Friday, March 7, 2025

LÀM THẾ NÀO ĐỂ VƯƠN MÌNH? (Thiều Quang & Nguyên Phong / Diễn Đàn VOA)

 


Làm thế nào để ‘vươn mình’? Phần 1: Tiền nhân và sự cô đơn về ý chí

Thiều Quang & Nguyên Phong

06/03/2025

https://www.voatiengviet.com/a/lam-the-nao-de-vuon-minh-phan-1-tien-nhan-va-su-co-don-ve-y-chi-/8001017.html

 

Lời Toà Soạn: Loạt bài này từ nhóm tác giả viết cho VOA muốn đối chiếu khoảng cách giữa khát vọng cá nhân với dân khí trong lịch sử cận đại Việt Nam, điều mà theo họ là một trong những trở ngại dai dẳng khiến dân tộc Việt Nam chưa thể bứt phá để sánh ngang các quốc gia phát triển trong khu vực. Sau khi trở thành lãnh đạo tối cao tại Việt Nam, ông Tô Lâm đã vài lần tỏ ra sốt ruột trước sự trì trệ của quốc gia và không ngần ngại nêu lên khát vọng về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Liệu ông Tô Lâm có thể đột phá để thu hẹp khoảng cách vừa đề cập, đặt nền tảng cho một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng? Ngoài việc nêu ra một số so sánh, nhận định, các tác giả còn đề cập đến một số tiền đề với hy vọng biến mong muốn không chỉ của riêng ông Tô Lâm thành hiện thực. Mời độc giả tham khảo và rất mong độc giả đóng góp thêm ý kiến.

 

                                                 ***

 

 

Ý chí và dân khí: Những lần lỡ nhịp

 

Lịch sử Việt Nam không thiếu những cá nhân mang hoài bão đưa dân tộc thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nghèo đói, áp bức và lệ thuộc. Nhưng khi ngoái nhìn lại hơn một thế kỷ của lịch sử cận đại, điều đau đớn không nằm ở sự thiếu vắng ý chí thay đổi mà ở sự đơn độc của những người dám dấn thân. Họ đi trước thời đại, nhưng điều kiện khách quan chưa chín muồi, dân khí chưa đủ trưởng thành để đồng hành, cùng họ bước tới và, Việt Nam nhiều lần đánh mất cơ hội thoát khỏi vòng kiềm tỏa vừa kể (1).

 

Những cuộc vận động thay đổi của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đến Nguyễn Thái Học thể hiện ý chí kiên định và tinh thần tiên phong phi thường. Quần chúng hưởng ứng khá đông nhưng các vị cách mạng tiền bối vẫn cô độc trong chính cuộc đấu tranh của mình. Sự cô độc ấy không chỉ đến từ sức ép của chính quyền thực dân, phong kiến mà còn từ sự thiếu vắng nền tảng dân trí rộng rãi và một dân khí đủ mạnh để làm điểm tựa cho nỗ lực cải cách thành công.

 

Phan Bội Châu chọn con đường vũ trang nhưng không có đủ lực lượng để thực hiện khát vọng. Phan Châu Trinh tin cần “khai dân trí” nhưng số người thật sự đồng cảm không phải là đa số. Nguyễn Thái Học nỗ lực hiện đại hóa phong trào đấu tranh vũ trang nhưng ái quốc rõ ràng chưa đủ để lấp đầy khiếm khuyết về kinh nghiệm, kỹ năng tổ chức và chiến lược chính trị dài hơi.

 

Lịch sử Việt Nam tuy không thiếu anh hùng nhưng dường như lúc nào cũng thiếu một cộng đồng đủ mạnh để biến ý chí cá nhân thành ý chí chung của dân tộc.

 

 

Viễn kiến chưa chạm tầm thời đại

 

Phan Bội Châu là hình mẫu tiêu biểu của một nhà cách mạng quyết đoán và hành động táo bạo. Ông tin rằng Việt Nam chỉ có thể giành độc lập thông qua đấu tranh vũ trang, dựa vào sự giúp đỡ từ Nhật Bản. Nhưng thất bại của phong trào Đông Du cho thấy: Khi dân trí chưa đủ cao và nội lực chưa đủ mạnh, những phong trào vũ trang non trẻ dễ bị triệt tiêu ngay từ trong trứng.

 

Ngược lại, Phan Châu Trinh chọn cải cách thông qua khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Ông cho rằng, nếu không thay đổi nền tảng tư duy của người dân, bất kỳ cuộc cách mạng nào cũng chỉ dẫn đến sự thay thế giai cấp thống trị chứ không thay đổi vận mệnh đất nước. Đó thực sự là một minh triết trị quốc. Tuy nhiên, con đường ấy quá dài và đòi hỏi mức độ kiên nhẫn mà bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ không cho phép.

 

Cả hai con đường dẫu có nhiều chỗ hợp lý nhưng đều không thành công vì một yếu tố chung: Các cụ nắm bắt được bước chuyển từ phong kiến sang tư bản hơi muộn, chưa nhận thức được tầm quan trọng của phương thức sản xuất mới. Dẫu cụ Phan Châu Trinh về sau đã chuyển từ ý thức hệ phong kiến sang dân chủ tư sản, nhưng cá nhân tiên phong vượt qua khỏi cộng đồng quá xa, trở thành lẻ loi ở phía trước. Cụ Phan Châu Trinh đã vượt quá xa tầm hiểu biết của các trí thức, những người yêu nước và hoàn cảnh chính trị và xã hội thời đó (2).

 

Khát vọng nhưng thiếu điều kiện cần và đủ

 

Nguyễn Thái Học, nhà cách mạng trẻ với hoài bão hiện đại hóa phong trào đấu tranh giành độc lập, khác với Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh ở chỗ ông xây dựng Việt Nam Quốc Dân Đảng - một tổ chức chính trị có kỷ luật và chiến lược rõ ràng. Nhưng cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 nhanh chóng thất bại không chỉ vì sự đàn áp khốc liệt của thực dân, mà còn vì phong trào chưa hội đủ các điều kiện khách quan, thiếu sự hậu thuẫn đủ lớn từ quần chúng.

 

Dân khí khi đó chưa đạt đến mức sẵn sàng cho một cuộc cách mạng toàn diện. Lòng yêu nước là điều không thể chối cãi nhưng yêu nước không đồng nghĩa với đương nhiên sẽ có tổ chức chính trị đủ sức duy trì đấu tranh lâu dài. Bi kịch của Nguyễn Thái Học chính là bi kịch chung của nhiều phong trào yêu nước: Ý chí mãnh liệt nhưng thiếu nền tảng từ xã hội để biến khát vọng thành hiện thực (3).

 

Ý chí không phùng thời - Bi kịch lịch sử lặp lại

 

Nhìn lại lịch sử, một quy luật đau lòng: Những con người vĩ đại thường xuất hiện khi số đông trong xã hội chưa sẵn sàng đồng hành cùng họ. Đây không chỉ là quy luật của Việt Nam mà còn là quy luật chung của nhân loại. Nhưng với Việt Nam, điều đáng tiếc là điều này lặp đi lặp lại quá nhiều lần.

 

Một đất nước không thiếu người tài nhưng nếu không có sự cộng hưởng giữa thiên thời, địa lợi và nhân hòa thì những nhân tài ấy sẽ mãi bị cô lập trong chính cuộc cách mạng của họ. Vấn đề không chỉ là lãnh đạo xuất chúng, mà còn là làm sao tạo ra môi trường nơi cải cách không chỉ là ý tưởng của một vài cá nhân mà còn là động lực thúc đẩy cả xã hội.

 

Lịch sử không thể thay đổi nhưng chúng ta có thể rút ra bài học từ quá khứ. Muốn tránh lặp lại bi kịch của tiền nhân, ngoài sự xuất hiện của một cá nhân đủ khả năng lãnh đạo còn có nỗ lực xây dựng nền tảng xã hội, tạo điều kiện cho những tư tưởng tiến bộ của thời đại có thể bén rễ và phát triển.

 

Dường như câu hỏi đặt ra cho Việt Nam hôm nay không còn là: Ai sẽ đi tiên phong? Mà là: Làm sao để xã hội đủ mạnh, đủ trưởng thành? Huy động nguồn lực nào để cải cách không chỉ là ý tưởng của một vài cá nhân mà phải trở thành động lực chung của toàn dân tộc? Đây là vấn đề mấu chốt nhất hiện nay. Làm sao để, sau bao kỷ nguyên chịu áp bức và nội chiến, khi có một cá nhân phất ngọn cờ, thì sức lay động ấy phải đủ lớn để dẫn dắt cả dân tộc bước vào "kỷ nguyên vươn mình"?

 

(Kỳ sau: Tiên phong giữa hào quang và bi kịch)

 

--------------

Tham khảo:

 

1) https://vusta.vn/nguyen-truong-to-nha-tu-tuong-cach-tan-loi-lac-p84336.html?utm_source=chatgpt.com

 

(2) https://www.luatkhoa.com/2024/02/vi-sao-phan-chau-trinh-chua-thanh-cong/?utm_source=chatgpt.com

 

(3) https://baomoi.com/95-nam-khoi-nghia-yen-bai-10-2-1930-10-2-2025-nguyen-thai-hoc-pho-duc-chinh-va-cac-dong-su-trong-khoi-nghia-yen-bai-c51436617.epi

 

 

                                              *****

 

 

Làm thế nào để ‘vươn mình’? Phần 2: Tiên phong giữa hào quang và bi kịch

Thiều Quang & Nguyên Phong

06/03/2025

https://www.voatiengviet.com/a/lam-the-nao-de-vuon-minh-phan-2-tien-phong-giua-hao-quang -va-bi-kich/8001020.html

 

Lời Toà Soạn: Loạt bài này từ nhóm tác giả viết cho VOA muốn đối chiếu khoảng cách giữa khát vọng cá nhân với dân khí trong lịch sử cận đại Việt Nam, điều mà theo họ là một trong những trở ngại dai dẳng khiến dân tộc Việt Nam chưa thể bứt phá để sánh ngang các quốc gia phát triển trong khu vực. Sau khi trở thành lãnh đạo tối cao tại Việt Nam, ông Tô Lâm đã vài lần tỏ ra sốt ruột trước sự trì trệ của quốc gia và không ngần ngại nêu lên khát vọng về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Liệu ông Tô Lâm có thể đột phá để thu hẹp khoảng cách vừa đề cập, đặt nền tảng cho một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng? Ngoài việc nêu ra một số so sánh, nhận định, các tác giả còn đề cập đến một số tiền đề với hy vọng biến mong muốn không chỉ của riêng ông Tô Lâm thành hiện thực. Mời độc giả tham khảo và rất mong độc giả đóng góp thêm ý kiến.

 

                                                      ***

 

 

https://gdb.voanews.com/9C179B70-0066-435E-976C-43271EA0D6F8_w1023_r1_s.jpg

Hà Nội, 1966. Hình minh họa. Hồ Chí Minh (bìa phải), "người nổi lửa nhưng bất an vì viễn cảnh"; và Lê Duẩn (thứ hai từ phải), "đưa đến thống nhất nhưng tạo khủng hoảng toàn diện."

 

 

Cuộc cách mạng lệch chuẩn

 

Lịch sử là sân khấu của những cá nhân dám đi trước, mở đường cho những đổi thay vĩ đại. Nhưng tiên phong không đồng nghĩa với thành công. Một cá nhân dù có tầm nhìn rất xa cũng không thể tự xoay chuyển bánh xe lịch sử nếu thiếu sự đồng hành của dân tộc.

 

Có thể xem câu thơ 'Vui gì hơn làm người lính đi đầu / Trong đêm tối tim ta thành ngọn lửa' (Tố Hữu) như một khái quát về tinh thần dấn thân. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng, không phải ngọn lửa nào cũng đủ sức đốt lên bình minh vĩnh cữu. Đôi khi, nó chỉ giúp đoàn người thoát khỏi xiềng xích thực dân để rồi lại rơi vào một bi kịch khác dưới ách thống trị của ‘giai cấp mới’ cầm quyền. Cuộc cách mạng bị phản bội, những lời thề nguyền bị bỏ rơi, và lý tưởng ban đầu bị bóp méo để phục vụ cho những mục tiêu ngược lại với các giá trị dân chủ – cộng hòa.

 

Trong lịch sử Việt Nam hiện đại, bốn nhân vật – Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Lê Duẩn và Võ Văn Kiệt – đều là những người yêu nước theo cách của họ. Các nhân vật này Đó là những con người có ý chí mãnh liệt, nhưng mỗi cá nhân lại đối diện với một thực tế nghiệt ngã: dân khí chưa đủ mạnh, hệ thống chưa sẵn sàng, và thời đại cũng đặt ra những giới hạn khắc nghiệt của nó.

 

 

Hồ Chí Minh – Người nổi lửa nhưng bất an vì viễn cảnh

 

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng mà còn là một chiến lược gia hiểu sâu sắc về dân khí. Ông xuất hiện vào thời điểm mà dân tộc đang cần ý chí thống nhất để thoát khỏi xiềng xích thực dân, đế quốc. Thay vì đặt nặng truyền bá tư tưởng, Hồ Chí Minh tìm cách huy động và tổ chức quần chúng, xây dựng dân khí từ những phong trào cụ thể như Việt Minh.

 

Tuy nhiên, chính Hồ Chí Minh cũng không khỏi lo lắng về tương lai của dân tộc. Câu nói nổi tiếng của ông khi trả lời câu hỏi thuộc cấp – “Một bên Tây, một bên Tàu, bên nào đáng sợ hơn?” Câu trả lời của Hồ Chí Minh “Tây không đáng sợ, Tàu cũng không đáng sợ, mà đáng sợ nhất là các chú!” giống như bộc bạch về sự bất an vì hiểu rằng một cuộc cách mạng không kết thúc sau khi giành được chính quyền (2). Điều quan trọng hơn là liệu dân khí có đủ trưởng thành để duy trì và phát triển một quốc gia theo con đường dân chủ và cộng hòa vững bền hay không.

 

Những gì xảy ra sau năm 1945 và đặc biệt là từ sau 1954 cho thấy một nghịch lý: Cách mạng thành công về mặt giành độc lập, nhưng sự phát triển của dân khí lại không theo kịp những kỳ vọng ban đầu. Chính quyền tập trung quyền lực, tư tưởng tập thể lấn át tự do cá nhân, và thay vì tạo ra một xã hội khai phóng, Việt Nam bước vào giai đoạn chiến tranh triền miên. Hồ Chí Minh, dù là người thắp lửa, nhưng không thể kiểm soát hoàn toàn hướng đi của đám cháy ấy (3).

 

 

Ngô Đình Diệm – Ý chí độc lập bị cô lập

 

Nếu Hồ Chí Minh là người hiểu rõ sức mạnh của dân khí thì Ngô Đình Diệm lại là người đặt cược tất cả vào ý chí cá nhân và gia đình mình. Ngô Đình Diệm có khát vọng lớn lao về độc lập – ông muốn xây dựng một Việt Nam không bị lệ thuộc vào bất kỳ thế lực ngoại bang nào, dù là Mỹ hay Pháp.

 

Tuy nhiên, điểm yếu chí mạng của ông nằm ở chỗ ông không thể hòa hợp với những tầng lớp dân chúng đa dạng trong xã hội miền Nam. Trong khi Hồ Chí Minh dùng phương pháp vận động quần chúng thì Ngô Đình Diệm lại dựa vào hệ thống quyền lực mang tính gia đình trị và bảo thủ. Ông tự cô lập trong một vòng tròn quyền lực hẹp, khép kín, khó dung nạp được nhiều luồng tư tưởng khác nhau.

 

Kết quả là ông không chỉ bị cô lập về mặt chính trị mà còn mất đi sự ủng hộ cần thiết từ dân khí. Khi khủng hoảng nổ ra, chính những người lính từng trung thành với ông đã quay lưng. Ngày 2/11/1963, cái chết của Ngô Đình Diệm không chỉ là cái chết của một cá nhân, mà còn là minh chứng cho bài học lịch sử: Ý chí mạnh mẽ của một nhà lãnh đạo không thể cứu vãn nếu không có sự cộng hưởng từ dân tộc.

 

 

Lê Duẩn – Sau thống nhất là khủng hoảng toàn diện

 

Tổng bí thư Lê Duẩn là nhân vật then chốt trong giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau 1975. Ông mang trong mình ý chí mãnh liệt về một Việt Nam thống nhất, độc lập và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Với Lê Duẩn, giải phóng miền Nam không chỉ là mục tiêu quân sự mà còn là biểu tượng cho sự tất yếu của cách mạng vô sản.

 

Tuy nhiên, khi chiến tranh kết thúc, Lê Duẩn đối diện với một thực tế đầy thách thức: Đất nước kiệt quệ sau chiến tranh lại phải liên tục đối diện với hai cuộc xung đột; nền kinh tế trì trệ và dân khí chưa đủ mạnh để bước vào giai đoạn phát triển. Mô hình kinh tế tập trung bao cấp mà ông lựa chọn nhanh chóng bộc lộ hạn chế, dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng trong thập niên 1980.

 

Lê Duẩn đã nỗ lực giữ vững ý chí cách mạng và đường lối tập trung quyền lực để duy trì sự ổn định chính trị. Nhưng chính sự tập trung quyền lực ấy lại làm giảm khả năng thích ứng và đổi mới cần thiết cho nền kinh tế. Khi ông qua đời năm 1986, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, buộc những nhà lãnh đạo kế tiếp phải tiến hành công cuộc Đổi Mới. Lê Duẩn là minh chứng cho một người lính tiên phong có ý chí sắt đá, nhưng chưa thể đưa dân tộc vượt qua những giới hạn của hệ thống và bối cảnh thời đại (4).

 

 

Võ Văn Kiệt – Muốn thay đổi nhưng không thể vượt ngưỡng

 

Võ Văn Kiệt không phải là người khai sinh ra một chế độ, mà là người tìm cách điều chỉnh và đổi mới hệ thống hiện có. Nếu Hồ Chí Minh là người mở đường, Ngô Đình Diệm là người nỗ lực xây dựng một con đường riêng, Lê Duẩn là người kiên định đi đến cùng con đường của Hồ Chí Minh, thì Võ Văn Kiệt là người có ý muốn canh cải con đường ấy cả về kinh tế lẫn chính trị, dù vẫn bị ràng buộc bởi những giới hạn của hệ thống.

 

Võ Văn Kiệt nhìn thấy rõ những bất cập của mô hình kinh tế kế hoạch và là người mạnh dạn thúc đẩy công cuộc Đổi Mới năm 1986. Dưới sự lãnh đạo của ông, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra một sự bùng nổ kinh tế và đưa hàng triệu người thoát nghèo.

 

Tuy nhiên, dù Võ Văn Kiệt có tư duy cải cách, ông không thể đi xa hơn khi đụng đến vấn đề chính trị. Ông hiểu rằng để Việt Nam phát triển bền vững, không chỉ cần đổi mới kinh tế mà còn phải có một cơ chế chính trị linh hoạt hơn, cho phép nhiều tiếng nói hơn. Nhưng hệ thống chính trị thời đó không cho phép ông thực hiện điều này. Dân khí tuy có thay đổi một phần, nhưng chưa đủ để tạo ra một sự chuyển biến toàn diện. Võ Văn Kiệt là người biết mơ về bình minh những không bao giờ được thấy mặt trời mọc.

 

Phát ngôn nổi tiếng của Võ Văn Kiệt về hiện tượng “có hàng triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn” khi bàn về ngày 30/4/1975 cho thấy ông có một cái nhìn xa hơn về dân tộc – một cái nhìn bao dung và thực tế hơn sau khi ông rời chính trường. Nhưng tiếc thay, tầm nhìn ấy cho đến ngày nay vẫn chưa thể trở thành hiện thực, dù số con dân nước Việt hưởng ứng ý tưởng ấy cả trong lẫn ngoài Việt Nam ngày càng đông (5).

 

 

Đi đầu làm sao tránh độc hành?

 

Tất cả những nhân vật kể trên – Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Lê Duẩn và Võ Văn Kiệt – đều là những người lính tiên phong trên mặt trận lịch sử. Nhưng lịch sử không chỉ được tạo ra bởi những người đi đầu, mà còn bởi đoàn quân theo sau.

 

Hồ Chí Minh đã thắp lên ngọn lửa cách mạng, nhưng ông không thể kiểm soát được tất cả những gì xảy ra sau đó. Ngô Đình Diệm có ý chí mạnh mẽ nhưng bị cô lập vì không có sự cộng hưởng từ dân khí. Lê Duẩn kiên định theo đuổi lý tưởng thống nhất nhưng lại đối mặt với giới hạn phát triển sau chiến thắng. Võ Văn Kiệt nhìn thấy con đường đổi mới nhưng không thể thay đổi hoàn toàn hệ thống chính trị xơ cứng và bảo thủ.

 

Bài học ở đây là gì? Một người lãnh đạo quốc gia, dù xuất sắc đến đâu, cũng không thể thay đổi lịch sử nếu dân tộc không sẵn sàng đồng hành với họ. Nếu không có đoàn quân phía sau, người lính tiên phong có thể mãi chỉ là kẻ lầm lũi bước tới hư vô. Bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng thường xuyên “tụng niệm” phép mầu này. Đáng tiếc là giữa lý luận của Đảng và thực tiễn của xã hội cách nhau một trời một vực (6).

 

Trong thời đại “số hóa” ngày nay, điều này càng trở nên rõ ràng hơn. Ý chí cá nhân không còn là yếu tố duy nhất có tính quyết định – mà chính dân khí, tư duy cộng đồng mới là những yếu tố làm nên sự bền vững của một quốc gia. Người lãnh đạo ở thế kỷ 21 không chỉ cần có tầm nhìn, mà còn phải biết cách tạo ra một môi trường nơi dân khí, dân trí và dân sinh cộng hưởng đủ mạnh để có thể phát triển và tự khẳng định vị thế quốc gia trong một môi trường địa - chính trị còn bất ổn dài dài.

 

(Kỳ cuối: Tô Lâm sẽ khởi được ‘Quẻ Càn’? – Tầm Nhìn Triết Lý ‘Thời Đại Số’)

 

 

Tham khảo:

(1) https://vanviet.info/thu-ban-doc/giai-cap-moi-cua-milovan-djilas/?utm_source=chatgpt.com

(2) https://baophuyen.vn/76/9954/-dang-so-nhat-la-cac-chu-.html?utm_source=chatgpt.com

(3) https://www.voatiengviet.com/a/phong-van-giao-su-nguyen-lien-hang-tac-gia-cua-hanois-war/1582198.html

(4) https://usvietnam.uoregon.edu/viet-nam-hau-chien-va-bai-hoc-ve-tu-do-tu-tuong-chu-nghia-tu-ban-mien-nam-va-chu-nghia-xa-hoi-mien-bac-trong-mat-tong-bi-thu-le-duan-sau-ngay-30-4-1975/?utm_source=chatgpt.com

(5) https://nguoidothi.net.vn/tran-tro-nho-mot-tam-nhin-13984.html

(6) https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/vai-tro-trung-tam-cua-nhan-dan-trong-su-nghiep-cach-mang-cua-dang-va-dan-toc-nhung-bai-hoc-lich-su-va-cac-gia-tri-can-tiep-tuc-van-dung-sang-tao-trong

 

 

 

                                                 *****

 

Làm thế nào để ‘vươn mình’? Phần 3: Tô Lâm sẽ khởi được ‘Quẻ Càn’? – Tầm nhìn triết lý ‘Thời đại số’

Thiều Quang & Nguyên Phong

06/03/2025

https://www.voatiengviet.com/a/lam-the-nao-de-vuon-minh-phan-3-to-lam-se-khoi-duoc-que-can-tam-nhin-triet-ly-thoi-dai-so-/8001032.html

 

Lời Toà Soạn: Loạt bài này từ nhóm tác giả viết cho VOA muốn đối chiếu khoảng cách giữa khát vọng cá nhân với dân khí trong lịch sử cận đại Việt Nam, điều mà theo họ là một trong những trở ngại dai dẳng khiến dân tộc Việt Nam chưa thể bứt phá để sánh ngang các quốc gia phát triển trong khu vực. Sau khi trở thành lãnh đạo tối cao tại Việt Nam, ông Tô Lâm đã vài lần tỏ ra sốt ruột trước sự trì trệ của quốc gia và không ngần ngại nêu lên khát vọng về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Liệu ông Tô Lâm có thể đột phá để thu hẹp khoảng cách vừa đề cập, đặt nền tảng cho một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng? Ngoài việc nêu ra một số so sánh, nhận định, các tác giả còn đề cập đến một số tiền đề với hy vọng biến mong muốn không chỉ của riêng ông Tô Lâm thành hiện thực. Mời độc giả tham khảo và rất mong độc giả đóng góp thêm ý kiến.

 

                                                      ***

 

 

https://gdb.voanews.com/ff3caee2-61a4-4ed3-9aee-95c3068618e4_w1023_r1_s.jpg

Tô Lâm (bìa phải), nhân vật lãnh đạo quyền lực nhất của Việt Nam hiện nay. Hình minh họa.

 

 

Ngọn lửa hay đốm lửa?

 

Trong Kinh Dịch, Quẻ Càn là biểu tượng của sáng tạo, khởi nguyên và của quyền lực tuyệt đối. Nó đại diện cho sự vận động không ngừng của trời, nơi ý chí mạnh mẽ có thể dẫn dắt cả một thời đại. Nhưng không phải cứ có quyền lực là khởi được Quẻ Càn. Điều kiện tiên quyết là sự tương hợp giữa ý chí của người đứng đầu và sức mạnh nội sinh của dân khí (1).

Ông Tô Lâm từng khẳng định: “Việt Nam không thể phát triển mà tách khỏi dòng chảy của văn minh nhân loại.” Câu hỏi đặt ra là: Việt Nam sẽ nhập cuộc thế nào trong “thời đại số hóa”? Liệu đất nước sẽ chỉ đeo bám theo xu thế, hay đủ khả năng định hình tương lai của chính mình? Và quan trọng nhất: Khi nào Tổng Bí thu Tô Lâm có thể khởi được “Quẻ Càn” để đưa Việt Nam tiến vào “kỷ nguyên dân tộc vươn mình”, kỷ nguyên phát triển thực sự?

 

 

Ý chí và dân khí trong “Thời đại số hóa”

 

Lịch sử đã chứng minh rằng một quốc gia chỉ có thể trỗi dậy khi ý chí lãnh đạo gặp được dân khí trưởng thành. Trước đây, dân khí chủ yếu gắn với khát vọng độc lập dân tộc, nhưng ngày nay, đó là nhu cầu sáng tạo, tự do và hạnh phúc trong một xã hội toàn cầu hóa./

 

“Thời đại số hóa” đã thay đổi hoàn toàn bản chất của quyền lực. Công nghệ không chỉ là công cụ mà còn mở ra không gian chính trị mới (2). Người dân không còn bị giới hạn trong những khuôn khổ cũ mà trở thành những chủ thể có thể tự tạo ra ảnh hưởng qua mạng lưới kết nối toàn cầu. Sự vận động của dân khí – dân trí – dân sinh hiện đại không chỉ dựa trên lòng yêu nước mà còn dựa trên khát vọng tri thức, sáng tạo và khả năng tự quyết định tương lai của mỗi cá nhân.

 

Nếu không nắm bắt được xu hướng này, bất kỳ hệ thống chính trị nào cũng sẽ lạc lõng và mất dần khả năng kiểm soát thực tiễn. Điều này đặt ra một bài toán lớn: Liệu Việt Nam có thể phát triển một mô hình chính trị phù hợp với thời đại mới, nơi mà quyền lực không còn chỉ là kiểm soát, mà thật sự trở thành động lực giải phóng năng lượng sáng tạo của cộng đồng? (3)

 

 

Khởi Quẻ Càn – Khi nào?

 

Để khởi được Quẻ Càn, điều kiện tiên quyết là biến người dân từ “đối tượng quản lý” thành “chủ thể sáng tạo”. Đây không chỉ là thay đổi về chính sách mà còn là một cuộc cách mạng trong tư duy lãnh đạo.

 

Một chính quyền muốn dẫn dắt trong “thời đại số hóa” không thể chỉ dừng lại ở việc sử dụng công nghệ để tăng cường kiểm soát. Họ cần tạo ra một không gian chính trị mở, nơi ý chí lãnh đạo có thể kết hợp với dân khí – dân trí – dân sinh đủ để tạo ra động lực phát triển thực sự. Điều này đòi hỏi một sự đổi mới căn bản và triệt để trong triết lý quyền lực (4):

 

- Từ kiểm soát sang khai phóng: Quyền lực không còn là công cụ để duy trì trật tự mà phải trở thành động lực thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo.

 

- Từ tập quyền sang tản quyền: Mô hình lãnh đạo cần dựa trên sự trao quyền, nơi mọi cá nhân đều có thể đóng góp vào tiến trình phát triển chung.

 

- Từ bảo thủ sang thích ứng: Trong “thời đại số”, tốc độ thay đổi là yếu tố quyết định. Một hệ thống chính trị linh hoạt, sẵn sàng thích nghi với xu thế mới sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn.

 

Tóm lại, khởi được Quẻ Càn không đơn thuần là vấn đề ý chí, mà là bài toán chính trị – liệu Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống đủ cởi mở để tương hợp với dân khí “thời đại số” hay không?

 

 

Tổng Bí thư có thể tạo ra nền tảng dân khí đủ mạnh?

 

Tô Lâm đang ở vị trí có thể quyết định hướng đi của Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này. Nhưng để khởi được Quẻ Càn, ông không thể chỉ dựa vào bộ máy kiểm soát mà phải xây dựng một mô hình chính trị cho phép ý chí lãnh đạo và dân khí hội tụ trong cùng một dòng chảy phát triển.

 

Có hai con đường để lựa trước mắt:

 

- Giữ nguyên mô hình kiểm soát truyền thống, nơi quyền lực tiếp tục tập trung vào nhà nước, trước hết chỉ chuyên chú vào quyền lực của Tuyên giáo và Công an với một ít điều chỉnh trong chính sách kinh tế và công nghệ. Đây là con đường an toàn nhưng nguy cơ là sẽ tiếp tục bị chậm lụt trước những biến đổi nhanh chóng của “thời đại số hóa”. Tại Hà Nội, mới đây Thủ tướng Malaysia còn đưa ra cảnh báo, trong thế giới chính trị và kinh tế ngày nay, nhiều giá trị bị đẩy xuống hàng thứ yếu, như công lý, bình đẳng, chăm sóc người nghèo bị thiệt thòi… dẫn đến sự ngờ vực đối với lãnh đạo (5).

 

- Chấp nhận đổi mới mô hình chính trị, trong đó nhà nước không chỉ quản lý mà còn đóng vai trò kích thích sáng tạo, trao quyền cho doanh nghiệp tư nhân và tầng lớp trí thức để tạo ra sự bùng nổ về công nghệ và đổi mới xã hội. Đây là con đường đầy khó khăn nhưng có thể tạo ra đột phá nếu được thực hiện đúng cách.

 

Câu hỏi đặt ra là: Tô Lâm có sẵn sàng thực hiện một cuộc chuyển đổi thực sự, và đoàn quân theo sau ông với lượng và phẩm như thế nào, hay tất cả chỉ dừng lại ở những điều chỉnh nhỏ trong khuôn khổ cũ? Đoàn người hưởng ứng lời hiệu triệu của ông có đủ đông, đủ mạnh, họ có thực sự là những người ưu tú, có khả năng kiến tạo tương lai, hay chỉ là những kẻ cơ hội sẵn sàng làm hại chính sự nghiệp chính trị của ông?

 

 

Nếu không có đoàn quân phía sau?

 

Trong lịch sử thế giới, những nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa luôn biết cách khơi dậy sức mạnh của dân tộc bằng cách tương tác với dân khí thời đại. Nếu Tô Lâm thực sự muốn khởi Quẻ Càn, ông không thể làm điều đó một mình.

 

Nếu khởi được Quẻ Càn, Việt Nam có thể trở thành một hình mẫu phát triển dựa trên sáng tạo nội sinh, nơi dân khí trưởng thành và ý chí lãnh đạo khai phóng tạo ra một nền tảng vững chắc cho sự trỗi dậy của quốc gia.

 

Nếu không, ý chí dù mạnh đến đâu cũng chỉ là một “nhát chém” trong hư vô, một “bản nháp dang dở” trong cuốn biên niên sử của thời đại. Và lịch sử sẽ không đợi.

 

 

                                                   ***

 

Kết Luận Mở: Lịch Sử Không Chờ Đợi!

 

Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ là một đường thẳng, mà luôn là những vòng xoáy với những cơ hội và thách thức lặp lại. Câu hỏi đặt ra không phải là chúng ta có cơ hội hay không, mà là chúng ta có dám nắm lấy cơ hội đó hay không.

 

Ông Tô Lâm cần phải hành động, và hành động sớm nhất có thể! Nhưng hành động ấy không thể chỉ đến từ một nhóm nhỏ lãnh đạo hay một tầng lớp tinh hoa, mà phải từ một sự tỉnh thức tập thể, nơi mỗi cá nhân tự nhận lấy vai trò của mình trong công cuộc định hình tương lai đất nước.

 

Lịch sử không thể bị thúc ép, nhưng nó cần và có thể định hướng. Sự thay đổi chỉ có ý nghĩa thực sự khi nó xuất phát từ nội tâm của mỗi con dân nước Việt – từ một nhận thức rõ ràng về trách nhiệm của mình đối với đất nước, đối với thế hệ mai sau.

 

Một điều có thể đoan chắc: Lịch sử không chờ đợi ai, nhất là từ những người vô cảm trước nỗi nhục quốc thể và nỗi đau của cả một dân tộc!

 

------------------

Tham khảo:

 

(1) https://trithucvn2.net/van-hoa/mot-so-dao-ly-nhan-sinh-trong-que-can-cua-kinh-dich.html

 

(2) https://nghiencuuquocte.org/2013/06/03/power-changing-nature/?utm_source=chatgpt.com

 

(3) https://www.voatiengviet.com/a/nghi-quyet-57-voi-hoi-nghi-toan-quoc-ve-khoa-hoc-cong-nghe/7945050.html

 

(4) https://www.voatiengviet.com/a/quyen-luc/1688203.html

 

(5) https://tuoitre.vn/thu-tuong-malaysia-anwar-ibrahim-viet-nam-xuat-sac-o-mot-so-linh-vuc-20250302084809849.htm

 

 

 

 




No comments: