Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-04-03
2015-04-03
Trong thời gian kể từ lễ hội Ngàn năm Thăng Long –
Hà Nội vào năm 2010 đến nay, Quảng Bình là tỉnh gặp nhiều thiên tai nhất khu vực
miền Trung, bão lũ liên tục kéo qua đây. Đến năm 2013, sau khi đón di hài của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp về quê, Quảng Bình lại tiếp tục rơi vào nạn đói khó. Không
riêng gì ở các huyện nghèo như Lệ Thủy, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Quảng
Ninh, Quảng Trạch… mà ngay cả thành phố Đồng Hới cũng không tránh khỏi nạn đói.
Thiên
tai liên tục dày vò
Ông Thạnh, cư dân huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, chia sẻ: “Ra
Giêng, Hai này là mùa thiếu gạo, mùa giáp hạt, những hộ quá nghèo thì có gạo cứu
tế, chứ những hộ không thuộc diện quá nghèo thì làm chi có gạo. Tháng Ba thì ai
cũng thiếu gạo, các huyện đều vậy... Hụt mức độ nào đó…”.
Theo ông Thạnh, năm năm trở lại đây, Quảng Bình luôn
bị thiên tai, thời tiết khắc nghiệt lạ thường. Người nông dân khó bề ổn định
làm ăn, ngoài yếu tố tự nhiên, thủy điện Hố Hô cũng góp tay một phần không nhỏ
đến sự mất ổn định của người dân vùng hạ lưu.
Mùa nắng thì nguồn nước bị thiếu trầm trọng bởi các
con sống cạn nguồn, khô khốc, một phần nước không nhỏ đã bị thủy điện tích vào
hồ để phát điện. Gió Lào thổi bạt từ Quảng Trị đến Quảng Bình, đất đai khô khốc,
thời tiết nóng như lửa đốt, trâu bò, gà lợn há hốc vì thiếu nước, có nhiều con
chịu không nổi phải lăn ra chết. Những đồng ruộng bị bỏ hoang ngày càng nhiều bởi
sự khô cằn của nó không những không mang lại lợi tức cho người nông dân mà còn
giết quá nhiều ngày công lao động vào đó.
Chính bởi thời tiết khắc nghiệt như vậy nên phần
đông người trong độ tuổi lao động di tản vào các tỉnh miền Nam để làm thuê, ở
nhà chỉ còn lại người già và trẻ em. Mà một khi ruộng đồng không được chăm sóc,
bỏ hoang thì cả một cánh đồng trở thành bãi nhiệt bởi không có nước, lại góp phần
làm cái nóng ở đây tăng cao.
Đến mùa mưa thì giông bão, lụt lội triền miên, ba
tháng mùa mưa, hết gần hai tháng người dân gánh chịu thiên tai. Nhiều nông dân
sắm ghe nan, lưới cá để kiếm sống trong mùa mưa, họ đánh bắt ngay trên đồng ruộng
của gia đình. Một số người bơi ghe ra sông vớt củi, mang về tập kết ở bãi đất
cao đợi đến xong lụt mang đi bán để mua gạo. Đời sống ở Quảng Bình, theo như
ông Thạnh nhận xét thì hiện tại quá nửa nạc nửa mỡ. Nghĩa là công nghiệp cũng
chưa hẳn công nghiệp mà nông nghiệp thì đói kém. Chính vì kiểu làm kinh tế chưa
định hình như vậy nên phần đông người dân đi làm thuê ở các tỉnh xa hoặc bám trụ
với mảnh vườn khô khốc, với mấy luống rau muống, mấy vạt cải còi cọc và những
đám ruộng lúa thất bát.
Hiện tại, đã đến mùa giáp hạt, đa phần bà con nông
dân rơi vào tình trạng rỗng bồ, không có lúa gạo để ăn từ hôm đầu Xuân cho đến
nay. Nguy cơ người ta phải dắt díu nhau đi làm thuê cuốc mướn hoặc ăn xin đang
rất cao. Mặc dù nhà nước có hỗ trợ gạo về cho dân nhưng phần gạo đó cũng chỉ đắp
đổi dăm bữa nửa tháng chứ không thể kéo dài nhiều hơn.
Bởi mỗi phần gạo cứu trợ của người dân gánh quá nhiều
thứ chi phí mờ ám mà theo ông Thạnh là nếu như loại chi phí này còn kéo dài thì
dân Quảng Bình sẽ còn ngửa tay xin cứu trợ dài dài, khó mà thoát khỏi cảnh
nghèo đói. Những thứ chi phí này không có trong luật định cũng như không có
trong chương trình tài trợ, cứu đói của nhà nước.
Những
chi phí mờ ám và đất đai bị thu hẹp
Một nông dân tên Nhất, chia sẻ thêm với chúng tôi: “Thường
thì sau lụt sau bão thì có đôi hột, đôi bữa thì có mấy cái áo quần thôi, áo quần
cũ đó. Thường thì trước đây có chứ bây chừ thì không có. Thỉnh thoảng có đoàn
tài trợ về cho mình, mỗi suất một trăm, hai trăm, có suất lên 500 ngàn đồng.
Nhưng hiếm lắm, mấy ông ủy ban dẫn đi cho một số gia đình… Nói chung là khó lắm,
hạn hán cũng do thủy điện mà lũ lụt cũng do thủy điện”.
Theo ông Nhất, kể từ năm 2010, sau trận lụt kinh
hoàng ngay trong dịp lễ Ngàn năm Thăng Long – Hà Nội, việc cứu trợ tại Quảng
Bình có quá nhiều vấn đề mờ ám. Các phương tiện thông tin nhà nước đưa tin về
các phần quà dành cho nông dân gặp thiên tai khá cao, mỗi suất có thể lên đến
vài trăm ngàn đồng, nhiều nơi lên đến nửa triệu đồng và những phần tiền cứu trợ
để tái xây dựng nhà cũng khá lớn, nhiều gia đình nhận được trên 10 triệu đồng.
Nhưng trên thực tế, khoản tiền về đến tay người dân
chưa bao giờ quá ba triệu đồng và những suất quà nếu chịu khó ngồi tính nhẩm
thì không có suất quà nào vượt quá hai trăm ngàn đồng. Trừ những phần quà của
các nhà từ thiện từ miền Nam ra gặp trực tiếp người dân để tặng thì giá trị mỗi
suất có thể lên đến năm trăm ngàn đồng. Nhưng chuyện này cũng hiếm hoi vì nhà từ
thiện muốn tặng quà cho dân phải thông qua chính quyền địa phương, không thể tự
động đến gặp dân để cho.
Ông Nhất là một trong những người nhận phải phần quà
áo quần toàn dính dầu nhớt vào mùa mưa lụt năm 2010. Cũng theo ông, những phần
quà áo quần thực sự của nhà từ thiện rất đẹp, nó lọt vào nhà các quan chức địa
phương và người thân của họ. Những phần quà của dân nghèo đã bị đánh tráo.
Và chuyện này không phải diễn ra một vài lần mà hầu
hết năm nào có tài trợ, cứu tế, từ thiện đều có xảy ra tiêu cực. Những cũng
theo ông, những phần quà áo quần thực sự của nhà từ thiện rất đẹp, nó lọt vào
nhà các quan chức địa phương và người thân của họ. Những phần quà của dân nghèo
đã bị đánh tráo.
Và chuyện này không phải diễn ra một vài lần mà hầu
hết năm nào có tài trợ, cứu tế, từ thiện đều có xảy ra tiêu cực. Những phần quà
có giá trị bị đánh tráo hoặc tùng xẻo theo nhiều cách. Trong đó đáng sợ nhất là
sung vào công quĩ sau đó chia đều trên đầu người.
Nghĩa là nhà cầm quyền địa phương sẽ chia số quà cho
số người có trong xã, trong huyện để cho ra một con số bình quân đầu người. Sau
đó họ lấy con số bình quân đầu người này để tặng cho những gia đình bị thiên
tai. Ví dụ như gạo cứu tế trong đợt này, xã của ông Nhất được hai chục tấn dành
cho những người thật sự nghèo chẳng hạn, nhà cầm quyền xã sẽ chia con số hai chục
tấn này cho hai ngàn người dân trong xã và mỗi người được 10kg gạo. Chia xong,
họ sẽ lấy con số 10kg này làm mốc để phát gạo cho chừng 300 người nghèo. Con số
còn lại mười bảy tấn gạo không được nhắc đến. Con số báo cáo với cấp trên hoàn
toàn hợp lệ sau khi chia đều trên đầu dân.
Người dân thì hoàn toàn không biết gì về những con số
này. Hơn nữa, đất đai phì nhiêu đều đã có chủ, những gia đình có tiền, có quyền
đã mua những mảnh đất này để xây dựng biệt thự hoặc trang trại, hoặc kinh doanh
nuôi tôm. Họ có đủ phương cách để làm giàu. Trong khi đó, đất đai ngày càng trở
nên khô cằn và eo hẹp đối với nông dân nghèo chỉ biết hy vọng vào tương lai. Mà
tương lai thì mơ hồ và dễ bốc hơi như nước trong đám ruộng khô.
Nhóm
phóng viên tường trình từ Việt Nam.
No comments:
Post a Comment