Lịch Sử Quân Sử Việt Nam Ngày 30/04/1975
12:00:am 11/05/10
http://www.danchimviet.com/archives/8579
“Quyết định đầu hàng đạo quân Bắc xâm cộng sản Việt
I. Dẫn Nhập:
Xin mượn bài thơ Oan Hồn được trích trong Thi tập Cõi Lòng của Thi sĩ Vĩnh Nhất Tâm để làm lời mở đầu cho bài biên khảo Lịch Sử Quân Sử Việt Nam Ngày 30/04/1975.
OAN HỒN
Biết bao nhiêu triệu oan hồn
Hồn còn vất vưỡng giữa dòng biển Ðông
Nhà tù, biên giới, ven sông
Ðường rừng chạy giặc, kẻ còn người không
Biết bao số phận má hồng!
Văn minh bác đảng “gả” chồng ngoại bang
Thế tình còn lắm gian ngoan
Trừ khi Cộng phỉ không còn vãng lai
Trải qua mấy chục năm nay
“Ðại đồng” đau khổ! Ðúng là giả nhân!.
Vĩnh Nhất Tâm
4-2003 (Thi tập Cõi Lòng)
.
Bài biên khảo này xin được nhìn lại một cách thẳng thắn và thực tiễn nhất trên tinh thần của một Phật tử về sự kiện Đại tướng Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Dương Văn Minh quyết định đầu hàng đạo quân Bắc xâm cộng sản Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975, cách đây 35 năm về trước.
.
Trước khi đề cập đến quyết định lịch sử của Tướng Dương Văn Minh trong ngày 30/04/1975, chúng ta hãy nhìn lại hai trận đánh có tầm vóc lớn lao trong lịch sử nước nhà. Đó là trận chiến tái chiếm kinh thành Thăng-Long năm 1285 của quân dân Đại Việt đối đầu với đạo quân Bắc xâm Mông-cổ. Và trận đánh xảy ra vào gần cuối thế kỷ 20 giữa tộc Việt chống lại đoàn quân Bắc xâm Việt cộng (Việt cộng viết tắt của Việt
.
* Cách xử dụng danh từ trong bài viết: quân Bắc xâm Việt cộng: dùng để chỉ quân đội của cộng sản Việt
II. Từ Cuộc Kháng Nguyên Năm 1285…
Sau khi tiêu diệt nhà Tống vào năm 1279, Hốt Tất Liệt tức Nguyên Thái Tổ đã chuẩn bị binh sĩ cũng như cho đóng thêm chiến thuyền để xâm lăng nước ta. Ðể tránh sự thất bại như lần trước vào năm 1258, bị Thái tổ Trần Thái Tông đánh bại ở Đông Bộ Đầu, quân Nguyên dự trù mở ba mặt trận làm thế gọng kềm trong dã tâm đè bẹp nước Ðại Việt. Chúng dự định đem quân đánh chiếm Chiêm Thành làm gọng kềm phía Nam, phối hợp với hai hướng tiến quân phía Ðông Bắc và Tây Bắc, từ dưới đánh lên và phía trên cho quân tràn xuống với khí thế vô cùng hung hãn.
Bản đồ quân sự nhà Trần chống quân Mông-cổ năm 1285
.
Tình hình quân sự Mông-cổ và Đại Việt
Mùa thu tháng 8 năm 1283, viên tướng trấn thủ biên cương Lạng Châu (Lạng Sơn) là Lương Uất cấp báo về triều đình, Hữu thừa tướng nhà Nguyên là Toa Đô (Sôgatu) đem 5000 quân mượn đường nước ta sang đánh Chiêm Thành.
Tháng 10, vua Trần Nhân Tông tổ chức một hội nghị tại bến đò Bình Than, vũng Trần Xá (chỗ gặp nhau của hai con sông Thái Bình và Kinh Thầy. Nơi nầy về sau vẫn còn xã gọi là Trần Xá) ở địa phận xã Trần Xá, huyện Chí Linh. Hội nghị đã quy tụ hầu hết các vương thân quốc thích và cũng là các hàng lãnh đạo quân sự, mục đích tổ chức nhằm bàn kế chống giặc ngoại xâm cũng như thắt chặt thêm tinh thần đoàn kết chiến đấu của toàn thể triều đình chúng ta. Tại đây ngoài việc bàn kế chống giặc, vua Nhân Tông đã phục chức Trần Khánh Dư làm Phó đô tướng quân, một phẩm hàm đã bị tước đi khi ông phạm lỗi và phải lui về làm nghề bán than ở Chí Linh (xưa là đất Bàng Châu, cũng gọi là Bàng Hà, khi quân Minh chiếm nước ta chúng đổi thành huyện Chí Linh, sau đó nhà Lê vẫn xử dụng tên cũ không thay đổi, này nay nó thuộc tỉnh Hải Dương). Hoài Vương Hầu Trần Quốc Toản vì còn nhỏ tuổi đã không được tham dự. Ông đã bóp nát trái cam trong tay lúc nào không hay để tỏ ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm. Khi lui về, ông đã quy tụ người nhà thành một đạo quân hơn ngàn người, trang bị khí giới, chiến thuyền, gương cao lá cờ «Phá Cường Ðịch Báo Hoàng Ân». Khi lâm trận chống quân Mông-cổ, lúc nào ông cũng đi đầu diệt giặc, khiến chúng phải e dè, không dám đối đầu mà phải lẫn tránh.
Vào tháng 10 cùng năm, Ðức Hoàng Ðế Trần sắc phong Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư (vị quan đứng đầu triều đình, chỉ huy cả hai bộ phận văn và võ), Ðinh Củng Viên làm Hàn lâm học sĩ phụng chỉ (vị quan đứng đầu viện văn học trông coi việc soạn thảo các loại chế, cáo, chiếu chỉ của nhà vua).
Tháng 7 mùa thu năm 1283, triều đình Ðại Việt cử quan Trung phẩm Hoàng Ư lệnh, nội thư gia Nguyễn Chương đi sứ nhà Nguyên. Tháng 10 hai vị sứ giả của chúng ta trở về báo rằng nhà Nguyên sai thái tử Trấn nam vương Thoát Hoan (Toghan) và bình chương A Lạt (Ariq-Qaya) quy tụ 50 vạn quân ở hai tỉnh Hồ Quảng chuẩn bị tràn vào xâm lăng nước ta.
Cho nên mùa Đông tháng 10 năm 1283, vua Nhân Tông đã đích thân cùng với các vương hầu mở cuộc tập trận lớn bao gồm cả thủy và lục quân. Ngài bổ nhiệm Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công, tiết chế thống lĩnh tất cả các sắc quân (tương đương với Tổng tham mưu trưởng quân đội ngày nay), chọn trong hàng tướng lãnh người nào có khả năng võ nghệ thì cho ra chỉ huy từng bộ phận.
Mùa thu tháng 8 năm 1284, Đức vua Trần Nhân Tông hạ lịnh cho Hưng Đạo Vương điều khiển các sắc quân của vương hầu, mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông-bộ-đầu (tức bến sông Hồng phía trên cầu Long Biên gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay) rồi chia quân trấn giữ Bình-Than cũng như các nơi trọng yếu. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã phổ biến bài Hịch Chiến Sĩ đến toàn quân sĩ Đại Việt.
Sự bố trí lực lượng của quân đội Đại Việt được ghi nhận như sau:
Ở mặt Đông-Bắc quân ta trấn thủ Vĩnh Bình, Động Bàng, Nội Bàng, Vạn Kiếp, Bình Than, chỉ huy mặt trận này là Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng Đạo; đối phó với cánh quân Vân
Ở phía Tây Bắc thì giao cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy
Phía
Tổng chỉ huy chiến trường là Đức Hoàng Đế Trần Nhân Tông.
Tháng 8 năm 1284, Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã cho mời các kỳ lão của cả nước vào thềm điện Diên-Hồng để chiêu đãi cũng như bàn kế sách chống giặc. Khi Đức Thượng Hoàng trình bày tình hình nguy biến của nước nhà trước họa xâm lăng của Mông-cổ, thì tất cả kỳ lão đồng hô to «Phải đánh».
Toa Đô thống lãnh đoàn quân Mông-cổ với mưu đồ mở gọng kềm phương Nam để kềm chế Đại Việt bằng cách tấn công nước Chiêm Thành đã hoàn toàn thất bại trước sự kháng cự mãnh liệt của quân dân nước này.
Vua Nguyên đã tổ chức một bộ máy quân sự khổng lồ sang xâm lược nước ta. Bao gồm A Lý là tướng có công trong các trận hạ thành Tương Dương, Ngạc Châu, Phàn Thành, Tỉnh Giang, Giang Lăng và nhiều chiến trường khác. Còn phải kể Lý Hằng, người dứt điểm nhà Tống trong chiến dịch Nhai Sơn. Một số cận tướng với A Lý như Áo Lỗ Xích, Trình Bằng Phi, Ô Mã Nhi, Toa Ðô, Phàn Tiếp. Phải nói là bộ tham mưu này đã tập trung những tướng lãnh dày dặn kinh nghiệm nhất của quân Nguyên trong chiến dịch xâm lăng nước Ðại Việt.
.
Đại Việt và Mông-cổ giao tranh
Ngày 21 tháng 12 năm Giáp Tý (1284) quân Mông-cổ do Thoát Hoan cầm đầu đã tràn xuống tới biên giới của nước ta. Thoát Hoan đã cho lý vấn quan Khúc Liệt (Kütä) và tuyên sứ Tháp Hải Tân Lý (Taqai Sarïq) cùng Nguyễn Ðại Học đem thư của A Lý đòi nước ta mở đường và cung cấp lương thực cho họ đi đánh Chiêm Thành. Ðức vua Trần Nhân Tông trả lời «Từ nước tôi đến Chiêm Thành, thủy bộ đều không tiện». Song song ngài hạ lịnh cho Hưng Ðạo Vương mang quân trấn thủ biên giới. Trong khi các phái bộ ngoại giao Nguyên-Việt tiếp tục qua lại trao đổi công hàm ngoại giao thì quân Nguyên tiếp tục ào ạt tiến đến Lộc Châu (tức huyện Lộc Bình tỉnh Lạng Sơn ngày nay). Thoát Hoan sai Ðà tổng là A Lý sang nước ta nói rõ về lý do chuyển quân là đi đánh Chiêm Thành chứ không có ý gì khác. Trong khi đó quân Mông-cổ tiếp tục tiến quân vào nội địa nước ta, khi chúng tiến tới núi Kheo Cấp thì bị quân ta anh dũng chận đánh không thể tiến lên được.
Nghe tin quân Nguyên kéo tới Lộc Châu, vua Trần Nhân Tông đã nhanh chóng điều động quân lính đến trấn thủ các ải Khâu Ôn và Khâu Cấp Lãnh.
Ngày 21 tháng 12 năm Giáp Thân (tức 27 tháng một năm 1285) Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đã chia quân ra hai hướng để tấn công. Cánh quân phía Tây do Vạn Hộ Lý, La Hợp Ðáp Nhi (Bolqadar) và chiêu thảo Athâm (Atsin) chỉ huy do đường huyện Khâu Ôn tiến xuống. Cánh quân phía Ðông do khiếp tiết Tản Ðáp Nhi Ðãi (Tatartai) và vạn hộ Lý Băng Hiến … tới ải Nữ-Nhi (Toàn Thư, Cương Mục) còn An-Nam Chí-Lược gọi là ải Anh-Nhi. Ở đây chúng bắt và giết một nhân viên do thám của Đại Việt là Đỗ-Vĩ tướng quân. Quân ta chiến đấu chống giặc Nguyên ở núi Khâu (hay Kheo) Cấp vẫn không phân thắng bại vì hai ải Khả-Ly và Nữ-Nhi đã thất thủ, song vì áp lực địch quá nặng nên bắt buộc phải rút về cố thủ ải Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, tỉnh Lạng Sơn).
Tại ải Chi Lăng quân Đại Việt không thể nào đương cự được quân địch đông đảo gấp bội phần nên đành phải cấp tốc rút về trấn giữ bến Vạn Kiếp (tỉnh Hải Dương) là nơi Hưng Đạo Vương đặt tổng hành dinh điều khiển mặt trận miền Bắc (trước đây được đặt tại ải Nội Bàng).
Khi vua Nhân Tông nghe tin các ải Chi Lăng, Nội-Bàng bị thất thủ, quân ta lui về giữ bến Vạn Kiếp, trong cuộc họp ở Hải Đông (chỉ chung vùng Hải Dương cũ nay thuộc tỉnh Hải Hưng và Hải Phòng hiện nay) ngài đã ra lịnh cho Hưng Đạo Vương điều động quân lính các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm (Vân Trà Ba Điểm là hai hương lộ thuộc Hải Đông bấy giờ. Hương Vân Trà hay Trà Hương là vùng Kim Thành, tỉnh Hải Hưng ngày nay), chọn những người dũng cảm làm tiên phong, vượt biển vào
Ngày 26 tháng chạp năm Giáp-thân (1284) giặc Nguyên tấn chiếm các ải Vĩnh-Châu, Nội-Bàng, Thiết-Lược và Chi-Lăng. Trong đó Nội-Bàng là một chiến trường khá quan trọng cho vòng đai phòng thủ kinh thành Thăng Long.
Hưng Đạo Vương cùng quân lính rút lui vội vả khỏi ải Nội Bàng cho ta thấy tình thế rất bức bách, đồng thời ngoài dự tính của Đức Hoàng Đế Trần cũng như Hưng Đạo Vương. Ấy thế, kẻ thù vẫn không buông tha. Quân Nguyên đuổi theo đoàn quân triệt thoái và chúng chia ra hai ngả để tấn công vào cứ điểm Vạn Kiếp.
Tại đây quân Đại Việt phải triệt thoái một lần nữa và bị thiệt mất 20 vạn chiếc thuyền về tay giặc. Thừa cơ quân ta rút lui, chúng cướp phá, giết chóc xem như chỗ không người, đồng thời tiến chiếm các cứ điểm Gia Lâm, Đông Ngàn. Ở hai nơi này hễ bắt được người lính nào của ta trên tay có xâm hai chữ «sát thát» trên cánh tay đều bị Mông-cổ giết thẳng tay.
Sau khi các phòng tuyến Vin-Châu, Nội-Bàng, Thiết-Lược và Chi-Lăng lần lượt thất thủ sau 5 ngày tấn công của giặc, Vua Trần Nhân Tông đã phải thay đổi chiến lược chống giặc. .. chủ trương chiến đấu ban đầu của vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo hình như là đưa quân lên chận giặc ngay tại những vùng địa đầu biên giới của tổ quốc theo chiến lược Lý Thường Kiệt đã làm hơn 200 năm trước»
Chiến lược mới, vừa đánh vừa rút, vừa tổ chức phòng thủ đồng thời chọn lựa thời điểm và chiến trường thích hợp nhất để phản công đánh bại kẻ thù.
Ngày 26 tháng Chạp năm 1284 giặc Nguyên tấn công vào ải Nội-Bàng cũng như các ải gần đó (theo Toàn Thư), còn trong An Nam Chí Lược ghi là 27 tháng Chạp. Quân ta đã rút khỏi các ải vừa bị thất thủ và lui về phòng tuyến Vạn Kiếp. Vào lúc này nhằm năm hết tết đến, vừa phải cấp tốc tổ chức lại sự chiến đấu cũng như chăm sóc cho những binh sĩ bị thương còn phải chuẩn bị đón chào năm mới Ất-Dậu, không khí thật tưng bừng phấn chấn nhất là khi Đức Hoàng Đế Trần nhắc nhở và cổ vũ tinh thần toàn quân sau một số thất lợi ban đầu bằng cách nói rằng «Hoan diễn do tồn thập vạn quân» nghĩa là ta còn đạo quân dự bị ở Hoan ái đến hơn trăm ngàn người.
Thoát Hoan sau khi đã chấn chỉnh xong binh đội, ngày mồng 6 tháng Giêng năm 1285 chúng mở cuộc tấn công vào phòng tuyến Vạn Kiếp và núi Phả Lại (tức là núi ở xã Phả Lại, cạnh sông Lục Đầu, đối diện với thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng) của quân Đại Việt.
Ở tại Vạn Kiếp, Hưng Đạo Vương đã đem chiến thuyền dàn trận cách sông Vạn Kiếp mười dặm mà theo Cương Mục gọi là trận «dực thủy». Dực thủy là hình thức dàn trận đánh trên sông sắp các chiến thuyền theo hình cánh chim sãi trên mặt nước. Hình thức này có lợi là các chiến thuyền có thể nương tựa và bảo vệ nhau trong lúc chiến đấu. Tuy nhiên nếu gặp cường địch, thế cùng phải thoái lui thì sẽ bị vướng víu khó lòng xoay trở kịp. Trong sách Trần Hưng Đạo của tác giả Hoàng Thúc Trâm thì ghi là «Dục thủy» tức là trận tắm nước.
Phải nói là trận đánh tại Vạn Kiếp xảy ra rất là cam go giữa ta và địch, chúng phải mất hơn 10 ngày mới phá vỡ được phòng tuyến này của ta. Dĩ nhiên con số thiệt hại nhân mạng giữa hai bên là không nhỏ, phía quân Nguyên có tướng vạn hộ Nghê Nhuận bị tử trận ở Lưu Thôn.
Quân ta rút lui thêm một lần nữa trước sức công phá mãnh liệt của địch. Ngày 12 giặc Nguyên đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh (sau là Võ Giảng, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), Đông Ngàn (tức là huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Chúng đã sát hại rất nhiều binh sĩ của ta, nhất là những người có xâm hai chữ «sát thát». Thẳng đường giặc Nguyên chiếm luôn Đông Bộ Đầu và dựng một lá cờ lớn (lá cờ lớn không thấy trong các bộ sử nói là cờ gì, không lẽ là cờ của quân Nguyên).
Cũng cần biết thêm rằng từ khi chiến cuộc Nguyên Việt bùng nổ thì khắp nơi trong nước Việt đều treo bảng yết thị của triều đình với nghiêm lịnh không được đầu hàng kẻ thù, nghiêm lịnh đó nội dung như sau: «Phàm các quận huyện trong nước, hễ có giặc ngoài đến, thì phải liều chết cố đánh; nếu không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, chứ không đón hàng».
.
Thành Thăng-Long bị bao vây
Ngày 9 tháng giêng năm Ất Dậu (1285) Đức vua Trần Nhân Tông thống lãnh 100 ngàn quân Đại Việt cả thủy và lục hai lộ quân ở tại phòng tuyến nơi sông Bình Than (hay Bài-Than theo An Nam Chí Lược của Lê Tắc) để chống lại sức tấn công vũ bảo của giặc Nguyên do các tướng Ô Mã Nhi, Chiêu-Thảo Nạp-Hải, Trấn-Vũ Tống-Lâm-Đức cầm đầu.
Để tấn công vào phòng tuyến này của ta, chúng đã xử dụng những chiến thuyền tịch thu được ở trận Vạn Kiếp. Cũng tại đây vào tháng 10 năm 1283, Vua Trần Nhân Tông đã triệu tập các vương thân quốc thích để bàn phương sách chống giặc. Thì nay hơn một năm sau tại bến đò Bình Than vũng Trần Xá này đã diễn ra một trận kịch chiến long trời lở đất do đích thân ngài chỉ huy. Trận này xảy ra cho ta thấy rõ ràng hơn chiến lược chống giặc của vị lãnh đạo của chúng ta là «mềm nắm rắn buông» hay tháo lui chiến lược phòng thủ chiến lược và phản công chiến lược. Và hiện tại ta đang ở giữa giai đoạn một và hai.
Ngày 13 tháng giêng, Đức vua Trần cùng quân lính trấn thủ phòng tuyến sông Cái (trong sử gọi là sông Lô) chống trả các cuộc tấn công của quân Nguyên nhưng không thành công đành phải rút lui để lập phòng tuyến mới.
Đang lúc các trận giao tranh xảy ra ác liệt có Chi hậu cục Đỗ Khắc Chung tình nguyện mang thơ đi nghị hòa với quân Nguyên (mục đích do thám trại lính quân Nguyên), ông tâu với vua Nhân Tông rằng: «Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi». Đức vua khen ngợi: «Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế».
Ngày 14 tháng giêng (1285), quân Đại Việt lập các cứ điểm (gồm các sào lũy bằng gỗ) phòng ngự phía
Thoát Hoan cùng quan hành tỉnh thân chinh đến phía Đông bờ sông Cái để tấn công quân nhà Trần. Nơi đây chúng tịch thu của quân ta được 20 chiến thuyền. Quân do Hưng Đạo Vương không đương cự nổi phải rút lui. Và quân Mông-cổ buộc bè làm cầu, sang bờ bắc sông Phú Lương.
Vua Nhân Tông bố trí binh sĩ dựng gỗ dọc theo sông. Khi thấy quân Mông-cổ đến, quân ta nổ pháo và thách thức đánh nhau. Trận đánh tiếp diễn đến chiều, Nguyễn Phụng Ngự được sai đi thuyết khách yêu cầu Thoát Hoan rút lui. Dĩ nhiên quân mông-cổ làm sao chấp nhận được, chúng vẫn nhất quyết tấn công. Để bảo toàn lực lượng vua Nhân Tông cùng binh sĩ Đại Việt rút khỏi thành Thăng-Long ngày 14 tháng giêng năm Ất Dậu (1285). Hôm sau, Thoát Hoan vào thành, đều thấy cung điện trống trơn, chỉ lưu lại chiếu sắc và mấy lá thư của Mông-cổ, tất cả đều bị xé nát. Ở đây chúng ta thấy tài trí phi thường của vua Nhân Tông trong việc cầm chân kẻ thù để rút lui binh lính một cách an toàn nhất, ít bị hao binh tổn tướng.
Tuy chiếm được Thăng Long nhưng Thoát Hoan e dè sợ lọt vào ổ phục kích của ta nên không dám đóng quân trong thành.
Kế hoạch rút quân của ta từ Bình Than về Thăng Long và từ Thăng Long về Thiên Trường là nhằm bảo toàn lực lượng tránh đi ba mũi tấn công của giặc Nguyên. Một mũi do chính Thoát Hoan và A Lý Hải Nha từ phía Đông Bắc xuống, mũi kế là từ Tây Bắc thọc qua do Nạp Tốc Lạt Đinh và cuối cùng, quan trọng hơn là mũi từ phương
Quân Nguyên vẫn tiếp tục truy sát quân ta để cố bắt cho được hai vị vua của ta.
Vua Nhân Tông rước Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đi Tam Trĩ Nguyên (là sông Ba Chế, ở huyện Ba Chế thuộc tỉnh Quảng Ninh), Thoát Hoan khi vào thành biết rằng nhà vua đã đi xa nên càng gấp rút đuổi theo.
Quân do thám Mông-cổ dò biết được nơi chốn đào tỵ của hai vua nên chúng chia hai đường do Tả thừa truy đuổi bằng đường thủy, Hữu thừa rượt theo bằng đường bộ. Đức Hoàng đế Trần bỏ đường thủy phò Thượng Hoàng đi bộ cùng với quân dân. Trong Cương Mục và Toàn Thư không thấy ghi cách tổ chức hành quân triệt thoái vào đời Trần ra sao, chắc hẳn là vô cùng gian nan và bức bách.
Đoàn quân triệt thoái được an toàn đã chứng tỏ tài năng trời cho về quân sự của vua Trần Nhân Tông suy nghĩ trong việc sắp xếp một cách chu đáo cuộc triệt thoái này. Ngày nay nhiều nhà quân sự tiếng tăm trên thế giới cho rằng hành quân triệt thoái còn khó hơn cả khi tấn công vào đất địch vì đạo quân bị rơi vào thế thụ động vừa phải tìm cách bảo toàn lực lượng vừa lo chống đỡ kẻ thù truy kích, thì cách đây 715 năm về trước, một vị Hoàng đế người Việt Nam đã thành công trong việc chỉ huy đoàn quân triệt thoái giữa lúc đang bị kẻ thù xâm lăng truy đuổi gắt gao nhất. Người đó không ai khác hơn đó là Đức vua Trần Nhân Tông. Và đây là cuộc triệt thoái thứ hai và được tổ chức một cách chu toàn nên đã thành công.
Ngày 28 tháng giêng, Hưng Đạo Vương tâu với nhà vua xin cho Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải chận đánh cánh quân của Toa Đô ở Nghệ An (cánh quân này được lịnh từ Chiêm Thành, tiến chiếm các châu lộ phía Nam của ta, rồi Bắc tiến, phối hợp với đạo quân của Thoát Hoan làm thành thế gọng kềm tiêu diệt quân đội nhà Trần).
Chao đảo về tình hình chiến trường, ngày 1 tháng 2, con thứ của Tỉnh Quốc Đại Vương Quốc Khang là Thượng vị Chương Hiến Trần Kiện (Trần Kiện vốn có hiềm khích với hoàng tử Đức Việp. Khi giặc Nguyên xâm lăng, Kiện được lịnh trấn giữ Thanh Hóa) và thuộc hạ thân tín là Lê Tắc (hay Trắc) ra đầu hàng quân Nguyên. Toa Đô sai quân lính đưa đám hàng binh này về Yên kinh (thủ phủ của nhà Nguyên). Dọc đường bị các vị tù trưởng ở Lạng Giang (tức Lạng Sơn ngày nay) là Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh tập kích trại Ma Lục (ở Chi Lăng thuộc châu Lạng Giang thời đó, nay là tỉnh Lạng Sơn). Vị tướng của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô bắn tên giết được Trần Kiện. Lê Tắc phải đưa xác Kiện lên ngựa, chạy trốn trong đêm, được vài chục dặm tới Khâu Ôn và chôn tại đó.
Ngày 15 tháng 3 năm Ất Dậu (1285), Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem quân lính đầu hàng nhà Nguyên. Trong Toàn Thư trình bày về con người của Ích Tắc cho ta thấy sự đầu hàng nhà Nguyên của nhân vật này đã có nhân duyên từ trước, phải nói từ đời trước khi Ích Tắc đầu thai làm con vua Thánh Tông. Ích Tắc là hoàng đệ của Nhân Tông, so về tài thì Nhân Tông và Ích Tắc không ai thua kém ai, nhưng về mặt đức độ của người con lớn (Nhân Tông) hơn hẳn đứa con thứ (Ích Tắc). Ích Tắc tự phụ nghĩ rằng mình có tài hơn hẳn Nhân Tông tại sao phụ vương (vua Thánh Tông) không truyền ngôi cho mình lại phân biệt trưởng thứ như thế, nên sanh tâm bất mãn và tìm cách hợp tác với quân thù để cướp ngôi báu về cho bản thân mình.
Kết quả Trần Ích Tắc bị chết già trong sự hỗ thẹn ở đất Tầu.
.
Chuyển bại thành thắng
Quân Toa Đô từ Chiêm Thành kéo về, cướp bóc ở dọc đường, trèo non xuống dốc ở khoảng châu Ô, châu Lý, châu Hoan, châu Ái, nay về trấn đóng ở Tây Kết.
Nhà vua (Nhân Tông) bàn với quần thần rằng: «Quân giặc đi muôn dặm đường để đánh úp nước người ta, vì không đánh được mà phải bỏ đi, bây giờ nhân lúc chúng mỏi mệt mà đem quân đã nghĩ dưỡng sức của ta để đối địch với quân mỏi mệt của chúng, đánh ngay một trận phủ đầu cho chúng mất hết nhuệ khí, thì tất nhiên phá được».
Tháng 4, nhà vua ban hành lịnh tổng phản công : “«..đem quân đã nghĩ dưỡng sức của ta để đối địch với quân mỏi mệt của chúng, đánh ngay một trận phủ đầu cho chúng mất hết nhuệ khí, thì tất nhiên phá được».
Các vị Chiêu Thành Vương (khuyết danh), Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái được lịnh của Đức Hoàng đế Trần đem các binh sĩ tinh nhuệ vây đánh quân giặc ở bến Tây-Kết (ở ven sông Hồng, khoảng thôn Đông Kết, xã Đông Bình, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng. Ngày nay, thôn này cách sông Hồng 3 cây số, đất bãi (tức bãi Mạn-Trù, nay thuộc xã Tân Châu), nhưng xưa kia sông kề thôn).
Thừa thắng xông lên sau khi đã chiếm được bến Tây-Kết, các vị Chiêu Thành Vương (khuyết danh), Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đã thẳng đường tiến đánh Hàm Tử quan (cửa Hàm Tử: ở bãi Hàm Tử, huyện Động Yên tỉnh Hưng Yên).
Như vậy là suốt trong tháng 4 sau khi lịnh tổng phản công được ban hành thì quân dân Đại Việt đã tái chiếm lại các cứ điểm đã bị mất trước đây. Đó là A-Lỗ, Tây-Kết, Hàm Tử Quan và nó đã mở rộng cửa cho đường về giải phóng Thăng Long.
Trận phản công diễn ra tại cứ điểm A-Lỗ hay Hải-Thị do Hưng Đạo Vương chỉ huy. Đây là một trận đánh lớn không kém phần gay go quyết liệt. Quân nhà Trần đã tấn công hai hướng An-Lỗ và Giang-Khẩu. Ở tại Giang-Khẩu dưới sự chỉ huy của Trung Thành Vương đã kịch chiến với tướng nhà Nguyên là Thiên Hộ Mã Vinh. Binh sĩ Nguyên bị quân ta sát hại rất nhiều phải tháo lui. Sau đó hai cánh quân thủy bộ của nhà Trần đã tập trung toàn bộ lực lượng đánh vào đại doanh của chúng. Đại doanh đây chính là kinh thành Thăng Long. Mặc dù quân giặc cố gắng chống trả, quân ta thiệt hại không ít, nhưng nhờ chiến lược «đánh cầm chừng» trước đây nên ta đã bảo toàn được lực lượng do đó ta có đủ lực lượng để bủa vây quân địch đến mấy lớp và viện quân được điều đến liên tục để dứt điểm chiến trường quan trọng này.
Quân Mông-cổ vì bị vây hãm nhiều ngày, người ngựa thiệt hại, lương thực thiếu thốn, khí giới mất mát, không có viện binh cũng chẳng có khí cụ thay thế nên chúng buộc phải rút bỏ thành Thăng Long. Trận đánh từ A-Lỗ qua Giang-Khẩu đến Thăng Long ắt hẳn phải kéo dài đến cả tháng trời từ đầu tháng 4 cho đến thượng tuần tháng 5 mới hoàn tất.
Sang tháng 5 vào ngày mùng 3 năm Ất Dậu (1285) Thượng hoàng Thánh Tông và Hoàng đế Nhân Tông từ Thanh Hóa tiến ra cùng tấn công đánh chiếm lại Trường-Yên (hay Tràng An theo Việt Sử Tiêu Án), ở đây quân ta đã thắng lớn, bắt được vô số địch quân cũng như giết được nhiều quân giặc.
Chương Dương (tên bến đò, ở xã Chương Dương, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội ngày nay-thuộc huyện Phong Châu tỉnh Phú Thọ) là một cứ điểm phòng ngự lớn của giặc trước khi về tới Thăng Long. Có thể nói đây là tiền đồn xa để phòng thủ kinh thành Thăng Long mà giặc Nguyên gọi là đại doanh. Tại đây quân ta và Mông-cổ đánh nhau một trận rất lớn và kẻ thù đã bị thiệt hại nặng. Có thể vì lý do đó chúng đã không ghi một dòng chữ nào trong các quyển sử Mông-cổ, ngoại trừ An-Nam Chí-Lược của Lê Tắc ghi vắn tắt: «Trong tháng 4, mùa hạ, An-Nam thừa cơ quân ta chỉnh mãng, đánh lấy lại La-thành». Chương Dương là tiền đồn xa như đã nói, khi quân ta chiếm được địa điểm tức nhiên Thăng Long chắc chắn phải lọt vào tay ta thôi. Nếu Chương Dương không mất thì Thăng Long không bị đe dọa và cũng không bị ta chiếm. Cho nên ở đây Lê Tắc viết: «An-Nam đánh lấy lại La-thành».
La-thành tức thành Đại-La mà Đại-La là tên cũ của thành Thăng Long, thành này lại là đại doanh (tổng hành dinh đạo quân miền Bắc của Thoát Hoan) như trong Kinh thế đại điển tự lục Nguyên văn loại đã ghi. Chúng ta có thể biết được rằng kinh thành Thăng Long đã được quân ta giải phóng từ tháng 4 nhưng mãi đến 10 tháng 5 mới có người lính của ta bị giặc bắt ở Chương Dương trốn chạy về báo cho hai vua đang chỉ huy trận đánh ở Trường-Yên được biết tin trên. Như vậy kinh thành Thăng Long được quân ta giải phóng vào cuối tháng 4 và tháng 10 tháng 5 có người chạy về Trường-Yên để báo là điều hợp lý là vì trận đánh tái chiếm Thăng Long thành diễn ra rất gay go nên nó đã kéo dài hơn cả tháng trời. Tuy nhiên không hiểu vì lý do gì mà Cương Mục và Việt Sử Tiêu Án lại không đề cập đến trận đánh tái chiếm Chương Dương độ?
Về mặt trận Trường-Yên, Cương Mục ghi tiếp: «Về phần quân Nguyên: quân của Toa Đô và quân của Thoát Hoan đóng cách nhau đến hai trăm dặm, lúc Thoát Hoan phải rút lui quân, Toa Đô vẫn chưa biết, nên Toa Đô và Ô Mã Nhi đem quân từ đường biển ra đánh ở sông Thiên Mạc, định phối hợp với cánh quân Thoát Hoan để nương tựa lẫn nhau».
Tại mặt trận Trường-Yên do Thoát Hoan chống giữ. Thoát Hoan đã bị hai vua Trần thống lãnh quân sĩ đánh bại nên phải rút lui và cũng không kịp báo cho Toa Đô và Ô Mã Nhi cùng biết vì chúng đóng quân cách nhau đến hai trăm dặm.
Trong chiến dịch tổng phản công tái chiếm kinh thành Thăng-Long quân đội nhà Trần được tổ chức làm hai cánh quân: Cánh quân thứ nhất do Thượng tướng Trần Quang Khải dẫn đầu; cánh thứ hai do Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy.
Sau khi Thăng Long đã sạch bóng quân thù, ngày 15 tháng 3 năm Ất Dậu (1285) hai vua đã về lại kinh thành trong tiếng khải hoàn và hai vị đã đi bái yết lăng tẩm của tổ tiên ở Long Hưng. Thượng tướng Trần Quang Khải cảm khái làm một bài thơ bất hủ để đánh dấu cuộc chiến đấu vô cùng dũng liệt của mọi con dân Đại Việt đồng thời khuyến khích mọi người hãy cố gắng giữ gìn nền thái bình đã được đánh đổi bằng sinh mạng của cả dân tộc, nội dung như sau:
Chương Dương cướp dáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng giữ
Nước non ấy muôn đời.
.
III. …Đến Cuộc Kháng Cộng Năm 1975:
Hiệp định Paris được ký ngày 27 tháng 3 năm 1973, quân Bắc xâm Việt cộng đã mở ra nhiều chiến trường mới nhằm tìm cách dứt điểm Việt Nam Cộng Hòa sau khi Hoa Kỳ và Đồng minh đã rút lui.
Căn cứ Tống Lê Chân bị quân Bắc xâm Việt cộng tấn công ngay ngày hiệp định Paris có hiệu lực (28/01/1973), người anh hùng tử thủ là Trung tá Lê Văn Ngôn cùng Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Để dứt điểm căn cứ này, quân Việt cộng phải huy động Công trường 9, cùng trung đoàn 271, một Trung đoàn pháo, một Trung đoàn phòng không cũng như một Lữ đoàn xe tăng. Chưa kể quân trừ bị và chận viện. Cuộc chiến dứt điểm bắt đầu từ 05/04/1974 đến 1 giờ sáng ngày 11/04/1974 mới chiếm được đồn.
Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng và Trung tá Lê Văn Ngôn chỉ còn 259 binh sĩ đã chiến đấu đến cùng và phải mở đường máu rút lui.
Căn cứ Tống Lê Chân bị quân Việt cộng tấn công dồn dập trong 510 ngày. Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng và Trung tá Lê Văn Ngôn đã làm sáng danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và xứng đáng là những chiến sĩ chiến đấu cho Hòa bình. Hòa bình của đất nước Việt
Mao Trạch Đông chủ tịch nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa ra lịnh cho quân đội Tầu cộng tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa ngày 17 tháng 1 năm 1974.
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 Tháng 1 năm 1974, hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa dưới sự chỉ huy của Hải quân Đại tá Hà Văn Ngạc đã đồng loạt nổ súng vào chiến hạm của Hải quân Tàu cộng khi họ hành động xâm chiếm đảo Hoàng Sa của Việt
Sau nửa tiếng đồng hồ giao tranh thì hai bên đều rút lui vì hai bên đều thiệt hại nặng cả. Bên HQVN chiếc Nhật Tảo bị chìm, tử thương 58 người (đa số binh sĩ thuộc chiến hạm Nhật Tảo và số còn lại thì gồm có hai người nhái trên đảo). Mỗi chiến hạm có một số bị tử thương. Phía Tầu cộng cũng bị thiệt hại nặng nề, một chiếc bị chìm, về nhân mạng có một số sĩ quan cao cấp bị tử thương, thành ra không thể nói bên nào chiến thắng hay chiến bại. Trong lúc đó một lực lượng hùng hậu gồm 17 chiến hạm khác từ Hải Nam đang hướng về hướng Hoàng Sa, trong đó có 13 chiến hạm với bốn chiếc tiềm thủy đỉnh loại tàu ngầm .
Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa có tăng cường thêm hai chiếc nữa tức là sáu chiếc, nhưng khi hai chiếc sau đang trên đường tới thì có tin phi cơ phản lực của Trung Cộng từ đảo Hải Nam đến dội bom. Trong khi đó tầm hoạt động của phi cơ F5 và A37 của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa không thể nào bay tới Hoàng Sa được, để tránh thiệt hại không cần thiết hạm đội Việt Nam Cộng Hòa phải bắt buộc rút lui.
Quân chủng Hải Quân đã chọn ngày 19/1 hằng năm làm ngày tưởng niệm và vinh danh các chiến sĩ HQ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc đại dương.
Đầu năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu theo kiểu quân đội nhà nghèo. Nhưng từ hai năm qua, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã không được cải tổ để thích ứng với tình hình chiến trường mới.
Các Sư đoàn tổng trừ bị như Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù được cử trấn giữ các vùng đất như binh sĩ sư đoàn Bộ Binh làm mất tính năng động cần thiết khi tình hình chiến trường sôi động.
Quân khu V của Việt cộng tổ chức chiến dịch H-9 tấn công hai địa điểm Nông-Sơn và Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng-Nam. Họ tung vào các Sư đoàn 324B (hay Sư đoàn Điện Biên), 308, và Sao vàng.
Ngày 06/08/1974, Thượng-Đức thất thủ. Tiểu đoàn 79 Biệt Động Quân đã rút khỏi nơi này. Số phận của Tiểu đoàn này cũng giống như tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân khi rời khỏi căn cứ Tống Lê Chân, những binh sĩ anh dũng này đã không được nhắc đến tên tuổi…
Bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa gởi Sư đoàn Nhảy Dù ra Quảng-Nam tăng viện, nhưng đã quá trễ.
Các trận đánh ác liệt đã xảy ra giữa Sư Đoàn Nhảy Dù và 3 sư đoàn Việt cộng diễn ra trên các cao điểm 1235 và 1062. Trận đánh khởi sự từ ngày 15 Tháng Tám đến ngày 8 tháng mười một năm 1974. Đây là trận đánh lớn nhất trong quân sử Việt Nam sau khi Hoa Kỳ rút lui, và cũng là một trong những trận hiển hách nhất của QLVNCH. Cuối cùng quân Việt cộng đã phải rút khỏi đồi 1062 trước sức chiến đấu dũng mãnh và gan dạ của các chiến sĩ Nhảy Dù.
Quân Bắc xâm Việt cộng mở chiến dịch tấn công Phước Long làm bàn đạp tấn công thủ đô Sài Gòn. Họ mở hai mũi tấn công vào mặt đông bắc thành phố Tây Ninh với trung đoàn 205; đồng thời tấn công pháo kích đơn vị Địa Phương Quân trấn thủ trên núi Bà Đen; 3 trung đoàn 33, 812, 274 thuộc sư đoàn 6 vc tấn công hai quận Hoài Đức và Tánh Linh thuộc tỉnh Bình Tuy. Đây là các trận đánh hỏa mù để cầm chân những lực lượng tinh nhuệ của quân đoàn III Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 26/12/1974, quân Việt cộng tấn công thị xã Phước Long và phi trường Sông Bé. Đồn trú nơi đây có Tiểu đoàn 2 trung đoàn 7 Sư đoàn 5 Bộ binh, ba đại đội Thám báo của các sư đoàn 5, 18, 25, cùng những đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân quân số vào khoảng 6000 người. Trong khi chiến trường đang căng thẳng, các đơn vị trú phòng tại đây được tăng viện thêm đại đội 1 và 4 thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Hơn sáu ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải chống lại một lực lượng tấn công đông gấp ba lần. Các đơn vị Việt cộng tấn công gồm hai sư đoàn 3 và 7, hai trung đoàn biệt lập, hai trung đoàn pháo và phòng không cùng với một trung đoàn chiến xa, tất cả đặt dưới quyền điều khiển của quân đoàn IV Việt cộng.
Quân lực VNCH tăng cường tối đa các phi vụ yểm trợ cho quân bạn, nhưng sức người có hạn. Nên ngày 9/1/1975, Phước Long thất thủ.
Quân Bắc xâm Việt cộng mở chiến dịch Tây nguyên với mục đích cắt đôi Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 10/3/1975, Việt cộng nổ súng tấn công Ban Mê Thuột với các sư đoàn 320 Điện biên và F10. Trách nhiệm phòng thủ có Đại tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng BMT và Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lịnh phó sư đoàn 23 bộ binh kiêm Tư lịnh mặt trận Ban Mê Thuột. Quân trú phòng tại chỗ là Trung đoàn 53 thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh dưới quyền điều khiển của Trung tá Võ Ân. Cuộc giao tranh đã xảy ra ác liệt ngay tại mặt trận phi trường Phụng Dực. Ngày 11/3/1975, quân Việt cộng được tăng cường quân số lên gấp 10 lần và đó là một ngày giao tranh đẫm máu nhất tại mặt trận phi trường Phụng Dực. Hầm chỉ huy của Đại tá Vũ Thế Quang bị Không quân ném lầm hai trái bom, nên đã mất liên lạc với bộ tư lịnh quân đoàn II từ phút đó.
Ngày 12/3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú Tư lịnh quân đoàn II quyết định tăng cường binh sĩ để tái chiếm Ban-Mê-Thuột. Trung đoàn 44 và 45 thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đã được một lực lượng trực thăng tới 46 chiếc HUIB và Chinook không vận vào Phước An. Đây là cuộc hành quân trực thăng vận lớn nhất kể từ sau Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973. Ngoài TĐ45BB, còn có sự tăng cường của Liên đoàn 21 Biệt Động Quân. Cuộc tăng viện đang diễn ra tốt đẹp, trong đó tinh thần binh sĩ các cấp lên rất cao, thì đột ngột có lịnh lui binh sau cuộc họp ngày 14/03/1975 giữa Thiếu tướng Phạm Văn Phú cùng Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang.
Hậu quả cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7b này là Quân đoàn II đã bị xóa sổ, và giải tán. Tướng Phạm Văn Phú bị cách chức rồi tự sát để giữ tròn khí tiết của một vị tướng lãnh vào ngày 30/4/1975.
Ngày 19 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh QĐ I – QK I về Sài Gòn để gặp Tổng thống Thiệu trình bày kế hoạch rút quân của quân đoàn. Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, cùng với sự hiện diện của Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Theo ghi nhận của Tướng Viên, kế hoạch của Trung tướng Trưởng rất chu đáo và được tiến hành theo hai phương cách:
- Phương cách thứ nhất: Các lực lượng từ Huế và Chu Lai theo Quốc lộ 1 cùng một lúc rút về Đà Nẵng.
- Phương cách thứ hai: Nếu địch cắt Quốc lộ 1 thì sẽ rút quân về ba nơi: Đà Nẵng, Huế và Chu Lai. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là nơi tập trung tạm thời để sau đó các đơn vị được hải vận về Đà Nẵng. Đà Nẵng sẽ trở thành nơi cố thủ của SĐ 1 BB, SĐ 2 BB, SĐ 3 BB, SĐ TQLC và 4 Liên đoàn BĐQ .
Ngoài các đơn vị kể trên còn có Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cũng được tăng phái cho Quân Đoàn I với điều kiện không được sử dụng để tung vào chiến trận.
Ngày 20 tháng 3/1975, khi vừa đặt chân xuống Đà Nẵng, Trung tướng Trưởng nhận được một công điện “mật khẩn” của Tổng thống Thiệu do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển. Tổng thống Thiệu khuyên Tướng Trưởng tùy nghi ứng phó và làm sao chỉ giữ một mình Đà Nẵng mà thôi vì không thể nào phòng thủ nổi ba thành phố Huế, Đà Nẵng và Chu Lai cùng một lúc được. Đồng thời Lữ đoàn 1 ND được lệnh lên đường về Sài Gòn ngay khuya đêm đó.
Lại một lần nữa, lịnh rút quân đột ngột của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã khiến các đơn vị thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng như của Quân khu I như Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư đoàn 1 bộ binh, các Liên đoàn Biệt Động Quân, Địa Phương Quân – Nghĩa Quân, Thiết Kỵ, Pháo binh v.v…bị thiệt hại trầm trọng về nhân sự cũng như khí cụ, đưa đến tình trạng bất khiển dụng như Quân đoàn II.
Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu Tư lịnh phó Quân đoàn III quân khu III
Ngày 08/4/1975, Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu Tư lịnh phó Quân đoàn III bị ám sát ngay tại văn phòng tư lịnh phó. Và đây cũng là ngày mặt trận Xuân Lộc – Long Khánh bùng nổ và kéo dài đến 20/4/1975. Ngày 10/04/1975, Tướng Nguyễn Văn Hiếu được tổng thống VNCH truy thăng Trung tướng. Cố Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu bị ám sát khi đang chuẩn bị kế hoạch phản công chống đoàn quân Bắc xâm Việt cộng bằng kỵ binh. Cái chết đột ngột không sớm không muộn khi kế hoạch phản công vừa hình thành hay vì một nguyên do nào khác liên quan đến việc điều tra tham nhũng trong quân đội?
