. Tín trả lời và nhìn xung quanh một thoáng.
- Đêm qua ở đây có đánh nhau không bác?
- Nhờ trời là không. Ở chỗ con đánh nhau lớn phải không? Bà nói với giọng lo lắng, căng thẳng.
- Dạ không lớn lắm, nhưng cũng có vài người chết.

Rồi Tín kể những việc anh đã mục kích cho bà và Thương nghe bằng cái tài kể chuyện khá sinh động của anh. Bà thốt lên đôi mắt buồn xa xăm :
- Tội nghiệp quá!

Bà trầm ngâm một chút rồi nói thầm:
- Chiến tranh cứ tiếp tục thế này thì tương lai của các con sẽ ra sao? Rồi sẽ ra sao nữa nếu những người cộng sản chiếm miền Nam - bà nói như nói với chính mình.

Thương ôm vai bà an ủi:
- Mẹ đừng lo lắng quá rồi mọi chuyện sẽ qua thôi mà! Con không hiểu tại sao lại xảy ra đánh nhau giữa hai miền Việt Nam,con một nhà cả mà?

Tín nói với Thương những gì Tường đã nói với anh những lần trước:
- Những người cộng sản họ nói là họ “giải phóng” nhân dân miền Nam khỏi sự kiềm kẹp của Mỹ - Nguỵ.

Thương hất tay Tín âu yếm:
- Thôi đi anh, chỉ giỏi bịa chuyện.

Tín chưa kịp phản ứng gì thì mẹ Thương nói mà không nhìn họ:
- Anh Tín nói đúng như những gì phía kia họ nói. Nhưng mà ai bị kiềm kẹp? Ở miền Nam này có ai bị tướt quyền tự do - dân chủ đâu? Người ta hành xử quyền tự do ngôn luận - tự do báo chí và thông tin, tự do ứng cử và bầu cử, tự do hoạt động chính trị. Đời sống người dân tuy có nghèo nhưng vẫn giàu hơn ở miền Bắc nhiều. Thực ra đây chỉ là một cuộc chiến ý thức hệ, người cộng sản muốn làm bá chủ thế giới bằng cách đánh lại những người tự do. Theo chỗ bác biết, người dân các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô vẫn tìm mọi cách để đào tị sang các nước phương Tây, tìm cuộc sống tự do, hạnh phúc. Họ ra đi để thoát khỏi sự nghèo đói và chế độ độc tài toàn trị.

Tín thực sự không hình dung được nhiều về những lời bà nói, và cũng không hiểu lắm. Sau đó, họ thay đổi đề tài và nói rất nhiều chuyện. Ngoài kia, trời đã muộn, bà xuống bếp làm cơm, chỉ còn lại hai người. Tín đưa Thương ra vườn. Họ dạo trên những lối đi hẹp. Tay trong tay, anh cảm nhận bàn tay Thương ấm áp mềm mại. Chung quanh thật yên tĩnh, hương của trời chiều - hương của các loài hoa quyện trong từng thoáng gió, và hương từ mái tóc Thương, từ làn da, từ quần áo Thương vương vít chung quanh anh trên từng bước đi. Tín có cảm giác thế giới này hoàn toàn yên tĩnh và hoang sơ. Tín và Thương như Adam và Eva trong vườn Địa đàng. Không biết vườn Địa đàng thế nào, Adam và Eva nghĩ thế nào, nhưng thực sự, bây giờ họ rất hạnh phúc.

Hôm nay, Tín đến trường thấy nhiều người vây quanh một bản thông báo dán ở cổng. Nội dung: vì tình hình an ninh, nhà trường tạm đóng cửa, chờ thông báo mới. Đẩy nhẹ nhàng cánh cổng sắt khép hờ, anh vào trong sân trường. Sân trường vắng vẻ, trở nên rộng hơn và thật lạnh lùng. Những bồn cỏ xanh hơn mọi ngày vì thiếu đi những bàn chân dẫm đạp. Tín đi lang thang trên sân trường, mắt nhìn lên những tán cây phượng. Những con chim nhỏ dạn dĩ và thản nhiên tìm mồi. Lơ lửng trước mắt Tín là mấy con sâu nhỏ treo mình bằng những sợi tơ mỏng manh. Ở gần đó, mấy cô gái quấn quít bên nhau, họ nói chuyện nho nhỏ và chậm rãi, không như mọi ngày họ cười và tranh nhau nói.

Tín trải bước chậm rãi từ hành lang này sang hành lang khác, nhìn vào từng phòng, tất cả đều yên tĩnh, không giống với cái yên tĩnh khi làm bài, cái yên tĩnh trong suốt trống rỗng, đơn địu. Bước lên từng bậc cầu thang - cái cầu thang rộng và thoáng mà họ vẫn hay xô đẩy nhau chạy ào xuống mỗi khi tan học. Tín vẫn như nghe ở đâu đây rất gần và rất thật cái trách móc nhẹ nhàng của các cô gái bị va phải. Đây là lớp học của Tín, anh bước vào, căn phòng yên tĩnh lạnh lẽo. Hai dãy bàn ghế im lìm ngay ngắn. Ngồi vào chỗ của mình, Tín buồn rười rượi. Ở kia là chỗ của Tường, của Lộc, của Hưng, của Hoàng.

Tín điểm từng chỗ ngồi và hình dung từng người vẫn ngồi ở đó. Đâu rồi tiếng cười đùa, đâu rồi ánh mắt thân thương, đâu rồi những tà áo trắng mượt mà, những chiếc lưng thon thả, những mái tóc như mây bồng bềnh. Chiếc bảng đen vẫn còn những dòng chữ nghịch ngợm của ai đó viết vào một buổi chiều nào đó rất gần đây khi tan học. Buồn bã đứng dậy, anh ra ngoài lan can nhìn xuống sân trường. Những chiếc ghế đặt ngay ngắn dưới tán cây xanh mượt. Tín hình dung những chiếc lá trên ấy bây giờ cô đơn vì không còn hơi ấm của các cô các cậu. Bước xuống từng bậc thang…thẫn thờ, vì chẳng có lý do gì để vội, chẳng có ai để nghịch. Đối với tuổi học trò, không có gì khủng khiếp bằng điều đó. Tín lại lang thang trên sân trường, nhìn từng gốc cây, anh thấy những tên người khắc trên đó….Họ là những người đã học ở đây, đã tốt nghiệp ra trường. Trong số họ, có người hiện nay đang giữ một chức trách, một nhiệm vụ nào đó, có người đã có gia đình, con cái. Họ khắc vào thân cây những kỉ niệm và nỗi buồn của tuổi học trò. Nhưng đó là nỗi buồn êm ả trong hạnh phúc, trong thành đạt. Tín ước ao mình được như họ.

Dừng lại trước một thân cây lớn, anh chọn một chỗ thật đẹp và kín đáo, tỉ mỉ khắc tên mình vào đó… Không hiểu rồi trong năm tháng rộng dài nó sẽ ra sao? Cuộc đời nhiều đổi thay, hiện tại nhiều bất trắc.

- Đẹp lắm!

Tín giật mình quay lại, Sơn - một người bạn cùng lớp đã ở đó tự bao giờ. Tín cảm thấy bớt cô đơn. Bình thường anh thấy Sơn lặng lẽ và có vẻ u uất. Người thanh niên này đầy nhiệt huyết nhưng quá khích, tính cách xa lạ với Tín Anh nhìn thấy Sơn với nụ cười rạng rỡ và mãn nguyện.

Tín hỏi:
- Gia đình bình yên chứ?
- Còn mày, tâm trạng thế nào?
- Không được tốt lắm.

Sơn rảo bước rất nhanh trên sân trường hoang vắng, Tín đi sau cho kịp Sơn để nghe nó nói một cái gì đó. Bất ngờ, nó dừng lại trách anh:
- Trông mặt mày ủ rủ như đưa đám? Sao mà nhu nhược thế!

Tín phân trần với một chút nỗi niềm muốn chia sẻ:
- Mày không thấy chiến tranh mỗi ngày một lan rộng, số người chết ngày càng nhiều, cầu cống, đường sá, sân bay, công sở bị phá hoại và sụp đổ đó sao? Nhà trường thì đóng cửa, bạn bè li tán, mày không cảm nhận điều gì sao?

Sơn cười thản nhiên:
- Có cuộc sinh đẻ nào mà không đau đớn! Cách mạng mà sợ hi sinh thì làm sao mà làm cách mạng được. Mày thật ấu trĩ.
- Mày so sánh chiến tranh với sinh đẻ hay sao? Mày không thấy sự khác biệt sao? Sinh đẻ là để tạo nên cuộc sống mới, chiến tranh chỉ tạo nên cái chết và sự tàn phá.

Sơn cười có vẻ tự mãn, nhưng nét mặt nó có vẻ ngây thơ. Tín thấy có cái gì đối lập nơi con người nó. Bình thường, nó ân cần và quan tâm đến bạn bè, còn bây giờ nó lạnh lùng và sắc sảo. Tín không biết đâu mới thật sự là con người nó.

Nó giải thích với anh như một người đã nhiều hiểu biết:
- Chiến tranh, cách mạng là để thay đổi xã hội, cái chế độ cũ chết đi, chế độ mới hình thành.

Tín phản bác:
- Nhưng mọi việc đang tốt đẹp, còn tương lai của mình, việc học hành thì sao?
- Chế độ mới sẽ ưu việt hơn chế độ này, còn việc học hành của mình rồi sẽ tiếp tục. Nó nói quả quyết với giọng nhẹ nhàng thân mật. Đôi mắt long lanh rực sáng một niềm hy vọng.
- Một ngày nào đó, tôi và bạn sẽ sang Liên Xô, Tiệp Khắc, Đông Đức, Ba Lan để du học. Ở đó, nền giáo dục của họ không thua kém gì các nước phương Tây, Nhật Bản.

Tín không tranh luận với Sơn nữa, vì đây là vấn đề của tương lai, mà tương lai thì chưa tới, hơn nữa họ chẳng biết gì về cộng sản.

Tín cười và nói đùa với Sơn:
- Mày nói như mày là cộng sản thật rồi.
- Mày nghĩ về tao thế nào cũng được, tao chỉ muốn điều tốt cho mày, nhưng mày chỉ đựơc một cái đẹp trai thôi, mày còn ngây thơ lắm.

Họ chia tay, anh thấy hình như Sơn đang có một dự định gì đó. Nó muốn nói với anh một điều gì đó nhưng chưa tiện.
Tín biết Sơn là con của một người “nhảy núi” - từ mà người ta dùng để chỉ một người cộng sản miền Nam. Mẹ Sơn bán hàng tạp hoá ngoài chợ, Sơn còn một cô em gái, cảnh nhà cũng bình thường, không đến nỗi nào. Nhưng con người này ngày thường có vẻ an phận, lại chất chứa trong lòng một tham vọng lớn lao.

Chiến sự mỗi ngày thêm ác liệt về cường độ và mở rộng về không gian. Vùng an ninh là vùng lãnh thổ chính phủ Việt Nam Cộng Hoà kiểm soát mỗi ngày càng bị thu hẹp và chia cắt. Gia đình Tín quyết định sửa sang, và mở rộng hầm trú ẩn cho kiên cố và tiện nghi hơn. Ông thợ ở gần nhà được giao phó công việc này cùng ba người thợ phụ việc. Ông thợ xây gầy, cao, và nhanh nhẹn, khoảng 50 tuổi, trông ông già hơn số tuổi và khuôn mặt khắc khổ. Có lẽ ông có một tuổi thơ vất vả.

Hầm trú ẩn cũ, nông và hẹp, phần nắp hầm bằng bê tông hơi mỏng. Cha anh sợ không chịu nổi những loại đạn có sức công phá lớn. Tất cả đều phải được sửa lại, rộng hơn, sâu hơn và có sức chịu đựng lớn hơn. Sắt, thép, ximăng, cát sỏi được đổ đầy cả một khoảng sân. Khoảnh sân này, không rộng lắm, khi dọn về đây, lúc ấy Tín mới 12 tuổi, Tín đã trồng trên đó một cây xoài. Bây giờ cây đã khá cao, tán lá đã che mát cả một vùng. Tín vẫn hay ngắm nghía nó hàng ngày vào những buổi sớm mai, hay những buổi chiều tà. Nhà anh trước đây sát cạnh nhà Thương. Tuổi thơ anh phủ đầy bóng lá, hương hoa trong khu vườn yên tĩnh, thơ mộng mà Thương là một nàng tiên bé nhỏ.

Ông thợ nói với cha anh, trong làn khói thuốc lá và thoảng cả mùi rượu:
- Anh quyết định sửa lại hầm là sáng suốt. Chiến sự sẽ ác liệt, và không loại trừ trọng pháo sẽ được sử dụng với mật độ dày đặc.

Ông ta nói chuyện rất sành sỏi và trôi chảy. Tín rất ngạc nhiên về sự am hiểu tình hình của ông ta. Tín phục ông ta và cũng muốn bắt chuyện:
- Chẳng lẽ người ta pháo kích cả vào khu dân cư?
- Không ai cố ý pháo kích vào khu dân cư nhưng khi cần sử dụng hỏa lực áp đảo thì người ta không loại trừ. Hơn nữa, trọng pháo nó đâu có mắt, tên bay đạn lạc là chuyện thường. Chiến tranh khó tránh được thương vong cho nên phải đề phòng. Ông ta nói bằng một giọng sắc lạnh.

Tín hỏi:
- Có lẽ là bác nghe radio nhiều. Thường thì bác nghe đài gì?

Ông ta bình thản nhả khói thuốc và trả lời:
- BBC và đài của phía bên kia.

Cha anh nói:
- Người ta có điều kiện thì người ta đi nước ngoài. Mình nghèo thì chỉ có thể làm thế này thôi. Chỉ mong trời đất che chở cho tai qua, nạn khỏi.

Ông ta nói với vẻ khinh khỉnh:
- Đây là đất nước của mình, tội gì phải đi đâu anh. Thằng Pháp, thằng Mỹ nó đâu có thương dân mình. Chỉ có mình mới thương mình thôi.

Ba Tín chậm rãi ngồi xuống bên chiếc bàn tròn, trên đó để rất nhiều trái cây và nước giải khát cho thợ dùng. Và cũng bằng giọng chậm rãi, ông nói:
- Trong cuộc chiến này, tôi chẳng thấy người ngoại quốc nào giết dân mình, chỉ có mình giết mình là nhiều nhất. Vì cái gì mới được chứ. Tôi thấy cuộc chiến này quá điên khùng.

Mắt ông thợ xây sáng quét, ông ta linh hoạt hẳn lên vì có đề tài để tranh luận:
- Cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh giải phóng.
- Giải phóng à, tôi không hiểu! Ba Tín nhẹ nhàng phản ứng, nhưng có vẻ cương quyết, vì ba anh tin vào những kinh nghiệm và suy tư của ông.

Ông thợ xây nói và diễn đạt nó bằng bàn tay to và chắc nịch:
- Anh thấy không, nó muốn biến nước ta thành một thứ thuộc địa kiểu mới, và đất nước này là đất nước của những người giàu có. Còn người dân thì có cái gì. Mọi cái đều ở trong tay của bọn tư sản.

Ba anh lặng thinh trước những lời lẽ đầy phẫn uất, và thiên lệch. Chỉ còn lại ông ta tuôn ra những gì ông suy nghĩ và ôm ấp.
- Ở các nước Đông Âu và Liên Xô, nhà máy - xí nghiệp là của công nhân. Người dân là chủ đất nước, công nhân là chủ nhà máy.

Ông ta nói với cái luận điệu giống với Sơn - bạn Tín. Sao họ suy nghĩ giống nhau như vậy! Ai đã nói với họ điều ấy. Tín thoáng hiểu ra: ở miền Nam này, phương tiện thông tin đâu có thiếu. Ba anh mỉm cười:
- Ông này khuynh tả quá nặng rồi. Nhưng tôi khuyên ông, điều gì cũng phải nhìn bằng cái tâm bình thản. Chỉ khi bình thản ta mới sáng suốt và không thiên lệch.

Tín vào phòng của mình, nằm dài, nhìn lên trần. Tín so sánh những gì ông thợ xây và Sơn nói thì ở các nước xã hội chủ nghĩa đúng là thiên đường rồi. Thế nhưng tại sao lại có bức tường Berlin, rồi dòng người tị nạn đi tìm tự do và hạnh phúc. Một bên là lời nói của ông thợ hồ, một bên là lời nói của mẹ Thương - người phụ nữ mà anh thương yêu và kính trọng, một người phụ nữ mẫu mực và nhân hậu. Tín rùng mình khi hình dung đến những thây người rách nát, xanh xao, bê bết máu nằm vắt vẻo trên bức tường Berlin khi cuộc vượt thoát thất bại.

Tường, Hưng đến nhà Tín. Họ cùng đi tắm sông “lần cuối cùng” như Tường đã nói. Họ đi về một vùng quê yên tĩnh nằm sát thị xã. Con đường đất đỏ ngoằn nghèo chạy giữa những khu vườn đầy bóng cây - những ngôi nhà cổ kính và bé nhỏ. Những chiếc cổng rêu phong; những giếng nước được xây bằng đá núi, hoặc đá ong, thành giếng thấp và đầy rêu xanh, nước mát và trong. Những bờ tre dày che kín những căn nhà, những cây vú sữa sum sê,tán lá rất gần; xoài, nhãn, dừa, vô vàn những cây ăn trái. Những vườn cây này có một kỉ niệm sâu sắc với họ từ bé.Họ đi từ vườn này sang vườn khác. Khi tắm sông về bụng đói, họ vào những vườn cây này để mua vú sữa, xoài, dừa, và cũng không ít lần liều lĩnh hái trộm.

Bờ sông dốc và cao. Bờ cao ấy chạy dài về phía núi, xa là rừng cây thấp. Rừng cây thấp với vườn nhà lẫn lộn. Họ tựa xe vào những cây bứa (những cây bứa có lá xanh, tròn và chua, trái gần giống với trái măng cụt, nhưng vàng khi chín, vừa chua, vừa ngọt).

Men xuống theo một triền dốc thấp, cát ở bờ sông lạo xạo, êm đềm dưới chân. Bóng chiều đang xuống chầm chậm bên kia sông. Hàng cây bên ấy cao và thẳng tắp. Nắng nhuộm vàng những tán lá xôn xao gió, nắng vàng trải xuống bờ sông bên kia - những ánh vàng rực rỡ lấp lánh. Gió chiều nay cũng lặng lẽ, chỉ có một vài thoáng gió chạy đuổi nhau trên hàng cây. Mặt nước sông yên tĩnh, nên hai bờ như rộng hơn. Tường không muốn tắm, đi lang thang dọc bờ sông, như tìm kiếm và lưu giữ những kỉ niệm. Tín và Hưng hiểu tâm trạng của Tường nên lặng lẽ đi phía sau. Dáng người cao lớn, hơi gầy một chút; thời gian gần đây, trông Tường như một diễn viên đẹp và đầy ấn tượng. Vừa đi họ vừa nhặt những miếng đá mỏng và liếc nó trên mặt sông. Những miếng đá mảnh dẻ, nhảy từng bước ngắn dần trên mặt nước và nhẹ nhàng chìm xuống. Tường chọn một gốc cây có rể tua tủa chạy ngang và đâm xuống bờ cát.

Tín hỏi Tường, để xoá đi sự yên lặng:
- Mấy hôm nay mày có đến chỗ Hạnh không? Cô ấy thế nào?

Tường dựa vào một cái rễ lớn có vẻ mệt mỏi và buồn vời vợi.
- Ngày nào tao cũng đến, Hạnh cứ khóc hoài, gầy hẳn và xanh xao. Tao không biết phải làm gì, mọi lời nói bây giờ không còn ý nghĩa gì với Hạnh. Đường nào thì tụi mình cũng chia tay, không phải do ý mình mà do hoàn cảnh. Tao thấy bất lực khi đứng trước một hoàn cảnh mà mình phải chấp nhận như một số mệnh.

Dừng lại một chút, rồi Tường nói tiếp:
- Trước đây, tao cũng có ý định sang Mỹ du học. Anh chị tao ở đó nên tao hiểu cuộc sống với những cơ hội bên đó. Học để phục vụ đất nước, bên đó có nhiều cái để mình học: học kinh doanh, quản lý, công nghệ và học cả nền dân chủ của họ.

Hưng nói với một chút bất bình:
- Việt Nam Cộng Hoà chẳng phải cũng rất dân chủ đấy thôi!

Tường nói quả quyết:
- So với Hoa Kì thì Việt Nam Cộng Hoà cũng chưa thực sự dân chủ đâu.

Tín hỏi như một anh chàng nhà quê:
- Có nghĩa là nước Mỹ rất tuyệt vời?

Tường gật đầu chậm rãi:
- Rất tuyệt. Mày thấy không, bất cứ một người nào của bất cứ quốc gia nào cũng muốn định cư ở Mỹ. Nước Mỹ hội tụ những nhân tài, các chính khách lưu vong, những nhà khoa học, những học giả, những văn nghệ sĩ và rất nhiều những người bình thường. ”Đất lành chim đậu”, ông bà ta đã nói rồi mà. Nhưng với tao, cơ hội đến nước Mỹ, lại đến trong cay đắng. Không biết khi tao ra đi, Hạnh có đủ nghị lực để vượt qua không? Tao mong là Hạnh sẽ quên tao và tìm một niềm vui mới… Nhưng tao hiểu Hạnh, điều đó không dễ chút nào. Tao không thể ở lại với Hạnh được, như vậy mẹ tao sẽ không sống nổi, tim bà có vấn đề.
- Đã định ngày đi chưa?
- Mười lăm ngày nữa, sẽ làm tiệc chia tay ở nhà tao. Tao muốn đến đây và đến một số nơi khác nữa - những nơi mà tao không thể quên được, vì nó là tuổi thơ của tao. Hi vọng là hai đứa mày cũng đi.

Hưng nói với cái vẻ vô tư và hài hước vốn có:
- Ba đứa mình cùng tuổi Tuất sinh năm 1958. “Mạng bình địa mộc, tam mộc thành lâm”. Thằng Tường đi rồi, hai đứa còn lại thành cái gì đây.
- Chẳng thành cái gì cả, rừng đã mất chỉ còn cây. Cây mà không thành rừng thì cây đơn độc. Tường đứng dậy vừa đi vừa nói.


© 2008 www.danchimviet.com

No comments: