Alexander L. Vuving - The Diplomat
Người dịch: Trần Văn Minh
Posted by adminbasam on 14/04/2015
Một
chuyến viếng thăm gần đây biểu hiện sự thay đổi bất ngờ trong quan hệ song
phương.
Xuất hiện như một trong những mối quan hệ song
phương quan trọng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, quan hệ giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam đã đạt được bước đột phá đáng kể trong thời gian gần đây. Dường như nằm
dưới tầm nhắm của báo chí quốc tế, bước đột phá này đã được thực hiện trong
chuyến viếng thăm Washington từ ngày 15 tới 20 tháng 3 của Bộ trưởng Bộ Công
an Việt Nam Trần Đại Quang. Có lẽ truyền thông ít quan tâm đến chuyến đi
này vì nó được xem như sự trao đổi thường xuyên ở cấp bộ trưởng. Nhưng sứ mạng
của ông Quang không phải bình thường, và nội dung cuộc hội đàm của ông cho thấy
sự thay đổi về chất lượng trong quan hệ Mỹ-Việt.
Đứng đầu một trong hai bộ mạnh nhất trong chính quyền
Việt Nam (bộ kia là Bộ Quốc phòng), ông Quang cũng là một thành viên chủ chốt
trong tập đoàn lãnh đạo của Việt Nam, là Bộ Chính trị Đảng Cộng sản. Các nguồn
tin tức Việt Nam thông báo rằng ông sang Hoa Kỳ chủ yếu với tư cách là thành
viên của Bộ Chính trị và mục đích chính của chuyến đi nhằm chuẩn bị cho chuyến
thăm đầu tiên vào tháng 6 của nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Nguyễn Phú Trọng.
Điều bất thường đối với một bộ trưởng là ông Quang
đã hội đàm với các quan chức cao cấp khác nhau của các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ,
bao gồm không chỉ Bộ An ninh Nội địa và FBI, mà còn Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc
phòng, Hội đồng An ninh Quốc gia, Bộ Tư pháp và CIA. Ông Quang cũng đã gặp gỡ
các nhà lập pháp cao cấp trong Quốc hội. Các chủ đề của cuộc hội đàm của ông đã
vượt ra ngoài giới hạn của Bộ trưởng Bộ Công an và trải dài từ quốc phòng, an
ninh tới thương mại và đầu tư. Nhân quyền cũng là một điểm quan trọng trong sự
trao đổi của ông với đối tác Mỹ. Theo các nguồn tin từ Việt Nam, một phần quan
trọng trong sứ mệnh của ông Quang là củng cố sự hỗ trợ của Mỹ cho Việt Nam
trong tranh chấp ở Biển Đông và vấn đề an ninh khu vực.
Qua sự kiện cử ông Quang sang Mỹ, Bộ Chính trị ở Hà
Nội đã gửi một thông điệp rõ ràng về thái độ của họ đối với kẻ thù cũ. Ông
Quang đã được chọn để thực hiện chuyến đi chuẩn bị cho chuyến thăm của ông Trọng
vì ông ta được lãnh tụ Đảng Cộng sản tin tưởng. Nhưng ông cũng là thủ lĩnh của
lực lượng an ninh có trách nhiệm bảo vệ chế độ. Trong khả năng này, ông ta sẽ
là một mục tiêu chính của các nhà phê bình nhân quyền tại Hoa Kỳ. Chuyến đi của
ông Quang, là chuyến thăm chính thức đầu tiên của một bộ trưởng công an Việt
Nam đến Mỹ, mang ý nghĩa rằng Hà Nội bây giờ tự tin để đối đầu với những chất vấn
về ý thức hệ. Về phần mình, cử chỉ thân thiện của Washington đối với ông Quang
đã giúp Hà Nội hạ thấp nhận thức về mối đe dọa của Hoa Kỳ.
Các
mối quan hệ đã biến đổi
Chuyến đi Mỹ của ông Quang là chuyến đi mới nhất
trong một loạt các cuộc họp những năm gần đây đã làm thay đổi bản chất mối quan
hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Điều khởi động tiến trình này là chuyến thăm của
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đến Hà Nội vào tháng 7 năm 2012. Trong chuyến
đi đó, bà Clinton đã gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng và mời ông đến
thăm Hoa Kỳ. Biểu tượng của những cử chỉ này là Washington chấp nhận sự khác biệt
về ý thức hệ với chế độ Việt Nam và nhìn nhận Đảng Cộng sản cầm quyền của Việt
Nam là một đối tác, và nhà cầm quyền ở Hà Nội đã phê chuẩn quan hệ đối tác này.
Ý nghĩa lời mời của bà Clinton quan trọng đối với Hà Nội. Điều này gợi ý rằng mặc
dù ở phía đối nghịch về lãnh vực ý thức hệ, Hoa Kỳ bây giờ cam kết một tình bạn
nghiêm túc với Việt Nam. Trên thực tế, cuộc họp đã mở cửa cho sự giao lưu thực
chất giữa chính phủ Mỹ và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chuyến thăm của bà Clinton đã mở đường cho việc
thành lập mối hợp tác toàn diện Mỹ-Việt, đã được chính thức đưa ra một năm sau
đó ở Washington tại hội nghị thượng đỉnh tháng 7 năm 2013 giữa Tổng thống Mỹ
Barack Obama và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang. Trong khuôn khổ hợp tác
này, Washington và Hà Nội cam kết tôn trọng “hệ thống chính trị, độc lập, chủ
quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Theo nguyên tắc này, chương trình làm
việc kêu gọi hợp tác trong một phạm vi với đầy đủ các lãnh vực, trải dài từ các
mối quan hệ chính trị đến thương mại và kinh tế, từ công nghệ và giáo dục tới
quốc phòng và an ninh, từ văn hóa, thể thao, du lịch tới các vấn đề chiến tranh
di sản, và từ môi trường, sức khỏe cho đến việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền.
Vào đầu tháng 10 năm 2014, khi Ngoại trưởng John
Kerry gặp Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Hoa Kỳ tuyên bố quyết định dỡ bỏ
một phần lệnh cấm vận cung cấp vũ khí sát thương cho Việt Nam, để giúp cải thiện
an ninh hàng hải. Lệnh cấm vận vũ khí là một tảng đá quan trọng rơi xuống đầu
tiên về phía Mỹ trên con đường dẫn đến quan hệ Mỹ-Việt gần gũi hơn.
Một trở ngại khác về phía Việt Nam đã được gỡ bỏ khi
Trần Đại Quang viếng thăm Washington năm nay. Khi trao đổi với các đối tác Mỹ,
ông Quang khẳng định rằng Hà Nội sẽ cho phép tổ chức thiện nguyện Peace Corps của
Mỹ hoạt động tại Việt Nam. Điều này đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong thái
độ của chế độ cộng sản đối với kẻ thù ý thức hệ của họ. Năm năm trước, trong một
tài liệu chính sách quan trọng của Cơ quan Tuyên giáo của Đảng Cộng sản, người
gác cổng ý thức hệ của Việt Nam vẫn chỉ ra Peace Corps là một “thế lực thù địch”
và một tổ chức chuyên về tuyên truyền và các hoạt động lật đổ chống lại chế độ
cộng sản.
Hoa Kỳ và Cộng sản Việt Nam tiến tới quan hệ bình
thường hóa một cách chậm chạp. Phải mất hai thập niên sau khi chiến tranh kết
thúc để khôi phục lại quan hệ ngoại giao (năm 1995). Cần phải hai thập niên nữa
sau đó để bình thường hóa hoàn toàn quan hệ. Chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng Cộng
Sản Nguyễn Phú Trọng tới Washington vào tháng 6 sẽ là bước cuối cùng trong việc
bình thường hóa này.
Cùng
lợi ích
Trong khi Trung Quốc trở thành một yếu tố quan trọng
trong việc làm co giãn quan hệ Mỹ-Việt, động lực chính giữ không cho Hà Nội và
Washington tiến gần với nhau hơn là tâm lý và ý thức hệ chứ không phải vật chất.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các lợi ích chiến lược của Việt Nam và Hoa Kỳ
hội tụ về điều ưu tiên cao nhất của hai nước trong một khu vực với môi trường
hòa bình và ổn định, điều sẽ có lợi cho phát triển kinh tế. Từng là một thế lực
của chủ nghĩa xét lại, Việt Nam đã trở thành nước ủng hộ sự nguyên trạng do Mỹ
chủ trương. Về phần mình, Hoa Kỳ đã từ bỏ ý muốn làm suy yếu và cô lập Hà Nội
và quan tâm tới những lợi ích với một Việt Nam thịnh vượng và giàu mạnh. Tuy
nhiên, mỗi bên cảm thấy bên kia như là một mối đe dọa cho chính mình. Tại Hoa Kỳ,
ký ức về sự thất bại trong chiến tranh Việt Nam và khái niệm tự thân của một quốc
gia vô địch về sự tự do đã tạo nên những thế lực mạnh mẽ chống lại các mối quan
hệ gần gũi hơn với Hà Nội. Ở Việt Nam, mong muốn duy trì chế độ và sự thống trị
của tư tưởng chống phương Tây đã cản trở từng bước tiến tới tình hữu nghị với
Washington.
Nỗ lực lâu dài của cả Hà Nội và Washington đã đóng
vai trò quan trọng trong việc làm giảm nhận thức mối đe dọa nhau. Nhưng yếu tố
quyết định mà trong những năm gần đây đã biến hai cựu thù thành bạn bè là sự xuất
hiện của một mối đe dọa an ninh chung. Sự bành trướng lãnh hải của Bắc Kinh ở
Biển Đông đã thay đổi những tính toán chiến lược cho cả Hà Nội và Washington. Đối
mặt với một thách thức rất lớn từ Trung Quốc, Việt Nam và Hoa Kỳ hiện đang chuẩn
bị để giảm nhẹ những bất đồng về ý thức hệ của họ để tập trung vào lợi ích chiến
lược chung.
Bước đột phá đang mở ra cho một quan hệ đối tác chặt
chẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thực sự xảy ra từng bước một. Bắt đầu với chuyến
thăm của bà Hillary Clinton đến Hà Nội vào tháng 7 năm 2012 và sẽ kết thúc với
chuyến thăm Washington của ông Nguyễn Phú Trọng vào mùa hè này. Trong khi tiến
trình xảy ra chậm chạp, sự thay đổi thật là lớn. Một thập niên trước, các quan
chức ở Hà Nội nói với tôi rằng, một cách không chính thức chính quyền của họ
coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược, trong khi chính thức không phải như vậy.
Ngày nay, có sự hiểu ngầm rằng mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ là đối tác
toàn diện trong tên gọi nhưng là đối tác chiến lược trong nội dung.
Alexander L. Vuving là phó giáo sư tại Phân khoa An
ninh của Trung tâm châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu. Quan điểm thể hiện trong
bài viết này là của riêng tác giả, không phản ánh quan điểm của Trung tâm châu
Á-Thái Bình Dương, Bộ Quốc phòng, hoặc Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment