Phạm Bá Hoa
November 20, 2011 8:08 PM
1. XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ.
Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Ngày cuối tháng 4/1975, bối cảnh chính trị đưa chúng tôi vào tình thế thua trận, chúng tôi bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam đày đọa trong hằng trăm trại tập trung trong số hơn 200 trại mà cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm ròng rả, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Giờ đây, Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi là Người Lính thua trận, nhưng tôi rất hãnh diện vì được phục vụ tổ quốc và dân tộc với tư cách một công dân trong thời chiến tranh bảo vệ dân chủ tự do. Giờ đây tôi đang sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó. Trong bài này, xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày.
2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI.
Những sự kiện mà tôi trình bày trong bài này chỉ nhắm vào lãnh đạo đảng cộng sản và lãnh đạo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, trong mục đích giúp Các Anh nhận ra cấp Lãnh Đạo của Các Anh hành động như thế nào trong bang giao – mà xã hội chủ nghĩa gọi là quan hệ – giữa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa – tôi gọi ngắn gọn là Trung Cộng – và những hành động đó “có phải là đã và đang thi hành “biên bản” năm 1990 giữa Nguyễn Văn Linh & Đỗ Mười lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam, với Giang Trạch Dân & Lý Bằng lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước Trung Hoa hay không?
Mời Các Anh …
Mời Các Anh …
a. Nhìn lại lịch sử.
Một kẻ thù trong lịch sử = Vua Trung Hoa phong kiến. Dòng lịch sử suốt chiều dài gần 5.000 năm, dân tộc ta trải qua những biến đổi đau thương do các triều đại phong kiến Trung Hoa xâm lăng cai trị: (1) Lần thứ nhất, từ năm 111 trước tây lịch đến năm 39 sau tây lịch = 150 năm. (2) Lần thứ hai, từ năm 43 đến năm 544 = 501 năm. (3) Lần thứ ba, từ năm 603 đến năm 939 = 336 năm. (4) Lần thứ tư vào thế kỷ 15, từ năm 1.414 đến năm 1.427 = 13 năm. Cộng chung cả 4 thời kỳ bị trị đến 1.000 năm, hay là 40 thế hệ Việt Nam bị dìm sâu dưới chính sách cai trị nghiệt ngã tàn bạo của vua quan phong kiến Trung Hoa! Nhưng từ trong nghiệt ngã đó, chúng ta phải cúi đầu khâm phục tổ tiên và dân tộc ta trong lịch sử, chẳng những đã không bị Trung Hoa đồng hóa, mà lại xây dựng và bảo vệ tròn vẹn một nền văn hoá trong sáng để lại cho chúng ta.
Lời dạy từ trong lịch sử = Vua Việt Nam Trần Nhân Tông. Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.” Kẻ khác, mà vua Trần Nhân Tông nói đến, thuở ấy là Trung Hoa phong kiến, và bây giờ là Trung Hoa cộng sản. Ngắn gọn là Trung Cộng.
b. Nhìn vào hiện tại.
Kẻ thù trong hiện tại = Lãnh đạo Trung Cộng. Giữa năm 2011, tổ chức Wikileaks đã công bố hằng ngàn tài liệu loại tối mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà tổ chức Wikileaks có được, trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo CSTH, trong ngày 3 & 4 tháng 9 năm 1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Quốc.
Wikileaks khẳng định, tin tức dưới đây nằm trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Tài liệu này có đoạn ghi rõ:
“… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”.
Kẻ thù trong hiện tại = Lãnh đạo Trung Cộng. Giữa năm 2011, tổ chức Wikileaks đã công bố hằng ngàn tài liệu loại tối mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà tổ chức Wikileaks có được, trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo CSTH, trong ngày 3 & 4 tháng 9 năm 1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Quốc.
Wikileaks khẳng định, tin tức dưới đây nằm trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Tài liệu này có đoạn ghi rõ:
“… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”.
Mời Các Anh kiểm chứng qua một số sự kiện dưới đây để tùy Các Anh đánh giá, có phải là lãnh đạo CSVN đang thực hiện “biên bản” đó hay không:
Nhìn lên biên giới.
Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
Xin hỏi: “Các Anh có chấp nhận sự thực này không? Nếu không, mời đọc vài đoạn ngắn trong bài viết
của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hà Nội: “… Hiệp Ước bán phần đất biên giới chỉ được lãnh đạo Việt Nam thông báo trong nội bộ đảng, như thể đất nước này là tài sản riêng của đảng cộng sản vậy. Thông báo chánh thức đó như thế này: Toàn bộ diện tích các khu vực hai bên có nhận thức khác nhau khoảng 227 cây số vuông. Qua đàm phán, hai bên đã thỏa thuận khoảng 113 cây số vuông thuộc Việt Nam, và khoảng 114 cây số vuông thuộc Trung Hoa. Như vậy, diện tích được giải quyết cho mỗi bên xấp xỉ ngang nhau, hoàn toàn không có việc ta để mất một diện tích lớn như bọn phản động và bọn cơ hội chính trị bịa đặt”. Rồi ông Giang mỉa mai: Vậy là cái xấp xỉ đó có mất đất thật! Nhưng mất theo nguyên tắc nào? Vì sao Việt Nam chỉ có 320 ngàn cây số vuông lại phải xẽ cho Trung Hoa với diện tích 9 triệu 600 ngàn cây số vuông để họ có thêm 1 cây số vuông nữa? Cho dù Trung Hoa có 1 tỉ 300 triệu dân, nhưng đâu phải họ thiếu đất cho dân ở đến nỗi Việt Nam phải chia cho họ 1 cây số vuông?” ….. Ông chợt nhớ đến cụ Đỗ Việt Sơn ngót 80 tuổi đời mà trong đó gần 60 tuổi đảng, cụ Sơn đã dõng dạc đề nghị không thông qua bản Hiệp Định biên giới Việt Nam-Trung Hoa, để rồi cụ phải chịu bao nhiêu sách nhiễu răn đe hỗn xược của Công An. Ông Giang cũng nhớ đến Bùi Minh Quốc! Là nhà văn nhà thơ, thiên chức đó thôi thúc Bùi Minh Quốc không thể bàng quan, không thể nín lặng, anh đã lặng lẽ làm một cuộc hành trình dọc biên giới phía Bắc, nơi mà hiệp định đã cắt một phần biên giới cho Trung Hoa, để rồi anh bị quản chế giam hảm tại nhà. Lại đến nhà xã hội học Trần Khuê, cũng chung số phận hẩm hiu như Bùi Minh Quốc. Ông Giang khẳng định: “Trung Hoa là người láng giềng, sông liền sông núi liền núi, nhân dân hai nước sáng sớm cùng chung nghe tiếng gà gáy ó o, khi tắt lửa tối đèn cùng sống với nhau trong thân bằng quyến thuộc, nhưng Trung Hoa chưa bao giờ là người láng giềng tử tế cả, không chỉ không tử tế đối với Việt Nam chúng ta mà đối với các quốc gia lân bang cũng vậy …”
Và một đoạn khác của Bác sĩ Trần Đại Sỹ, lúc ấy làm việc cho “Liên Hiệp Các Viện Bào Chế Châu Âu” (viết tắt của Pháp ngữ là CEF) và “Ủy Ban Trao Đổi Y Học Pháp Hoa” (viết tắt của Pháp ngữ là CMFC). Ngày 9/1/2000 – tức 10 ngày sau ngày ký Hiệp Ước bán đất biên giới- ông được hai người bạn Trung Hoa đang là ký giả cho ông biết chính xác là 789 cây số vuông thuộc hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng đã thuộc về Trung Cộng. Về mặt chính quyền, bộ Ngoại Giao CSVN đã lặng lẽ sửa câu văn trong trang Web trên internet mà Các Anh gọi là mạng lưới thông tin toàn cầu, như sau: “Lãnh thổ Việt Nam khởi từ Cây Số KHÔNG ở phía bắc”. Ông nói thêm: “Cây Số Không bây giờ lui vào nội địa Việt Nam 5 cây số”.
Vậy là Ải Nam Quan từ trong lịch sử của chúng ta đã mất vào tay Trung Cộng! Nhưng nỗi đau của người dân Việt chúng ta là mất đất trong hòa bình, mất đất trong cái gọi là 16 chữ vàng mà lãnh đạo của Các Anh luôn rao giảng trong quân đội và buộc Các Anh phải tôn trọng”.
Vậy là Ải Nam Quan từ trong lịch sử của chúng ta đã mất vào tay Trung Cộng! Nhưng nỗi đau của người dân Việt chúng ta là mất đất trong hòa bình, mất đất trong cái gọi là 16 chữ vàng mà lãnh đạo của Các Anh luôn rao giảng trong quân đội và buộc Các Anh phải tôn trọng”.
Nhìn vào vịnh Bắc Việt.
“Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Trung Cộng với danh nghĩa thăm viếng thiện chí, nhưng thật sự là ký Hiệp Ước bán biên giới trên vịnh Bắc Việt với lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh. Việt Nam bị mất 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt”.
Xin Các Anh bình tỉnh đọc chuỗi tin tức sau đây: “
(1) Ngày 31/12/1999, ông Tang Jiaxuan, Bộ Trưởng Ngoại Giao CSTH sang Hà Nội gặp riêng ông Lê Khả Phiêu bàn về biên giới trên Vịnh Bắc Việt.
(2) Ngày 25/2/2000, Lê Khả Phiêu cử Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh cho biết CSVN đồng ý giao thêm phần biển trên Vịnh Bắc Việt.
(3) Nhân chuyến viếng thăm Thái Lan, Ngoại Trưởng CSTH gởi văn thư mời ông Nguyễn Dy Niên sang gặp ông ta tại Bangkok.
(4) Ngày 26/7/2000, Nguyễn Dy Niên sang Bangkok gặp Ngoại Trưởng CSTH tại khách sạn Shangri-La. Khi trở về Hà Nội, ông Niên mang theo một hồ sơ mà trong đó CSTH đòi phân chia vùng biển trong vịnh Bắc Bộ theo tỷ lệ 50/50.
(5) Ngày 28/7/2000, Bộ Chính Trị VNCS họp mật về vấn đề này.
(6) Ngày 26/9/2000, Bộ Chính Trị cử Thủ Tướng Phan Văn Khải bay sang Bắc Kinh gặp Thủ Tướng Lý Bằng. Lý Bằng cho ông Khải biết rằng, ông Nông Đức Mạnh, Chủ Tịch Quốc Hội VN với Lê Khả Phiêu đã gặp riêng Chủ Tịch Giang Trạch Dân vào tháng 4/2000 tại Bắc Kinh, và tháng 8/2000 tại New York, cả ba đã thỏa thuận. Lý Bằng nói thêm, sau khi ông Lê Khả Phiêu xuống thì Nông Đức Mạnh phải được đưa lên nắm chức Tổng Bí Thư trong đại hội đảng CSVN lần thứ 9 vào tháng 3/2001, nếu không thì CSTH sẽ đòi nợ CSVN thời chiến tranh.
(7) Ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng được Chủ Tịch Trần Đức Lương cử sang Trung Cộng gặp ông Hoàng Di, phụ trách tình báo và là cánh tay phải của Ngoại Trưởng Trung Cộng. Họ vẫn khăng khăng đòi tỷ lệ 50/50 trên vịnh Bắc Việt, gồm cả đảo Bạch Long Vĩ. Lê Công Phụng được lệnh Bộ Chính Trị cố gắng “xin lại 6%” gần khu vực Bạch Long Vĩ. Kết quả cuối cùng cuộc đi đêm của Lê Công Phụng, biên giới trên Vịnh Bắc Việt từ 62% xuống còn 56% và Trung Cộng từ 38% lên 44%.
(8) Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch Trần Đức Lương sang Bắc Kinh gặp Chủ Tịch Giang Trạch Dân, hai bên cùng ký Hiệp Ước. Theo đó, lãnh đạo CSVN bán một phần Vịnh Bắc Việt cho lãnh đạo Trung Cộng với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ), và Trung Cộng trả cho lãnh đạo Việt Nam qua hình thức đầu tư.
(9) Hãy nghe Lý Bằng nói với Trần Đức Lương tại Quảng Trường Nhân Dân ngày 26/12/2000 như sau: “Số tiền 2 tỷ mỹ kim để mua một phần Vịnh Bắc Việt là hợp lý”. Lý Bằng nói tiếp: “Trong thời gian chiến tranh, Trung Hoa đã giao cho Việt Nam vô số vũ khí để mua vùng đất Sapa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, … của Việt Nam”.
Vậy là Trung Cộng đã chiếm đoạt 789 cây số vuông trên biên giới và 11.361 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt mà Trung Cộng không tốn một mạng người, không tốn một viên đạn, không tốn một giọt xăng dầu, cũng không nhỏ một giọt mồ hôi, họ chỉ cần nhón 3 ngón tay cầm cây viết ký vào bản Hiệp Ước là xong. Với tư cách là “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, có khi nào Các Anh cảm nhận được sự giằng xé từ trong chiều sâu tâm hồn của những công dân đối với Tổ Quốc không? Nếu KHÔNG, tôi xin hỏi: “Vậy, Các Anh là người Việt Nam hay người Trung Hoa?” Nếu CÓ, tôi xin hỏi: “Vậy, có phải là Các Anh biết mình phài làm gì rồi chớ?”
(1) Ngày 31/12/1999, ông Tang Jiaxuan, Bộ Trưởng Ngoại Giao CSTH sang Hà Nội gặp riêng ông Lê Khả Phiêu bàn về biên giới trên Vịnh Bắc Việt.
(2) Ngày 25/2/2000, Lê Khả Phiêu cử Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh cho biết CSVN đồng ý giao thêm phần biển trên Vịnh Bắc Việt.
(3) Nhân chuyến viếng thăm Thái Lan, Ngoại Trưởng CSTH gởi văn thư mời ông Nguyễn Dy Niên sang gặp ông ta tại Bangkok.
(4) Ngày 26/7/2000, Nguyễn Dy Niên sang Bangkok gặp Ngoại Trưởng CSTH tại khách sạn Shangri-La. Khi trở về Hà Nội, ông Niên mang theo một hồ sơ mà trong đó CSTH đòi phân chia vùng biển trong vịnh Bắc Bộ theo tỷ lệ 50/50.
(5) Ngày 28/7/2000, Bộ Chính Trị VNCS họp mật về vấn đề này.
(6) Ngày 26/9/2000, Bộ Chính Trị cử Thủ Tướng Phan Văn Khải bay sang Bắc Kinh gặp Thủ Tướng Lý Bằng. Lý Bằng cho ông Khải biết rằng, ông Nông Đức Mạnh, Chủ Tịch Quốc Hội VN với Lê Khả Phiêu đã gặp riêng Chủ Tịch Giang Trạch Dân vào tháng 4/2000 tại Bắc Kinh, và tháng 8/2000 tại New York, cả ba đã thỏa thuận. Lý Bằng nói thêm, sau khi ông Lê Khả Phiêu xuống thì Nông Đức Mạnh phải được đưa lên nắm chức Tổng Bí Thư trong đại hội đảng CSVN lần thứ 9 vào tháng 3/2001, nếu không thì CSTH sẽ đòi nợ CSVN thời chiến tranh.
(7) Ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng được Chủ Tịch Trần Đức Lương cử sang Trung Cộng gặp ông Hoàng Di, phụ trách tình báo và là cánh tay phải của Ngoại Trưởng Trung Cộng. Họ vẫn khăng khăng đòi tỷ lệ 50/50 trên vịnh Bắc Việt, gồm cả đảo Bạch Long Vĩ. Lê Công Phụng được lệnh Bộ Chính Trị cố gắng “xin lại 6%” gần khu vực Bạch Long Vĩ. Kết quả cuối cùng cuộc đi đêm của Lê Công Phụng, biên giới trên Vịnh Bắc Việt từ 62% xuống còn 56% và Trung Cộng từ 38% lên 44%.
(8) Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch Trần Đức Lương sang Bắc Kinh gặp Chủ Tịch Giang Trạch Dân, hai bên cùng ký Hiệp Ước. Theo đó, lãnh đạo CSVN bán một phần Vịnh Bắc Việt cho lãnh đạo Trung Cộng với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ), và Trung Cộng trả cho lãnh đạo Việt Nam qua hình thức đầu tư.
(9) Hãy nghe Lý Bằng nói với Trần Đức Lương tại Quảng Trường Nhân Dân ngày 26/12/2000 như sau: “Số tiền 2 tỷ mỹ kim để mua một phần Vịnh Bắc Việt là hợp lý”. Lý Bằng nói tiếp: “Trong thời gian chiến tranh, Trung Hoa đã giao cho Việt Nam vô số vũ khí để mua vùng đất Sapa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, … của Việt Nam”.
Vậy là Trung Cộng đã chiếm đoạt 789 cây số vuông trên biên giới và 11.361 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt mà Trung Cộng không tốn một mạng người, không tốn một viên đạn, không tốn một giọt xăng dầu, cũng không nhỏ một giọt mồ hôi, họ chỉ cần nhón 3 ngón tay cầm cây viết ký vào bản Hiệp Ước là xong. Với tư cách là “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, có khi nào Các Anh cảm nhận được sự giằng xé từ trong chiều sâu tâm hồn của những công dân đối với Tổ Quốc không? Nếu KHÔNG, tôi xin hỏi: “Vậy, Các Anh là người Việt Nam hay người Trung Hoa?” Nếu CÓ, tôi xin hỏi: “Vậy, có phải là Các Anh biết mình phài làm gì rồi chớ?”
Nhìn ra Biển Đông.
Năm 1988, với chính sách gậm nhấm, Trung Cộng lần lượt đánh chiếm hoặc lấn chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Cứ mỗi lần chiếm đóng một đảo, Trung Cộng với Việt Nam tuyên bố hai bên cùng giải quyết trong hòa bình, nhưng rồi lãnh đạo CSVN vẫn để nguyên trạng mất đất chớ không giải quyết gì cả, và một đảo khác lại vào tay Trung Cộng. Cứ như vậy mà 8 đảo lần lượt đã vào tay Trung Cộng.
Đây là hai bản tin quan trọng dẫn đến sự kiện vừa nêu: (1) “Ngày 4/9/1958, ông Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Cộng, công bố “lãnh hải Trung Hoa là 12 hải lý”. (2) Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng của Các Anh, chánh thức công nhận lãnh hải 12 hải lý trong bản tuyên bố của Trung Cộng bằng công hàm dưới đây:
“Thưa đồng chí Tổng Lý,
“Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ, Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và “tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), quyết định về hải phận của Trung quốc. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết “định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà Nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý “của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên mặt bể.
“Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng Lý lời chào rất trân trọng.
“Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958”
(ký tên Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng nước VNDCCH. Đóng dấu)
“Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ, Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và “tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), quyết định về hải phận của Trung quốc. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết “định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà Nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý “của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên mặt bể.
“Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng Lý lời chào rất trân trọng.
“Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958”
(ký tên Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng nước VNDCCH. Đóng dấu)
Chắc là Các Anh không phũ nhận chứ, nhưng chưa hết, xin mời đọc tiếp những sự kiện sau đây:
(1) Năm 1972, Cục Đo Đạc & Bản Đồ của VNCS phát hành tập bản đồ thế giới, Hoàng Sa đổi tên là Tây Sa và Trường Sa đổi tên là Nam Sa đúng theo ý muốn của CSTH.
(2) Năm 1974, trong sách giáo khoa sử địa của Bộ Giáo Dục CSVN ghi: “Chuỗi hải đảo từ Nam Sa (Trường Sa) Tây Sa (Hoàng Sa) Hải Nam và Đài Loan là bức tường thành bảo vệ Trung Hoa lục địa”.
(3) Một đoạn khác trong bài viết nói trên của tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: “Vùng quần đảo Trường Sa, có quân đội của Phi Luật Tân, Đài Loan, Mã Lai Á, và Việt Nam chiếm đóng, nhưng Trung Cộng thường nổ súng vào quân của Việt Nam mà không hề đụng đến quân của các quốc gia kia, chỉ vì Việt Nam đã công nhận vùng đó là của Trung Cộng nên quân đội Việt Nam có mặt ở đó họ coi là xâm phạm vùng biển của họ, thế là họ đánh. Việt Nam đề nghị mở hội nghị đa phương giải quyết, nhưng họ chỉ chấp nhận đàm phán với từng nước liên quan mà không nói chuyện với Việt Nam”.
(4) Ngày 2/12/2007, Quốc Vụ Viện Trung Cộng ban hành văn kiện thành lập quận Tam Sa trong tỉnh Hải Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông của Việt Nam. Lãnh đạo CSVN phản ứng qua Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, đủ để gọi là có phản ứng và sau đó im lặng hoàn toàn. Nhớ lại hồi tháng 5/2009, Trung Cộng trưng ra tấm bản đồ Biển Đông với hình chữ U thường gọi là “đường lưỡi bò” để giành chủ quyền hơn 80% diện tích biển này. Đến đầu năm 2010, Trung Cộng lên tiếng lưu ý Hoa Kỳ rằng, Biển Đông thuộc lợi ích cốt lõi của họ, và họ quyết định sẽ điều động hàng không mẫu hạm đến vùng này để bảo vệ quyền lợi của họ.
(5) Theo Thiếu tướng Lê Văn Cương (của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam) kể, thì ngày 26/5/2011 tàu Bình Minh 2 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp rồi tới ngày 9-6, tàu Viking II tiếp tục bị tàu đánh cá có hai tàu ngư chính yểm trợ cắt cáp. Toàn bộ những việc này Trung quốc đã có tính toán và hành động của họ xuất phát từ hệ thống, mục đích rõ ràng chứ không phải vấn đề một tàu ngư chính hay hải giám.
(6) Trích bản tin Dân Trí online ngày 13/6/2011. “… 2 vụ việc liên tiếp thể hiện tính chất rất nghiêm trọng của vấn đề. Trung Quốc đã hết sức ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ngay trong vùng thuộc chủ quyền và quyền tài phán của chúng ta. Các sự việc nằm trong mưu đồ được hoạch định rất bài bản, chứ không phải những sự kiện đơn lẻ”.
(7) Trích bản tin RFA online ngày 6/6/2011. Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: “Khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là chủ quyền thuộc ngã, và từ khi Trung quốc tuyên bố biển Đông là khu vực lợi ích cốt lõi của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chận tham vọng của phương Bắc.
(8) Ngày 18/10/2011. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (trong nước) tự hỏi trong sự hoảng hốt: “Mất nước rồi ư?” Rồi Cô tự trả lời: “Có lẽ thế thật!. Bởi trong lịch sử 1000 năm trước dân tộc này không thể bị đồng hóa bằng hình thức xâm lấn, thống trị… thì nay đã có những hình thức ngoại giao tinh vi hơn, buộc cả dân tộc phải tự đồng hóa mình, phải cam chịu vì lép vế, đớn hèn im lặng, chấp nhận cúi đầu mà quên đi truyền thống quật cường của cha ông để lại. Có lẽ thế thật. Vì nếu không, thì tại sao Trung Cộng ngang nhiên phủ nhận đặc quyền khai thác dầu khí của Việt Nam trên thềm lục địa nước Việt trong khi ông Nguyễn Phú Trọng đang thăm viếng Bắc Kinh?”
(1) Năm 1972, Cục Đo Đạc & Bản Đồ của VNCS phát hành tập bản đồ thế giới, Hoàng Sa đổi tên là Tây Sa và Trường Sa đổi tên là Nam Sa đúng theo ý muốn của CSTH.
(2) Năm 1974, trong sách giáo khoa sử địa của Bộ Giáo Dục CSVN ghi: “Chuỗi hải đảo từ Nam Sa (Trường Sa) Tây Sa (Hoàng Sa) Hải Nam và Đài Loan là bức tường thành bảo vệ Trung Hoa lục địa”.
(3) Một đoạn khác trong bài viết nói trên của tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: “Vùng quần đảo Trường Sa, có quân đội của Phi Luật Tân, Đài Loan, Mã Lai Á, và Việt Nam chiếm đóng, nhưng Trung Cộng thường nổ súng vào quân của Việt Nam mà không hề đụng đến quân của các quốc gia kia, chỉ vì Việt Nam đã công nhận vùng đó là của Trung Cộng nên quân đội Việt Nam có mặt ở đó họ coi là xâm phạm vùng biển của họ, thế là họ đánh. Việt Nam đề nghị mở hội nghị đa phương giải quyết, nhưng họ chỉ chấp nhận đàm phán với từng nước liên quan mà không nói chuyện với Việt Nam”.
(4) Ngày 2/12/2007, Quốc Vụ Viện Trung Cộng ban hành văn kiện thành lập quận Tam Sa trong tỉnh Hải Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông của Việt Nam. Lãnh đạo CSVN phản ứng qua Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, đủ để gọi là có phản ứng và sau đó im lặng hoàn toàn. Nhớ lại hồi tháng 5/2009, Trung Cộng trưng ra tấm bản đồ Biển Đông với hình chữ U thường gọi là “đường lưỡi bò” để giành chủ quyền hơn 80% diện tích biển này. Đến đầu năm 2010, Trung Cộng lên tiếng lưu ý Hoa Kỳ rằng, Biển Đông thuộc lợi ích cốt lõi của họ, và họ quyết định sẽ điều động hàng không mẫu hạm đến vùng này để bảo vệ quyền lợi của họ.
(5) Theo Thiếu tướng Lê Văn Cương (của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam) kể, thì ngày 26/5/2011 tàu Bình Minh 2 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp rồi tới ngày 9-6, tàu Viking II tiếp tục bị tàu đánh cá có hai tàu ngư chính yểm trợ cắt cáp. Toàn bộ những việc này Trung quốc đã có tính toán và hành động của họ xuất phát từ hệ thống, mục đích rõ ràng chứ không phải vấn đề một tàu ngư chính hay hải giám.
(6) Trích bản tin Dân Trí online ngày 13/6/2011. “… 2 vụ việc liên tiếp thể hiện tính chất rất nghiêm trọng của vấn đề. Trung Quốc đã hết sức ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ngay trong vùng thuộc chủ quyền và quyền tài phán của chúng ta. Các sự việc nằm trong mưu đồ được hoạch định rất bài bản, chứ không phải những sự kiện đơn lẻ”.
(7) Trích bản tin RFA online ngày 6/6/2011. Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: “Khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là chủ quyền thuộc ngã, và từ khi Trung quốc tuyên bố biển Đông là khu vực lợi ích cốt lõi của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chận tham vọng của phương Bắc.
(8) Ngày 18/10/2011. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (trong nước) tự hỏi trong sự hoảng hốt: “Mất nước rồi ư?” Rồi Cô tự trả lời: “Có lẽ thế thật!. Bởi trong lịch sử 1000 năm trước dân tộc này không thể bị đồng hóa bằng hình thức xâm lấn, thống trị… thì nay đã có những hình thức ngoại giao tinh vi hơn, buộc cả dân tộc phải tự đồng hóa mình, phải cam chịu vì lép vế, đớn hèn im lặng, chấp nhận cúi đầu mà quên đi truyền thống quật cường của cha ông để lại. Có lẽ thế thật. Vì nếu không, thì tại sao Trung Cộng ngang nhiên phủ nhận đặc quyền khai thác dầu khí của Việt Nam trên thềm lục địa nước Việt trong khi ông Nguyễn Phú Trọng đang thăm viếng Bắc Kinh?”
Nhìn trong nội địa.
Tháng 11/2007, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung Cộng khai thác.
Mời Các Anh xem nhận định kèm theo lời cảnh báo từ một số nhân vật quan tâm đến an ninh quốc gia:
(1) Ngày 10/3/2009 (TuanVietNamNet online). “Cha ông ta từ xưa đã nhận định vùng Tây Nguyên quan trọng tới mức nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam và Đông Dương. Sau này người Pháp, người Mỹ, và thế giới cũng nhận thức được vị trí yết hầu của khu vực này với câu nói nổi tiếng: “Đây là nóc nhà của Đông Dương”. Vùng đất này là ngã ba Đông Dương, cho nên khi chiếm được khu vực này thì cũng dể dàng chiếm được 3 nước Đông Dương”.
(2) Ngày 27/3/2009, báo Tuổi Trẻ tại Hà Nội. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám Đốc Công Ty Năng Lượng Sông Hồng thuộc Tập Đoàn Khai Thác Than & Khoáng Sản, được mời đến văn phòng trung ương đảng dự buổi tọa đàm. Sau đó, trong thư gởi Bộ Chính Trị, ông Sơn viết: “Lựa chọn nhà thầu Trung quốc là một sai lầm… Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch, đúng luật, thì không một nhà thầu Trung Quốc nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án Bauxite nào”.
(3) Ngày 3/4/2009 (Đối thoại online). Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, phân tách về địa thế của Tây Nguyên như sau: “Trung Quốc vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri, sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và họ đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia.
(4) Ngày 12/04/2009, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, giáo sư Nguyễn Thế Hùng, và nhà văn Phạm Toàn, gởi bản kiến nghị đến Chủ Tịch nước, Chủ Tịch Quốc Hội, và Thủ Tướng CSVN. Nội dung yêu cầu dừng dự án khai thác quặng Bauxite vì gây nguy hại môi trường sống và an ninh quốc phòng. Ngay sau đó đã có 135 người trong nước, trí thức như Giáo sư đại học, kỹ sư, nhà văn nhà báo, đại biểu Quốc Hội như Nguyễn Lân Dũng, giáo sư Hoàng Tụy, tiến sĩ Phan Đình Diệu, giáo sư Trần Văn Khê, nhà thơ Dương Tường, đạo diễn Trần Văn Thủy, … Ngoài ra có một số trí thức hải ngoại cùng tham gia. Trang nhà www.bauxitevietnam.info do một số trí thức trong nước thành lập lấy chữ ký gửi kiến nghị tới nhà cầm quyền Hà Nội kêu gọi ngưng kế hoạch, chờ đến khi nào có tiến bộ khoa học hơn thì hãy khai thác, tránh tàn hủy và đầu độc môi trường sống không chỉ riêng cho khu vực Tây Nguyên mà cả khu vực dọc theo sông Đồng Nai nữa.
(5) Ngày 12/2/2010 (trang BauxiteVietNam.info). “Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia… Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những làng “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng”.
(6) Theo BBC online ngày 26/8/2010, “Bộ Công Thương đưa ra con số vào tháng 7/2009, theo đó đã có 30 doanh nghiệp Trung Quốc đang tham gia tổng thầu EPC hoặc đối tác đầu tư trong 41 dự án ở Việt Nam. Tất cả 41 dự án này là kinh tế trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia hoặc an ninh hay năng lượng”.
(7) Trang Bauxite online ngày 26/9/2010, ông Dương Danh Hy, cựu Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Trung Cộng, nhắc đến bài báo trích đăng của Giáo sư Bùi Huy Hùng, Viện Khoa Học Năng Lượng, nhận định rằng: “Việc hiện nay có đến 90% dự án nhiệt điện hiện nay do Trung Quốc thắng thầu sẽ dẫn tới sự phụ thuộc có nguy cơ mất an ninh năng lượng khi có sự cố xảy ra vì khi đó chúng ta có cái gì làm đối trọng”.
(8) Trên Đàn Chim Việt onine ngày 12/10/2010, “Trung Quốc đang giúp các nước làm cầu, làm đường nối tiếp. Trong 6 tuyến đường này thì 5 tuyến cuối cùng là Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn, toàn bộ là vị trí xung yếu trải rộng cả Việt Nam…Ta mới có 2 đường Lạng Sơn và Móng Cái đã thấy điêu đứng, nay có thêm 5 đường đi khắp nơi, sức đâu để bảo vệ kinh tế quốc phòng. Thế có phải là một thể chế (ý nói lãnh đạo CSVN. PB Hoa) cho phép các hành lang này như khu nhượng địa nằm khắp Việt Nam?
(9) Ngày 20/6/2011, theo bản tin từ báo Thanh Niên thì cuộc chiến biển người kiểu mới đang diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam chúng ta: “Đó là lao động phổ thông Trung Quốc tràn ngập Việt Nam. Điều bi thảm là trong các Phố Tàu mới mọc lên tại VN, thí dụ như tại Hải Phòng và Quảng Ninh, nhiều nơi chỉ dựng lên bảng tiếng Hoa, không sử dụng tiếng Việt, làm người dân Việt tự cảm thấy thân phận mình y hệt như dân Tây Tạng bị dân Hán tộc vào lấn ép”. Bài báo còn cho biết: “Luật không cho phép các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động phổ thông là người nước ngoài. Thế nhưng, tại nhiều địa phương hiện vẫn tồn tại hàng ngàn lao động phổ thông nước ngoài, dù từ năm 2009 Thủ tướng đã yêu cầu các cơ quan chức năng rà soát xử lý, nhưng sự thể vẫn còn nguyên đó”.
(10) Ngày 16/8/2011, nhà báo Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên Tập của vài tờ báo trong nước: “ Hiện nay độc lập dân tộc đang đứng trước sự đe dọa của ngoại bang còn nguy hiểm hơn những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám. Bởi vì giặc ngoại xâm ngày nay, được nối giáo bởi giặc nội xâm ngụy trang bằng mặt nạ đồng chí…. Vì sao 90% các công trình công nghiệp đều rơi vào tay nhà thầu Trung Hoa, hàng chục vạn lao động cơ bắp của Trung Cộng theo chân các công trình do họ trúng thầu rải từ Bắc vào Nam mà không có biện pháp ngăn chặn?
(11) Ngày 17/8/2011, trên báo Dân Việt, ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ Tịch Tổng Giám đốc Investconsult Group trong bài “Chuyên gia nói về người Trung Hoa thuê đất”, hiện tượng này là một sự tranh giành không gian sống. Không những thế, đó là một hệ thống các hành vi trong âm mưu của họ. Theo ông thì cứ cái đà này sẽ dẫn đến tình trạng từ sản phẩm cho đến ruộng đất, từ đất canh tác công nghiệp là rừng, cho đến đất canh tác cây lương thực đều nằm trong chiến lược của họ, tất nhiên là nguy hiểm cho Việt Nam.
(12) Lại nhớ đến chuyện lãnh đạo CSVN đã cho các công ty Trung Cộng thuê rừng đầu nguồn mà hai viên Tướng cộng sản Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh đã lên tiếng cảnh báo đầu năm 2010. Việc cho thuê rừng với một diện tích hơn 300.000 mẫu tây trong thời hạn lâu dài (50 năm) tại các tỉnh biên giới có vị trí trọng yếu, có nguy cơ lớn đến quốc phòng Việt Nam. Báo Vietnam Net lúc đó đã đăng loạt bài phóng sự về các công ty thuê rừng đang làm gì tại những nơi này, và mọi người đều lạnh người khi nhận ra nguy cơ quá rõ ràng, là những vùng đất sau khi cho thuê trở nên “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, không ai biết họ thực sự đang làm gì trên đất rừng của ta.
(13) Ngày 31/8/2011, trên trang Bauxite online ngày 31/8/2011. Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của họ tại các địa phương trên suốt các vùng biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên 1,3 triệu người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền trên đất Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp đất nước này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng!”
(14) Trang Bauxite online ngày 19/9/2011. Cái nhức nhối và nguy hiểm nhất là Trung Quốc đã cho người thâm nhập vào cùng khắp đất nước ta qua vai trò nhân công trong các công trường khai thác bauxite, cũng như các gói thầu Trung Quốc thực hiện từ Bắc chí Nam mà ta không biết đây là tình báo, gián điệp hay là đặc công nằm vùng đợi thời cơ. Cùng lúc, ông Lê Hiếu Đằng tại Sài Gòn đã cảnh báo rằng: “Ngay vấn đề lao động Trung Quốc hiện nay sang đây không phép, tôi nghĩ là không phải bộ máy cầm quyền Việt Nam không biết, nhưng tại sao lại để tình trạng như vậy? Sẽ có những cái làng Trung Quốc, những vùng Trung Quốc mà người Việt Nam không thể vào được. Đó là những nhân viên dân sự hay là quân sự? Ai mà biết họ đang làm gì trong đó! Thì vấn đề đấy không phải là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề an ninh chính trị, vấn đề quốc phòng, mà chúng ta lại lơi lỏng. Điều này rất là nguy hiểm cho an ninh quốc gia”.
Tôi góp nhặt 14 sự kiện trong số hằng trăm hằng ngàn sự kiện diễn ra ngay trong nội địa Việt Nam chúng ta, hẳn là Các Anh đã biết đến sự kiện kinh khủng này chớ? Tại nơi nhà thầu Trung Cộng đang khai thác ở Nhơn Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), bùn đỏ đang là thảm họa trong hiện tại và trong tương lai đối với con người và rừng thiên nhiên từ Cao Nguyên Miền Trung xuống thung lũng Đồng Nai, ra vùng duyên hải Đông Bắc Sài Gòn. Và thảm họa cao nhất là dân tộc Việt Nam chúng ta bị kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa lại tái hiện trong thế giới ngày nay thống trị lần nữa!
Bây giờ mời Các Anh nhìn vào hành động của lãnh đạo Các Anh khiếp nhược đến mức nào đối với kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc, kẻ thù mà Vua Trần Nhân Tông đã răn dạy, đã cảnh báo từ 8 thế kỷ trước.
3. NHÌN VÀO LÃNH ĐẠO VIỆT NAM.
Lãnh đạo mà tôi nói đến trong đoạn này, bao gồm các cấp lãnh đạo trong hệ thống tổ chức đảng cộng sản, trong bộ máy hành chánh và các ngành chuyên môn, trong hệ thống giáo dục, trong tổ chức Quân Đội Nhân Dân, và trong tổ chức Công An Nhân Dân.
a. Lãnh đạo Đảng & Nhà Nước
(1) Ngày 15/10/2011, tại Bắc Kinh, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam, và ông Hồ Cẩm Đào, Chủ Tịch đảng cộng sản Trung Hoa, đã ra một tuyên bố chung rằng: “Hai bên khẳng định quyết tâm chính trị thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông. Hai bên sẽ đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển từ tầm cao chính trị và chiến lược, để kịp thời chỉ đạo xử lý các vấn đề trên biển. Hai bên cũng sẽ nghiên cứu và trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển Biển Đông, phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và về việc cùng khai thác vùng biển này. Hai bên cam kết sẽ không có hành động làm phức tạp hóa vấn đề hoặc mở rộng thêm tranh chấp, và nhất là không để “các thế lực thù địch” phá hoại quan hệ giữa hai đảng, hai nước”.
(2) Ngày 17/10/2011, Ông Lưu Vi Dân, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Cộng khẳng định: “Trung Quốc và Việt Nam đã nhất trí giải quyết các tranh chấp trên biển bằng các cuộc đàm phán, và vì vậy, không cần sự can thiệp của một bên thứ ba.” (Nguồn tin: Xinhua và China Daily của Trung Cộng)
Nếu Các Anh có theo dõi tin tức liên quan đến Biển Đông chúng ta, hẳn Các Anh vẫn biết là các quốc gia ven Biển Đông trong khối ASEAN – nhất là Phi Luật Tân – muốn Việt Nam và các quốc gia trực tiếp liên quan cùng hành động chung để bảo vệ Biển Đông trước tham vọng lấn chiếm của Trung Cộng. Vậy mà ông Nguyễn Phú Trọng lại thỏa thuận với Trung Cộng là vấn đề liên quan đến Biển Đông chỉ do hai nước trực tiếp giải quyết. Các Anh nghĩ gì khi nhận biết hành động của Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam? Vì giải quyết song phương thì Việt Nam mất biển dần dần là điều chắc chắn!
Nếu Các Anh có theo dõi tin tức liên quan đến Biển Đông chúng ta, hẳn Các Anh vẫn biết là các quốc gia ven Biển Đông trong khối ASEAN – nhất là Phi Luật Tân – muốn Việt Nam và các quốc gia trực tiếp liên quan cùng hành động chung để bảo vệ Biển Đông trước tham vọng lấn chiếm của Trung Cộng. Vậy mà ông Nguyễn Phú Trọng lại thỏa thuận với Trung Cộng là vấn đề liên quan đến Biển Đông chỉ do hai nước trực tiếp giải quyết. Các Anh nghĩ gì khi nhận biết hành động của Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam? Vì giải quyết song phương thì Việt Nam mất biển dần dần là điều chắc chắn!
(3) Bản tin của Dân Làm Báo. Trong khi đưa tin về chuyến thăm Trung Cộng của ông Nguyễn Phú Trọng, bản tin thời sự đài truyền hình Việt Nam VTV lúc 7 giờ tối ngày 14/10/2011 có hình cờ Trung Cộng có 6 ngôi sao, gồm 1 sao lớn và 5 sao nhỏ. Cho đến ngày trước đó, cờ Trung Cộng có 1 ngôi sao lớn là dân tộc Hán, và 4 ngôi sao nhỏ là các dân tộc Hồi, Mông, Tạng, và Mãn.
Trước đây đã có những nghi vấn nêu lên về việc Trung Cộng thêm ngôi sao thứ 5 trên lá cờ của mình trong cộng đồng mạng với lo lắng về việc đồng hóa dân tộc Việt Nam qua hình ảnh ngôi sao thứ 5. Tuy nhiên, tất cả chỉ là giả thuyết. Cho đến bản tin tối ngày 14/10/2011 do Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng, thì có lẽ ai cũng thấy rằng: “Đây chắc chắn không thể nào là lỗi của “cậu đánh máy”. Đây chắc chắn không thể nào là “hành động vô tình” cho một cái ngôi sao thừa. Đây lại càng không thể là âm mưu của thế lực thù địch bên ngoài”. Sau khi bị phát hiện lá cờ Trung Cộng “6 ngôi sao”, thay vì lên tiếng giải thích, đính chính… VTV đã âm thầm phi tang bằng chứng bằng cách tháo gỡ đoạn video thời sự lúc 7 giờ tối ngày 14/10/2011. Trước khi biến mất, nguồn “video 6 sao” này là: http://media.vtv.vn/Media/Get/Thoi-su-19h—14102011-082824dce9.html
Trước đây đã có những nghi vấn nêu lên về việc Trung Cộng thêm ngôi sao thứ 5 trên lá cờ của mình trong cộng đồng mạng với lo lắng về việc đồng hóa dân tộc Việt Nam qua hình ảnh ngôi sao thứ 5. Tuy nhiên, tất cả chỉ là giả thuyết. Cho đến bản tin tối ngày 14/10/2011 do Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng, thì có lẽ ai cũng thấy rằng: “Đây chắc chắn không thể nào là lỗi của “cậu đánh máy”. Đây chắc chắn không thể nào là “hành động vô tình” cho một cái ngôi sao thừa. Đây lại càng không thể là âm mưu của thế lực thù địch bên ngoài”. Sau khi bị phát hiện lá cờ Trung Cộng “6 ngôi sao”, thay vì lên tiếng giải thích, đính chính… VTV đã âm thầm phi tang bằng chứng bằng cách tháo gỡ đoạn video thời sự lúc 7 giờ tối ngày 14/10/2011. Trước khi biến mất, nguồn “video 6 sao” này là: http://media.vtv.vn/Media/Get/Thoi-su-19h—14102011-082824dce9.html
(4) Ngày 16/10/2011, tác già Bùi Tín với bài “Sứ Quán hay Dinh Thái Thú?”. Ông nói về chuyện diễn ra tại tòa đại sứ Trung Cộng ở Hà Nội sau khi ông Khổng Huyễn Hựu nhận chức Đại Sứ.
Không kể những buổi ông Khổng đến trình quốc thư Chủ Tịch Nước, chào Tổng Bí Thư, Thủ Tướng, Chủ Tịch Quốc Hội, đã có hàng loạt quan chức cao cấp đã đến sứ quán Trung Cộng trên đường Hoàng Diệu để chào tân Đại Sứ, đó là: (a) Ngày 17/8/2011, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hồ Xuân Sơn, và Phó Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Nguyễn Mạnh Hùng. (b) Ngày 23/8/2011, Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng. (c) Ngày 29/8/2011, Bộ Trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, rồi Thứ Trưởng Bộ Công An Trung Tướng Đặng Văn Hiếu. (d) Ngày 31/8/2011, Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân, rồi Bộ Trưởng Tài Chính Vương Đình Huệ. (e) Ngày 12/9/2011, Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh. (f) Ngày 16/9/2011, Bộ Trưởng Giáo Dục & Đào Tạo Phạm Vũ Luân. (g) Ngày 21/9/2011, Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Hoàng Bình Quân, rồi Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền Nguyễn Bắc Sơn. (h) Ngày 27/9/2011, Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị. (k) Ngày 29/9/2011, Bộ Trưởng Văn Hoá & Thể Thao & Du Lịch Hoàng Tuấn Anh, rồi Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Tô Huy Rứa. (l) Ngày 3/10/2011, Thường Trực Ban Bí Thư Lê Hồng Anh, rồi Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương Ngô Văn Dụ. (m) Ngày 4/10/2011, Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh.
Sứ quán Trung Cộng cho biết, chỉ trong thời gian ngắn, ông Đại Sứ đã có dịp hội kiến với quá nửa số ủy viên Bộ Chính trị của phía Việt Nam, chưa kể một loạt ủy viên Trung ương đảng, bộ trưởng, thứ trưởng và các loại cán bộ cấp cao khác.
Với danh sách của ông Bùi Tín mà tôi trích lại trên đây, Các Anh có nghĩ là các Ủy Viên Trung Ương Đảng đến chào tân Đại Sứ hay chầu viên Thái Thú họ Khổng?
Không kể những buổi ông Khổng đến trình quốc thư Chủ Tịch Nước, chào Tổng Bí Thư, Thủ Tướng, Chủ Tịch Quốc Hội, đã có hàng loạt quan chức cao cấp đã đến sứ quán Trung Cộng trên đường Hoàng Diệu để chào tân Đại Sứ, đó là: (a) Ngày 17/8/2011, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hồ Xuân Sơn, và Phó Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Nguyễn Mạnh Hùng. (b) Ngày 23/8/2011, Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng. (c) Ngày 29/8/2011, Bộ Trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, rồi Thứ Trưởng Bộ Công An Trung Tướng Đặng Văn Hiếu. (d) Ngày 31/8/2011, Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân, rồi Bộ Trưởng Tài Chính Vương Đình Huệ. (e) Ngày 12/9/2011, Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh. (f) Ngày 16/9/2011, Bộ Trưởng Giáo Dục & Đào Tạo Phạm Vũ Luân. (g) Ngày 21/9/2011, Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Hoàng Bình Quân, rồi Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền Nguyễn Bắc Sơn. (h) Ngày 27/9/2011, Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị. (k) Ngày 29/9/2011, Bộ Trưởng Văn Hoá & Thể Thao & Du Lịch Hoàng Tuấn Anh, rồi Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Tô Huy Rứa. (l) Ngày 3/10/2011, Thường Trực Ban Bí Thư Lê Hồng Anh, rồi Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương Ngô Văn Dụ. (m) Ngày 4/10/2011, Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh.
Sứ quán Trung Cộng cho biết, chỉ trong thời gian ngắn, ông Đại Sứ đã có dịp hội kiến với quá nửa số ủy viên Bộ Chính trị của phía Việt Nam, chưa kể một loạt ủy viên Trung ương đảng, bộ trưởng, thứ trưởng và các loại cán bộ cấp cao khác.
Với danh sách của ông Bùi Tín mà tôi trích lại trên đây, Các Anh có nghĩ là các Ủy Viên Trung Ương Đảng đến chào tân Đại Sứ hay chầu viên Thái Thú họ Khổng?
(5) Tháng 11/2011, trích bài viết của ông Ngô Minh “(Lãnh đạo đảng & nhà nước. PB Hoa) Chúng Ta Đang Xẻ Thịt Tổ Quốc Mình Để Sống”.
“Cách đây vài ba năm, báo chí loan tin đến năm 2012 Việt Nam phải nhập than đá! Thế mà bây giờ là năm 2011, nước ta đã phải nhập hàng nghìn tấn than đá từ nước ngoài… Nhìn lại đối mới từ năm 1986 đến nay, một thực trạng đau lòng đang diễn ra khắp nơi là chúng ta đã khai thác, buôn bán tài nguyên quốc gia một cách ồ ạt, vô tội vạ. Dường như thu nhập GDP (GDP = tổng sản lượng nội địa. PB Hoa) đất nước đều do buôn bán tài nguyên mà có, còn hàng hoá sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nghĩa là từ “đổi mới” đến nay, chúng ta đang sống nhờ bán tài nguyên, chứ chẳng làm được thương hiệu gì bền vững có tầm cỡ thế giới cả. Nhìn qua Hồng Kông, Ma Cao, Singapore, Nhật Bản… mà thương cho đất nước mình. Người ta chẳng có nhiều tài nguyên khoáng sản mà sao người ta giàu thế. Còn mình bán tài nguyên mà ăn, rồi con cháu vài thế hệ sau ăn không khí à?
… Trong hòa bình xây dựng 30 năm nay, do ấu trĩ trong nhận thức và non kém về quản lý, chúng ta tiếp tục tàn phá tài nguyên dữ dội hơn, nặng nề hơn. Hình thế núi sông Việt Nam đang thấy đổi từng ngày, đang bị cày xới nham nhở! 20 năm qua có rất nhiều “phong trào” bán tài nguyên để “làm ngân sách” xảy ra rầm rộ. Như khai thác gỗ rừng để xuất khẩu ồ ạt. Quốc doanh khai thác xuất khẩu, “hợp tác xã” khác thác xuất khẩu, tư nhân núp bóng nhà nước khai thác, xuất khẩu… Người cấp quota xuất khẩu gỗ giàu lên từng ngày một. Đến khi “ngộ ra”, ban hành lệnh cấm, thì rừng đã bị “ “bán ăn” gần hết. Thế là lại phải “làm dự án” trồng 5 triệu hec-ta rừng gần chục năm nay vẫn không thành. Hết rừng rồi thì bán đất rừng. Hơn 300.000 héc ta rừng đầu nguồn đã bị các tỉnh bán cho doanh nhân Trung Quốc khai thác 50 năm. Nghĩa là 50 năm đó chúng muốn biến mảnh đất rừng của chúng ta thành căn cứ quân sự, lô cốt, hầm ngầm.v.v… là quyền của họ. Hết nước rồi non nước ơi! Bán hết rừng đến bán khoáng sản dầu thô, than đá, cát, quặng ti-tan, quang a-pa-tít, quặng vàng… Người bán gỗ, bán than, thì có kẻ lại bán núi, bán đất ruộng làm giàu. Xem ra bán núi bán đất dễ giàu có hơn.
Trong những chuyến đi thực tế ở vùng Đông Bắc, Thanh Hóa, Ninh Bình…, tôi thấy nhiều ngọn núi bị san bằng trơ trọi, để khai thác đá sản xuất xi măng, đá xây dựng. Bây gìờ tỉnh nào cũng hai ba nhà máy xi măng, hàng chục công trường khái thác đá hàng ngày ra sức san phá núi. Có tỉnh bán luôn cả ngọn núi cho nước ngoài làm xi măng, không chỉ bán phần dương mà còn bán cả phần âm tới 30 mét sâu, nghĩa là 50 năm sau, núi thành hồ! Hình sông thế núi Việt Nam ngàn đời hũng vĩ, bây giờ đang bị xẻ thịt nham nhở. Liệu con cháu tương lai sẽ sống như thế nào, có còn hình dung ra nước non Việt tươi đẹp như xưa nữa không, khi mà quanh chúng núi non bị gậm nhấm, thân thể Tổ Quốc ghẻ lở, xác xơ? Tài nguyên của mình, nước ngoài đến khai thác rồi chế biến thành sản phẩm xuất khẩu của họ, trong lúc hình hài non sông bị xâm hại. “Bán núi” để ăn như thế có đau núi quá không? “Bán đất” mới là cuộc tỉ thí với tương lai khủng khiếp nhất. Tỉnh nào cũng có vài ba Khu công nghiêp, nhưng chẳng làm ra sản phẩm xuất khẩu nào có thương hiệu cả vì máy móc lạc hậu, bán trong nước cũng chẳng ai mua. Tỉnh nào cũng có ba bốn sân golf. Rồi dự án mở rộng đô thị lên gấp đôi gấp ba, dự án khu biệt thư, …đang làm cho đất nông nghiệp, đất trồng lúa trong cả nước, đất trồng cây ăn trái ở Nam Bộ đang thu hẹp với tốc độ chóng mặt. Mỗi năm có từ 73.000 – 120.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, bị chuyển đổi. Mở rộng đô thị thì đất ruộng thành đất thành phố, bán với giá cao hơn. Đua nhau mà ăn chia, lấn chiếm, đẩy nông dân ra khởi mảnh đất ngàn đời sinh sống của họ. Thế là khẩu hiệu của Cộng Sản “dân cày có ruộng” thành trò đùa lịch sử. Vì mục tiêu tăng GDP, tăng thu ngân sách, trung ương lẫn các tỉnh đang thi nhau bán đất nông nghiệp một cách vô tội vạ để làm giàu. (Càng nhiều dự án bao nhiêu, lãnh đạo đảng với nhà nước càng giàu thêm bấy nhiêu. PB Hoa)
… Hết bán rừng, than, ti-tan, đá, người ta con bán cả bo-xit Tây Nguyên, thứ mà cách đây mấy chục năm, khối Comicom (Khối kinh tế các nước XHCN) đã ngăn không cho khai thác, họ sợ làm hư hỏng môi trường và văn hoá Tây Nguyên. Nhưng bây giờ thì bất cần tương lai Tây Nguyên, bất cần hàng ngàn trí thức tâm huyết với đất nước kịch liệt phản đối, họ vẫn khai thác. Nhưng, bọn người được quyền đầu tư khai thác ấy lại là bọn giặc truyền kiếp phương Bắc ngàn đời của Dân tộc ta mới đau, mới lo chứ. Chúng thâm hiểm lắm, người ơi. Chúng mang hàng ngàn người (dân binh?) vào Tây Nguyên, với kế hoạch làm chủ Tây Nguyên của Việt nam. Các nhà chiến lược quân sự thường nói: ”Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ Đông Dương”. Chao ôi, từ việc bán tài nguyên đến “bán nước” chỉ còn một khoảng cách mong manh như sợi chỉ!
Ngay cả nước là loại tài nguyên quý giá cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng. Hiện nay tất cả các con sông đều “đang chết dần” vì ô nhiễm do chất thải công nghiệp, bệnh viện chưa qua xử lý đều thải trực tiếp ra sông. Mạch nước ngầm đang xuống thấp chưa từng có do khai thác vô tội vạ. Rồi “phong trào” phát triển thuỷ điện tùm lum làm cho mực nước ở đồng bằng giảm xuống. Đến cả sông Hồng cũng cạn trơ đi bộ qua được”.
“Cách đây vài ba năm, báo chí loan tin đến năm 2012 Việt Nam phải nhập than đá! Thế mà bây giờ là năm 2011, nước ta đã phải nhập hàng nghìn tấn than đá từ nước ngoài… Nhìn lại đối mới từ năm 1986 đến nay, một thực trạng đau lòng đang diễn ra khắp nơi là chúng ta đã khai thác, buôn bán tài nguyên quốc gia một cách ồ ạt, vô tội vạ. Dường như thu nhập GDP (GDP = tổng sản lượng nội địa. PB Hoa) đất nước đều do buôn bán tài nguyên mà có, còn hàng hoá sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nghĩa là từ “đổi mới” đến nay, chúng ta đang sống nhờ bán tài nguyên, chứ chẳng làm được thương hiệu gì bền vững có tầm cỡ thế giới cả. Nhìn qua Hồng Kông, Ma Cao, Singapore, Nhật Bản… mà thương cho đất nước mình. Người ta chẳng có nhiều tài nguyên khoáng sản mà sao người ta giàu thế. Còn mình bán tài nguyên mà ăn, rồi con cháu vài thế hệ sau ăn không khí à?
… Trong hòa bình xây dựng 30 năm nay, do ấu trĩ trong nhận thức và non kém về quản lý, chúng ta tiếp tục tàn phá tài nguyên dữ dội hơn, nặng nề hơn. Hình thế núi sông Việt Nam đang thấy đổi từng ngày, đang bị cày xới nham nhở! 20 năm qua có rất nhiều “phong trào” bán tài nguyên để “làm ngân sách” xảy ra rầm rộ. Như khai thác gỗ rừng để xuất khẩu ồ ạt. Quốc doanh khai thác xuất khẩu, “hợp tác xã” khác thác xuất khẩu, tư nhân núp bóng nhà nước khai thác, xuất khẩu… Người cấp quota xuất khẩu gỗ giàu lên từng ngày một. Đến khi “ngộ ra”, ban hành lệnh cấm, thì rừng đã bị “ “bán ăn” gần hết. Thế là lại phải “làm dự án” trồng 5 triệu hec-ta rừng gần chục năm nay vẫn không thành. Hết rừng rồi thì bán đất rừng. Hơn 300.000 héc ta rừng đầu nguồn đã bị các tỉnh bán cho doanh nhân Trung Quốc khai thác 50 năm. Nghĩa là 50 năm đó chúng muốn biến mảnh đất rừng của chúng ta thành căn cứ quân sự, lô cốt, hầm ngầm.v.v… là quyền của họ. Hết nước rồi non nước ơi! Bán hết rừng đến bán khoáng sản dầu thô, than đá, cát, quặng ti-tan, quang a-pa-tít, quặng vàng… Người bán gỗ, bán than, thì có kẻ lại bán núi, bán đất ruộng làm giàu. Xem ra bán núi bán đất dễ giàu có hơn.
Trong những chuyến đi thực tế ở vùng Đông Bắc, Thanh Hóa, Ninh Bình…, tôi thấy nhiều ngọn núi bị san bằng trơ trọi, để khai thác đá sản xuất xi măng, đá xây dựng. Bây gìờ tỉnh nào cũng hai ba nhà máy xi măng, hàng chục công trường khái thác đá hàng ngày ra sức san phá núi. Có tỉnh bán luôn cả ngọn núi cho nước ngoài làm xi măng, không chỉ bán phần dương mà còn bán cả phần âm tới 30 mét sâu, nghĩa là 50 năm sau, núi thành hồ! Hình sông thế núi Việt Nam ngàn đời hũng vĩ, bây giờ đang bị xẻ thịt nham nhở. Liệu con cháu tương lai sẽ sống như thế nào, có còn hình dung ra nước non Việt tươi đẹp như xưa nữa không, khi mà quanh chúng núi non bị gậm nhấm, thân thể Tổ Quốc ghẻ lở, xác xơ? Tài nguyên của mình, nước ngoài đến khai thác rồi chế biến thành sản phẩm xuất khẩu của họ, trong lúc hình hài non sông bị xâm hại. “Bán núi” để ăn như thế có đau núi quá không? “Bán đất” mới là cuộc tỉ thí với tương lai khủng khiếp nhất. Tỉnh nào cũng có vài ba Khu công nghiêp, nhưng chẳng làm ra sản phẩm xuất khẩu nào có thương hiệu cả vì máy móc lạc hậu, bán trong nước cũng chẳng ai mua. Tỉnh nào cũng có ba bốn sân golf. Rồi dự án mở rộng đô thị lên gấp đôi gấp ba, dự án khu biệt thư, …đang làm cho đất nông nghiệp, đất trồng lúa trong cả nước, đất trồng cây ăn trái ở Nam Bộ đang thu hẹp với tốc độ chóng mặt. Mỗi năm có từ 73.000 – 120.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, bị chuyển đổi. Mở rộng đô thị thì đất ruộng thành đất thành phố, bán với giá cao hơn. Đua nhau mà ăn chia, lấn chiếm, đẩy nông dân ra khởi mảnh đất ngàn đời sinh sống của họ. Thế là khẩu hiệu của Cộng Sản “dân cày có ruộng” thành trò đùa lịch sử. Vì mục tiêu tăng GDP, tăng thu ngân sách, trung ương lẫn các tỉnh đang thi nhau bán đất nông nghiệp một cách vô tội vạ để làm giàu. (Càng nhiều dự án bao nhiêu, lãnh đạo đảng với nhà nước càng giàu thêm bấy nhiêu. PB Hoa)
… Hết bán rừng, than, ti-tan, đá, người ta con bán cả bo-xit Tây Nguyên, thứ mà cách đây mấy chục năm, khối Comicom (Khối kinh tế các nước XHCN) đã ngăn không cho khai thác, họ sợ làm hư hỏng môi trường và văn hoá Tây Nguyên. Nhưng bây giờ thì bất cần tương lai Tây Nguyên, bất cần hàng ngàn trí thức tâm huyết với đất nước kịch liệt phản đối, họ vẫn khai thác. Nhưng, bọn người được quyền đầu tư khai thác ấy lại là bọn giặc truyền kiếp phương Bắc ngàn đời của Dân tộc ta mới đau, mới lo chứ. Chúng thâm hiểm lắm, người ơi. Chúng mang hàng ngàn người (dân binh?) vào Tây Nguyên, với kế hoạch làm chủ Tây Nguyên của Việt nam. Các nhà chiến lược quân sự thường nói: ”Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ Đông Dương”. Chao ôi, từ việc bán tài nguyên đến “bán nước” chỉ còn một khoảng cách mong manh như sợi chỉ!
Ngay cả nước là loại tài nguyên quý giá cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng. Hiện nay tất cả các con sông đều “đang chết dần” vì ô nhiễm do chất thải công nghiệp, bệnh viện chưa qua xử lý đều thải trực tiếp ra sông. Mạch nước ngầm đang xuống thấp chưa từng có do khai thác vô tội vạ. Rồi “phong trào” phát triển thuỷ điện tùm lum làm cho mực nước ở đồng bằng giảm xuống. Đến cả sông Hồng cũng cạn trơ đi bộ qua được”.
b. Lãnh đạo Quân Đội và Công An.
(1) Ngày 3/6/2011, bên lề hội nghị quốc tế tại khách sạn Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, khẳng định với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt rằng: “Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt”. Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến “truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung”.
(Cũng vì vậy mà hằng trăm tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm, tài sản trên tàu thuyền bị chúng tịch thu, ngư dân bị chúng bắt và chỉ thả ra khi đóng tiền chuộc, mà quân đội “Nhân Dân” Việt Nam nói chung và Hải Quân Nhân Dân Việt Nam nói riêng, đã im lặng như Người Lính vô cảm với Nhân Dân dù danh xưng của quân đội gắn liền hai chữ “Nhân Dân”. PB Hoa)
(2) Ngày 28/8/2011, Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, do Thông Tấn Xã Việt Nam loan tin: “Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng… Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn… Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
(Do đó mà Công An Nhân Dân – tôi nhấn mạnh hai chữ “Nhân Dân” – thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ cuộc biểu tình lần 1 vào ngày 5/6/2011, để bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. PB Hoa)
(Do đó mà Công An Nhân Dân – tôi nhấn mạnh hai chữ “Nhân Dân” – thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ cuộc biểu tình lần 1 vào ngày 5/6/2011, để bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. PB Hoa)
(3) Ngày 27/9/2011, với bài viết “Linh Hồn Quân Đội Nhân Dân Lâm Nguy”, ông Bùi Tín (trước kia là Đại Tá trong quân đội Các Anh), viết về phái đoàn Tổng Cục Chính Trị do Trung Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị hướng dẫn sang Bắc Kinh theo lời mời của Trung Cộng. Thành viên của phái đoàn gồm 6 Chính Ủy Quân Khu với một số Cục Trưởng của Tổng Cục… Ông Bùi Tín cho rằng, hệ thống Quân Ủy là “linh hồn của quân đội nhân dân”. Theo ông Bùi Tín, phái đoàn chính trị quân đội nhân dân Việt Nam được Phó Chủ Tịch Nước kiêm Phó Bí Thư Quân Ủy Trung Ương, ông Tập Cận Bình tiếp rất nồng hậu. Ông Tập Cận Bình sẽ thay ông Hồ Cẩm Đào trong chức Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước từ cuối năm 2012, tức ngay sau đại hội đảng cộng sàn Tàu lần thứ 18. Ông Tập Cận Bình căn dặn phía Việt Nam hãy thực hiện 3 điều: (1) Kiên trì hiệp thương hữu nghị. (2) Kiên trì tầm nhìn đại cục. (3) Kiên trì hợp tác 2 bên cùng có lợi.
Chỉ vài câu ngắn gọn nhưng hiểu rộng ra, thì: (a) “Kiên trì hiệp thương hữu nghị”, là Trung Cộng có trưng ra hình lưỡi bò, có tuyên bố toàn vùng biển Đông là sở hữu cốt lõi không ai được tranh cãi. Còn cho tàu chiến vào vùng này, ngăn cấm ngư dân Việt đánh cá, ngăn cả tàu Ấn Độ vào thăm hữu nghị Việt Nam, lúc ấy Việt Nam không được phản đối, không để cho dân biểu tình, mà chỉ nên hiệp thương một cách ôn hòa hữu nghị với nhau. (b) “Kiên trì nhìn đại cục”, nghĩa là phía Việt Nam chỉ nên coi những việc như nhân nhượng chút ít đất đai, vài vùng biển nhỏ, vài quần đảo chỉ là chuyện nhỏ, mà chuyện lớn là tình hữu nghị truyền thống, là «16 chữ Vàng», là “quan hệ bốn tốt”. Trên đại cục 2 nước là láng giềng tốt, trên đại cục 2 nước là bạn tốt, trên đại cục là đồng chí tốt, trên đại cục cũng là đối tác tốt. Có gì xấu chỉ là về tiểu tiết, không đáng kể, nên bỏ qua. (c) “Kiên trì hợp tác 2 bên cùng có lợi”, nghĩa là không đấu tranh chống đối, tố cáo nhau làm gì cho lôi thôi, phức tạp, hãy coi nhau là bạn bè, là anh em đồng chí, luôn giữ hòa khí với nhau, hợp tác chiến lược toàn diện, sẽ duy trì tình anh em hòa thuận, có lợi cho cả 2 bên, chống đối nhau chỉ bất lợi, thiệt hại cho cả 2 bên.
Ông Bùi Tín nhận định: “Trung Tướng Ngô Xuân Lịch và phái đoàn, chẳng những đã tán thành ý kiến được coi như chỉ thị của ông Tập Cận Bình, còn cam kết rằng là quân đội 2 nước sẽ gương mẫu thực hiện thỏa thuận giữa 2 đảng, 2 nước là giải quyết những vấn đề tồn tại giữa 2 nước bằng đối thoại song phương. Ông còn nhấn mạnh “phía Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề bất đồng về biển đảo, không kéo nước này chống nước khác”. Rõ ràng đó là lập trường “hèn với giặc, ác với dân” phơi bày công khai. Đất nước quả là lâm nguy, đại lâm nguy”. Cuối cùng tác giả Bùi Tín “xin để toàn thể Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Sĩ, và toàn dân nhận xét và đánh giá trên lập trường bảo vệ Tổ quốc, một cách khách quan và công bằng”.
4. KẾT LUẬN.
CSVN đánh thực dân Pháp không phải vì giành độc lập tổ quốc, mà là nhuộm đỏ một nửa giang sơn phía Bắc với chế độ độc tài tàn bạo hơn thực dân Pháp. CSVN từ nước Viêt Nam Dân Chủ cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa không phải để thống nhất đất nước, mà là nhuộm đỏ toàn cõi giang sơn Việt Nam dưới sự cai trị độc tài tàn bạo của cộng sản quốc tế.
Với những diễn biến trên lãnh thổ Việt Nam trong 36 năm qua, từ chính sách của lãnh đạo cộng sản Việt Nam cai trị người dân một cách tàn bạo nghiệt ngã, thậm chí thẳng tay đàn áp khi người dân quá phẫn uất đã cùng nhau biểu tình phản đối Trung Cộng hà hiếp lấn chiếm Việt Nam, đến chính sách quy lụy lãnh đạo Trung Cộng, thậm chí quy lụy cả những nhà thầu của Trung Cộng một cách hèn hạ đến khiếp nhược, nhưng xem ra lại phù hợp với “biên bản” thỏa thuận giữa lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lãnh đạo cộng sản Trung Hoa hồi tháng 9 năm 1990.
Nhớ lại những năm trong trại tập trung trên đất Nam lẫn đất Bắc, “nhờ bị học chính trị” nên tôi còn nhớ bài học ca tụng cộng sản Liên Sô rằng: “Liên Sô là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội”. Chắc chắn là Các Anh “phải thuộc bài này” hơn tôi nhiều. Vậy, tôi mời Các Anh đọc vài đoạn dưới đây của cố, cựu, và đương kim lãnh đạo nước Nga sau thời cộng sản: (1) Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Gorbachev nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.” (2) Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin nói: “Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.” (3) Ngày 7/5/2010, đương kim Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev đã trả lời phỏng vấn của nhật báo Nga Isvestiai. Trích vài đoạn: “Chế độ chính quyền ở Liên Xô khi trước không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thực không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do căn bản không những chỉ người dân của nước mình, mà còn cho nhân dân các nước nằm trong khối CS, tôi muốn nói tới các nước XHCN khác, trong gần nửa thế kỷ nay. Và vết nhơ này không thể nào bôi xóa trong lịch sử”. Lời phát biểu của ông đã gây chấn động hệ thống truyền thông Nga và nhiều nước trên thế giới. … Năm 1940, khoảng 22.000 sĩ quan Ba Lan đã bị Staline ra lệnh thảm sát tại rừng Katyn. Mãi sau này, chính quyền Ba Lan mới đưa vụ thảm sát ra tòa án Nhân Quyền Âu Châu tại Strasbourg với những bằng chứng. Thân nhân những người bị sát hại đã đòi chính phủ Nga phải bồi thường. Tháng 3/2010, Viện Công tố Quân Sự Nga đã trả lời Tòa Án Nhân Quyền Âu Châu rằng: “Vụ thảm sát xảy ra từ năm 1940, tới nay đã vượt qua thời hiệu pháp lý. Nước Nga ngày nay, không thể chịu trách nhiệm cho một chính quyền 70 năm về trước. Ông nói: “Nếu ngày hôm nay, nhắm mắt trước những tội ác này, thì trong tương lai, những tội ác như vậy sẽ còn lặp lại, ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Vì vậy, thời gian khiếu nại tuy khá xa, nhưng tội ác tày trời như vậy không bao giờ mất thời hiệu. Những người gây tội ác, bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm, cũng phải gánh trách nhiệm ! Đây là vấn đề trách nhiệm và đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm”.
Tổ Quốc Việt Nam chúng ta thật sự lâm nguy rồi!
Nếu nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thức tỉnh thì dân tộc Việt Nam bị cái tròng “Bắc thuộc lần thứ 5” đang trên cổ dân tộc Việt Nam sẽ từ từ siết lại cho đến năm 2020 như đã thỏa thuận giữa lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam với lãnh đảng đảng cộng sản Trung Hoa. Từ đó, Văn hoá Việt Nam sẽ dần dần bị tan biến trong văn hoá Tàu cộng sản!
Nhưng, đã là cộng sản và là cộng sản Việt Nam, tôi hoàn toàn không tin là họ sẽ trở thành người tử tế như những người tử tế trong xã hội, để nhận ra điều đúng điều sai mà rút ra bài học kinh nghiệm ứng dụng vào trách nhiệm lãnh đạo. Vì cho đến nay, nhìn vào sự thật, chúng ta nhận rất rõ là lãnh đạo CSVN đã thành công khi tạo nên một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng gian trá lọc lừa “đúng theo bản chất” của đảng cộng sản, họ cũng đã thành công khi tạo nên một nước Việt Nam “sẳn sàng trở về” với nước Tàu cộng sản đúng theo nhóm lãnh đạo CSVN đã “đề nghị” và được lãnh đạo CSTH chấp nhận từ năm 1990!
Vậy, Việt Nam chỉ còn cách duy nhất là phải tranh đấu giành lại những quyền căn bản của con người từ tay chế độ độc tài. Từ đó, sẽ vô hiệu hóa những văn kiện mà cộng sản Việt Nam đã ký với Trung Cộng vi phạm Hiến Pháp Việt Nam làm thiệt hại cho Việt Nam về biên giới, biển cả, và nội địa.
Xin gởi sự suy nghĩ nhỏ nhoi hạn hẹp của tôi đến Các Anh, “Những Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, hãy bình tâm mà nhận định một chuỗi sự kiện đã diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên quật sập cái chế độ cộng sản độc tài tàn bạo với dân nhưng vô cùng khiếp nhược với Trung Cộng, để mọi người Việt Nam trong nước và hải ngoại cùng nhau vá lại mảnh giang sơn đã rách loang lỗ, xóa tan những “vệt da beo trên da thịt quê hương”, để xây dựng một nền văn hoá nhân bản khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại – đặc biệt là Những Người Lính Chúng Tôi – vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Houston, tháng 11 năm 2011.
Phạm Bá Hoa
Phạm Bá Hoa
.
.
.
No comments:
Post a Comment