Hơn nữa cái chết đột ngột của Tướng Nguyễn Văn Hiếu làm chúng ta liên tưởng đến việc tử nạn trực thăng của Đại tướng Đỗ Cao Trí ngày 23/02/1971, khi ông từ vùng III đáp trực thăng đi vùng I nhậm chức Tư lịnh quân đoàn hầu cứu vãn cuộc hành quân Lam Sơn 719 đang bị sa lầy.
Hai cái chết vào hai thời điểm nêu trên của hai vị Tướng lãnh tài ba lỗi lạc đã khiến nhiều người trong chúng ta phải thắc mắc: Có phải thế lực nào đó trong bóng tối nhất quyết không muốn Đại tướng Đỗ Cao Trí và Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu trở thành cứu tinh của Quân lực và quốc gia Việt Nam Cộng Hòa? Và từ đó đã ra tay hạ sát hai vị Tướng này. Quả tình sự ra đi của hai vị chiến Tướng vừa nêu là một mất mát lớn lao cho tộc Việt.
Trở lại với tình hình chiến sự khi Xuân Lộc là căn cứ quân sự của SĐ18BB do Thiếu tướng Lê Minh Đảo làm tư lịnh bao gồm: Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh và các đơn vị Kỷ Thuật thuộc mọi Binh chủng của QLVNCH. Quân đoàn IV Việt cộng gồm các sư đoàn 6, 7 và 341. Ngoài ra còn tăng cường thêm sư đoàn 325 và Liên đoàn 75 Pháo binh đủ loại.
Trên đường tiến quân về Sài Gòn, quân vc bắt buộc phải đi ngang Xuân Lộc – Long Khánh. Cho nên trận chiến đã diễn ra rất ác liệt giữa quân trú phòng và quân vc ngay từ những giờ phút đầu tiên.
Ngày 12/04/1975 chiến trường Xuân Lộc được tăng cường Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh.
Mũi tiến công để chiếm Sài Gòn của quân vc đã bị khựng lại nơi đây vì gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của tất cả các đơn vị trú phòng. Bộ tư lịnh hành quân của vc bắt buộc phải thay đổi tư lịnh chiến trường, họ đưa Tướng Trần Văn Trà vào thay Tướng Hoàng Cầm và đưa thêm quân tăng viện.
Quân vc dùng “chiến thuật biển người”, “tiền pháo hậu xung” liên tục tấn công và cuối cùng đã tràn ngập tuyến phòng thủ của Chiến đoàn 52 Bộ binh của Đại tá Ngô Kỳ Dũng ngày 15/04/1975. Để chận đứng đà tiến của vc tràn về Sài Gòn và Biên Hòa, Thiếu tướng Lê Minh Đảo đã xin xử dụng bom BLU.82 (Daisy Cutter), một loại bom nổ đặc biệt có sức công phá cực mạnh trong một phạm vi rộng lớn.
Ngày 16/4/75 Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III – Lữ đoàn 3 Kỵ Binh do Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi chỉ huy đã giao tranh dữ dội với vc tại Ngã Ba Dầu Giây.
Qua 12 ngày đêm ác chiến với quân Bắc xâm Việt cộng, Xuân Lộc – Long Khánh vẫn vững vàng trước cơn bảo lửa. Quân đoàn IV vc tham chiến tại mặt trận đã bị thiệt hại nặng nề về sinh mạng, pháo binh, xe tăng, v.v… nên Bộ tư lịnh chiến dịch hồ chí minh đã vội vàng thay đổi kế hoạch tiến chiếm Sài Gòn.
Ngày 20/04/1975, Sư đoàn 18 Bộ binh (QLVNCH) cũng như các đơn vị được lịnh lui binh. Cuộc lui binh đã diễn ra tốt đẹp, với tổn thất của các đơn vị bạn rất giới hạn. Cuộc lui binh này nhằm phòng thủ vòng đai an ninh gần Sài Gòn cũng như phi trường Biên Hòa vì quân vc sau khi không chiếm được Xuân Lộc nên đã rẽ sang con đường khác và theo Quốc lộ 15 tiến vào thủ đô Sài Gòn qua Biên Hòa. Tinh thần của các đơn vị QLVNCH tham chiến còn vững vàng, quân trang, đạn dược còn đầy đủ chứ không thiếu thốn hay bị mất tinh thần mà phải lui binh.
Cùng ngày, Ðại Sứ Mỹ Graham Martin gặp TT Thiệu và yêu cầu ông Thiệu nên từ chức để sớm có thương thuyết với CS bằng chính phủ mới của Dương Văn Minh. Chiều ngày hôm đó thì Phan Rang lọt vào tay Cộng quân và Cộng quân cũng cố tình xua cho dân chúng di tản để làm rối loạn tinh thần dân chúng ở Saigòn.
Ngày 20/04/1975, cũng là ngày phòng tuyến xa của quân đoàn III dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị thất thủ. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang Tư lịnh sư đoàn 6 Không quân bị quân việt cộng bắt trên đường triệt thoái.
Trước khi bị ám sát chết ngày 08/04/1975, Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu được Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đề cử trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, nhưng không hiểu vì lý do gì quyết định này lại thay đổi. Đặt giả thuyết, nếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu được trao trách nhiệm phòng thủ Phan Rang một cách thật sự, có lẽ tình hình chiến sự sẽ có nhiều thay đổi thuận lợi hơn cho QLVNCH và đất nước Việt Nam.
Ngày 21/04/1975, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu từ chức và trao quyền lại cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Mặc dù với số tuổi 71, phó tổng thống Trần Văn Hương đã can đảm đứng ra gánh lấy trọng trách điều hành quốc gia trong cơn bảo lửa.
Từ ngày 1/04/1975 đến ngày 30/04/1975, quân đoàn IV của Thiếu tướng Nguyễn Khoa
Tình hình quân sự ngày 28/04/1975 khi Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa như sau:
- Tại các vùng trong và ngoài của thủ đô Sài Gòn, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn khoảng trên dưới khoảng 60 ngàn binh sĩ đó là chưa kể còn khoảng trên dưới gần 70 ngàn binh sĩ thuộc quân đoàn IV của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, để đối đầu lại với khoảng 280 ngàn quân Bắc xâm Việt cộng.
- Lực lượng quân sự của Quân đoàn IV do Thiếu tướng Nguyễn Khoa
18 Liên đoàn Biệt Động Quân; 5 Thiết đoàn và 17 Chi đoàn Kỵ binh với 493 chiến xa đủ loại; Sư đoàn 4 Không quân đóng ở phi trường Trà Nóc, Cần Thơ với khoảng 100 phi cơ đủ loại; Về bộ binh có các Sư đoàn 7, 9 và 21; Hải quân có 4 Duyên đoàn và 9 Giang đoàn với 600 tàu đủ loại.
Tương quan lực lượng giữa Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và quân Bắc xâm Việt cộng được ghi nhận như sau trong lãnh thổ quân đoàn III:
- Phòng tuyến Bình Dương về hướng Bắc có Sư đoàn 5 Bộ binh đóng ở Lai Khê, bảo vệ Quốc lộ 13 và đối thủ là Sư đoàn 1 Việt cộng.
- Phòng tuyến Biên Hòa về hướng Đông có Sư đoàn 18 Bộ binh của Thiếu tướng Lê Minh Đảo sau khi rút khỏi Xuân Lộc về trấn thủ Long Bình, Biên Hòa; Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi chỉ được lịnh trấn tại Dầu Giây-Hưng Lộc, sau đó là phòng thủ Biên Hòa (chứ không phải Sài Gòn); Lữ đoàn 468 Thủy quân Lục Chiến của Trung Tá Huỳnh Văn Lượm phụ trách đối đầu với các Sư đoàn 2, 304, 325 quân Việt cộng.
- Phòng tuyến Vũng Tàu do Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh phụ trách đối đầu với Sư đoàn 3 sao vàng Việt cộng.
- Phòng tuyến Long An trấn giữ bởi Sư đoàn 22 Bộ binh đối đầu với các Sư đoàn 8, 24 và 6, trừ bị là các Sư đoàn 7, 9 và 3 Việt cộng; Liên đoàn 6 và 8 Biệt Động Quân đối đầu với các Sư đoàn 8, 5, 262 Việt cộng.
- Phòng tuyến Củ Chi do Sư đoàn 25 Bộ binh của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá trấn đóng ở Củ Chi, nơi đây Sư đoàn đã đối đầu với Sư đoàn 50 Việt cộng; Liên đoàn 9 Biệt Động Quân đối đầu với Sư đoàn 232, 27, 71 của Việt cộng.
Ngoài ra, quân đoàn III VNCH còn có 14 Tiểu đoàn Pháo binh với 376 đại pháo đủ loại; 7 Thiết đoàn Kỵ binh với gần 700 chiến xa đủ loại; Sư đoàn 3 Không quân đóng ở Biên Hòa và Sư đoàn 5 Không quân đóng ở Sài Gòn; Hải quân có 4 Hải đoàn Duyên phòng và 6 Giang đoàn với 700 tàu đủ loại; Các đơn vị Địa Phương Quân Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ cũng như Cảnh Sát Quốc Gia và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.
Tuy nhiên qua cách bố phòng, chúng ta có thể nhận thấy một điều, hầu hết các đơn vị lớn và thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ đóng ở vòng đai xa thủ đô Sài Gòn, không có một đơn vị tinh nhuệ nào được lịnh trực tiếp bảo vệ thành phố đông dân này (nếu chúng tôi không nhầm). Sài Gòn đã bị bỏ ngỏ từ trước, nhất là khi phòng tuyến Củ chi của Sư đoàn 25 Bộ binh bị xuyên thủng, quân Bắc xâm Việt cộng đã thâm nhập Sài Gòn một cách dễ dàng.
- Về phía quân Bắc xâm Việt cộng bao gồm các quân đoàn I, II, III , IV tổng cộng 15 sư đoàn bộ binh, ngoài ra còn có 5 Lữ đoàn bộ binh biệt lập, 4 Trung đoàn chiến xa, 6 trung đoàn đặc công.
Kể từ khi quân Bắc xâm Việt cộng phát động cuộc tổng tấn công chiếm thủ đô Sài Gòn ngày 26/04/1975, thì Sư đoàn 25 Bộ binh có căn cứ tại Củ Chi bị thất thủ khi quân đoàn III vc gồm các Sư đoàn 320, 316, 70, 968 tấn công dồn dập, Chuẩn tướng Lý Tòng Bá một Tướng lãnh tài ba lỗi lạc rốt cuộc phải thúc thủ và bị bắt tại mặt trận đêm 29 rạng sáng 30/4/1975 do quyết định sai lầm từ vị Tư lịnh quân đoàn III.
Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ làm tư lịnh đóng ở Lai Khê, tình hình không có gì đặc biệt. Nhưng sáng hôm sau khoảng 10 giờ 30, khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản, Tướng Lê Nguyên Vỹ cho kéo cờ trắng. Sau đó, ông nghiêm trang chào quốc kỳ rồi trở về văn phòng tự sát. Tướng Lê Nguyên Vỹ đền nợ nước đúng ngày 19 tháng 3 năm Ất Mão (Âm Lịch), tức ngày 30 tháng 4 năm 1975 (Dương Lịch).
Chuẩn tướng Trần Quang Khôi Tư lịnh Lực lượng xung kích quân đoàn III
08 giờ sáng ngày 30/4/75, liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị cắt đứt, Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi quyết định họp các chỉ huy trưởng để tham khảo ý kiến. Tất cả cùng quyết định kéo quân về giải vây thủ đô. Đoàn quân giải vây thủ đô gồm:
Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Lô chỉ huy tiến theo Ðường Sắt phía phải về Saigòn.
Lữ Ðoàn 468 Thủy Quân Lục Chiến của Trung Tá Huỳnh Văn Lượm tiến theo phía trái Ðường Sắt
Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Liên Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân tiến theo Xa lộ Biên Hòa về Saigòn.
Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðỗ Ðức Thảo tiến về Cầu Bình Triệu.
Chiến Ðoàn 322 của Trung Tá Nguyễn Văn Liên tiến theo sau Chiến Ðoàn 315.
Chiến Ðoàn 318 của Trung Tá Nguyễn Ðức Dương đi phía sau các đơn vị để yểm trợ.
Tuy nhiên khi các chiến xa của Lữ đoàn 3 Kỵ Binh tiến tới gần nhà thờ Fatima, Bình Triệu, thì Tướng Trần Quang Khôi nghe được lịnh buông súng đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh. Đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975 lúc 10 giờ 25 phút sáng.
Khi lịnh đầu hàng ban hành, vì không chấp nhận đầu hàng kẻ thù, Trung tá Nguyễn Văn Long (Cảnh Sát Quốc Gia) đã tự sát bằng súng lục lúc 11giờ 30 dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến phía trước tòa nhà Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa trong ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Thiếu tướng Lê Văn Hưng
Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Tư lịnh phó quân đoàn IV tự sát vào lúc 20 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Thiếu tướng Phạm Văn Phú
Thiếu tướng Phạm Văn Phú nguyên Tư lịnh quân đoàn II quân khu II tự tử bằng thuốc độc ngày 29/04/1975 và chết vào trưa ngày 30/04/1975 khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng Việt cộng.
Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam tư lịnh Quân Ðoàn IV Quân khu IV, đã quyết định không đầu hàng Việt cộng và tuẫn tiết vào sáng ngày 01 tháng 5 để bảo vệ khí tiết của một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi.
Chuẩn tướng Trần Văn Hai
Chuẩn tướng Trần Văn Hai Tư lịnh Sư đoàn 7 Bộ binh tự sát bằng thuốc độc chiều ngày 30/4/1975.
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn
Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện, chiến đấu đến cùng và bị bắt lúc 11 giờ đêm ngày 1/5/75 khi bộ chỉ huy Tiểu khu thất thủ.
Và còn nhiều, rất nhiều gương trung liệt khác của quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong ngày 30/4/1975 vì không chấp nhận đầu hàng quân Bắc xâm Việt cộng.
Một trang sử đã lật qua !
.
IV. Ý nghĩa và thực tế của Từ Bi, Trí Huệ và Dũng Cảm:
Tới đây là phần chúng tôi trình bày về ý nghĩa Từ Bi đã được hai vị vua và tổng thống Phật tử thực hiện như thế nào trong lúc đất nước đứng trước nạn xâm lăng của Bắc phương.
Ý nghĩa Từ bi nói chung là thương người, giúp đời.
Từ Bi được định nghĩa như sau:
Từ : Năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc (làm tất cả mọi điều cho mọi người vui mừng)
Bi: Năng bạt nhất thiết chúng sanh chi khổ (hay nhổ tất cả mọi sự đau khổ cho mọi người). Đây là quan niệm từ bi chung chung của Phật giáo.
Tiếp theo là quan niệm bi, trí, dũng của Phật giáo Việt nam. Quan niệm này đã được hình thành và tồn tại từ sau thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa bị thất bại năm 43 sau Tây lịch:
Nhân (Từ bi): tình thương mọi loài bao trùm trời đất.
Nguyện (Trí): Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than.
Hạnh (Dũng): Thà chết giữ giới không bỏ Hạnh.
Vị vua Phật tử Trần Nhân Tông của năm 1285, trước thế giặc mạnh mẽ, ngài đã tìm cách phủ dụ, khích lệ, nâng cao tinh thần quân sĩ bằng hai câu thơ:
Cối kê cựu sự quân tu ký
Hoan diễn do tồn thập vạn binh.
nghĩa
Cối kê chuyện cũ cần nên nhớ
Hoan ái vẫn còn mười vạn quân
Quả vậy sau lời nói khích lệ sĩ khí như vậy, tinh thần quân dân Đại Việt lên rất cao, họ đã can đảm chiến đấu không lui bước trước kẻ thù xâm lược (Trí).
Khi chiến sự giữa Đại Việt và Mông-cổ khởi sự, triều đình nhà Trần đã ra nghiêm lịnh cấm đón hàng kẻ thù.
Không ” đón hàng” và với nhà Trần những kẻ đầu hàng, là phản quốc, có lợi cho giặc, là phải bị xử chết như Trần Kiện (Bi – với tinh thần sát nhất miêu cứu vạn thử của Bắc tông Phật giáo). Tuy nhiên sau khi chiến cuộc chấm dứt, để tạo sự đoàn kết trong dân tộc, vua Trần Nhân Tông đã ban lịnh ân xá trong toàn quốc (kể cả những người đã đầu hàng quân Mông-cổ) vào tháng 9 năm Ất Dậu (1285), và đổi niên hiệu là Trùng Hưng năm thứ nhất.
Với tinh thần “phải đánh” của hội nghị Diên-Hồng đã thể hiện chữ Dũng một cách cụ thể và hùng hồn nhất.
.
Tóm tắt tình hình quân sự: Ngày 9/1 năm Ất Dậu (1285) Vua Nhân Tông chỉ huy 100 ngàn binh sĩ chống giặc ở phòng tuyến sông Bình Than, cuộc giao tranh thật dữ dội phòng tuyến này bị thất thủ, và quân Đại Việt lui về lập phòng tuyến mới nơi sông Cái ngày 13/01. Ngày 14/01, quân Đại Việt lập các cứ điểm mới (gồm các sào lũy bằng gỗ) phòng ngự phía Nam sông Cái để chống giặc. Thoát Hoan cùng quan hành tỉnh thân chinh đến phía Đông bờ sông Cái; Trận đánh dữ dội và tiếp diễn đến chiều, Nguyễn Phụng Ngự được sai đi thuyết khách yêu cầu Thoát Hoan rút lui. Thoát Hoan bác bỏ ngay lời đề nghị này. Để bảo toàn lực lượng vua Nhân Tông cùng binh sĩ Đại Việt rút khỏi thành Thăng-Long ngày 14 tháng giêng năm Ất Dậu (1285).
Kế hoạch rút quân của ta từ Bình Than về Thăng Long và từ Thăng Long về Thiên Trường là nhằm bảo toàn lực lượng tránh đi ba mũi tấn công của giặc Nguyên.
Mũi thứ nhất do chính Thoát Hoan và A Lý Hải Nha từ phía Đông Bắc xuống,
Mũi thứ hai là từ Tây Bắc thọc qua do Nạp Tốc Lạt Đinh
Mũi thứ ba từ phương Nam đâm lên do Toa Đô chỉ huy.
Khi quân Mông-cổ bao vây thành Thăng-Long từ nhiều hướng, vua Trần Nhân Tông vẫn sát cánh cùng với quân dân Đại Việt quyết liệt chống quân xâm lăng đến cùng. Nhưng đến lúc nhận thấy tình hình không thể giữ nỗi thành, nhà vua cho lịnh rút lui cấp tốc và tổ chức tiêu thổ kháng chiến trên toàn quốc.
Vua Trần Nhân Tông đã thể hiện một lòng từ bi rộng lớn, một sự dũng cảm phi thường và một trí huệ tuyệt vời khi quyết định chiến đấu đến cùng không chịu thua quân giặc. Do bởi nhà vua biết rằng, nếu đầu hàng kẻ thù, là đất nước và dân tộc sẽ bị thống khổ, nhục nhả vô cùng, văn hóa của cha ông lưu truyền sẽ bị tiêu diệt.
Nhiều lúc giặc truy đuổi gắt gao, tưởng chừng như có thể bắt được hai Vua, và thực tế khó khăn gian khổ trên đường triệt thoái cũng như bôn ba khắp nơi đích thân chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên đã không làm sờn lòng vua Nhân Tông.
Với quyết tâm chiến đấu, vua Trần Nhân Tông đã đưa cuộc kháng nguyên thành công rực rở vào những năm 1285 và 1288. Triều đình Đại Việt thời vua Trần Nhân Tông đã nổi bật với các mặt võ công, quân sự, chính trị, ngoại giao, nội trị, và điều này đã khiến cho triều đình Mông-cổ phải e dè khi muốn cử quân xâm lược.
….
Vị vua (tổng thống) Phật tử Dương Văn Minh của năm 1975. Ông Dương Văn Minh nhậm chức Tổng thống (vua tiếng kêu thời xưa) Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 28/04/1975 và cử ông Vũ Văn Mẫu làm thủ tướng.
Tóm tắt tình hình quân sự: ngày 28/04/1975 khi Dương Văn Minh nhậm chức Tổng thống, lúc đó có khoảng 280 ngàn quân Việt cộng đang bao vây Sài Gòn; Phía Việt Nam Cộng Hòa còn khoảng hơn 100 ngàn binh sĩ, kể cả quân đoàn IV.
Tuy nhiên các cánh quân bao vây chỉ toàn là bộ binh, Việt cộng chưa có khả năng điều động Hải và Không quân. Như thế về mặt đường biển, đường sông vẫn còn là phương tiện khả dĩ để di tản về miền Tây để tiếp tục chiến đấu.
Tình hình chiến trường trong lúc này cũng chưa đáng gọi là hết hy vọng, với quân số của QLVNCH như ghi bên trên. Đồng thời Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tư lịnh vùng IV đã chuẩn bị chu đáo cho việc tử thủ, rút bỏ Sài Gòn trong trường hợp nguy cấp. Kế hoạch tử thủ tuy không thực hiện được như ý, nhưng cả quân đoàn vẫn còn vững tay súng. Cũng như các đơn vị đồn trú chung quanh Sài Gòn vẫn chưa nao núng tinh thần chiến đấu.
Trong cuộc kháng Nguyên năm 1285, kinh thành Thăng-long bị bao vây chặt chẻ tình thế vô cùng nguy khốn hơn cả thủ đô Sài Gòn năm 1975, ấy thế mà quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của vị vua Phật tử Trần Nhân Tông đã chiến đấu dũng mãnh và rút lui khỏi kinh thành một cách an toàn; sau đó tổ chức tổng phản công đuổi hết quân xâm lược ra khỏi đất nước.
Đại tướng Tổng thống Dương Văn Minh nếu hành xử đúng theo quan niệm Từ bi của Phật giáo Việt Nam, ông sẽ kêu gọi quân đội giữ vững tay súng, chiến đấu giữ gìn đất nước đến cùng, nếu không may Sài Gòn thất thủ, lập chánh phủ lưu vong, tiến hành tiêu thổ kháng chiến và rút quân về vùng IV tiếp tục chiến đấu. Cho dù đạn dược có thiếu thốn, nhưng có thể sẽ tìm được một giải pháp chính trị mới, thí dụ quốc tế can thiệp dùng
cầu Bến Lức hoặc Tân An làm ranh giới mới giữa Sài Gòn và vùng IV (lúc đó Sài Gòn đã bị vc chiếm đóng chỉ còn lại vùng IV). Một giải pháp khả thi nếu người lãnh đạo có quyết tâm và yêu nước thật sự.
Trong đáp từ nhậm chức Tổng thống của Đại tướng Dương Văn Minh với Tổng thống Trần Văn Hương có câu:…Tôi nghĩ rằng dùng sức mạnh quân sự không phải là một giải pháp tốt đẹp. Tuy nhiên chúng ta hãy cố gắng bảo vệ phần đất còn lại“.
Ngày 29/04/1975, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu ra lịnh cho người Mỹ phải rời khỏi Việt
Và chập tối ngày 29/04/1975, Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang sau nhiều ngày thuyết phục Tướng Dương Văn Minh rút về vùng IV của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam để tiếp tục chiến đấu, nhưng Tổng thống Dương Văn Minh vẫn không có ý định dứt khoát nên đoàn tàu chờ sẳn ở Bộ Tư lịnh Hải quân phải nhổ neo, chạy dọc theo sông Lòng tàu ra biển.
10 giờ sáng ngày 30/4/1975, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản cũng như triệt tiêu tất cả mọi đề kháng cần thiết của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để bảo vệ phần đất còn lại, như lời ông đã cam kết khi nhậm chức Tổng thống ngày 28/04/1975 đối với vị thầy và cũng là vị tổng thống tiền nhiệm Trần Văn Hương.
.
V. Ý Nghĩa Lịch Sử Của Hai Cuộc Chiến:
Quyết tâm chiến đấu của thời nhà Trần qua… nghiêm lịnh không được đầu hàng kẻ thù, nghiêm lịnh đó nội dung như sau: «Phàm các quận huyện trong nước, hễ có giặc ngoài đến, thì phải liều chết cố đánh; nếu không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, chứ không đón hàng».
Vị vua Phật tử Trần Nhân Tông với lời thề “phải đánh“ của toàn dân trong hội nghị Bình Than và Diên Hồng cũng như sự cương quyết không “đón hàng” quân thù đã đem lại mùa xuân huy hoàng, sáng lạng nhất cho lịch sử dân tộc năm 1285 và năm 1288.
Nhà Trần quan niệm những kẻ đầu hàng là phản quốc. Đồng thời số phận những kẻ đầu hàng quân thù là phải bị xử chết, như trường hợp Thượng vị Chương Hiến Trần Kiện.
Tuy nhiên, sau khi chiến thắng quân thù, chỉ mấy ngày sau vì lòng từ bi vua Nhân Tông đã ra lịnh ân xá người có tội trong cả nước, kể cả những người đầu hàng quân Nguyên. Ngoài ra còn giảm thuế và tạp dịch cho những nơi bị chiến nạn. Thượng hoàng Trần Thánh Tông còn ra lịnh đốt hết tất cả những văn kiện của các nhân vật đầu hàng kẻ thù.
Vị vua Phật tử thứ hai là Dương Văn Minh với quyết định “đầu hàng“ đã đem lại hậu quả khôn lường với mùa đông đen tối, tủi nhục và kinh hoàng cho dân tộc từ năm 1975 cho đến nay.
Chưa hết, với quyết định đầu hàng này là một đòn nặng nề giáng vào nền văn minh của tộc Việt trước sự xâm thực khủng khiếp của đoàn quân Bắc xâm Việt cộng. Hơn nữa đã triệt tiêu hoàn toàn vùng đất dung thân cho các tập thể người Việt quốc gia dân tộc.
Sự xâm thực khủng khiếp này có thể so sánh với thời kỳ Vương triều của Hai Bà Trưng bị bại trước sự tấn công của Mã Viện. Vào lúc đó… “Dưới sự điều khiển của hai chị em bà Trưng, quân Hán đã bị đuổi ra khỏi biên giới. Để trả thù sự thất bại ấy, vua Tàu đã gởi vào năm 43 s.cn nhiều đội quân do tướng Mã Viện chỉ huy để chinh phục lại xứ này. Theo sử chép, một trong những đạo quân đã vượt xuống miền châu thổ Thanh Hóa, dọc theo lưu vực sông Mã, nơi vị trí của làng Đông Sơn. Chắc hẳn lúc ấy làng Đông Sơn đã bị cướp bóc và thiêu hủy. Cuộc chém giết rất ghê tởm. Hàng ngàn người bị giết hay bị bắt làm nô lệ. Một vài lãnh tụ với một nhóm đồng ngũ cũng đã chạy thoát. Biến cố lịch sử ấy đã đánh một đòn rất nặng vào nền văn minh Đông Sơn ở miền Bắc Việt
Trong lịch sử của tộc Việt, có ba lần bị diệt chủng văn hóa quan trọng nhất, khi đất nước bị quân xâm lược Bắc phương chiếm đóng.
Lần thứ nhất, vào năm 43 như trên đã đề cập
Lần thứ hai, vào năm 1407 khi quân Minh đánh bại nhà Hồ. Lúc đó quân Minh xâm lược đã tịch thu tất cả tài liệu, thư khố của Đại Việt mà đem về Kim Lăng cũng như bắt đi những nhân tài nước ta đem về Tầu phục vụ cho chúng.
Lần thứ ba, vào ngày 30/04/1975. Khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng đạo quân Bắc xâm Việt cộng đã tạo điều kiện thuận lợi và mở đầu cho thảm nạn diệt chủng văn hóa lần thứ ba của tộc Việt. Quân Bắc xâm Việt cộng đã tịch thu, tiêu hủy văn hóa dân tộc của Việt Nam Cộng Hòa, còn những nhân tài trong các lãnh vực khác nhau, người bị tù đày, kẻ thì bị thủ tiêu, lớp khác thì bỏ chạy khỏi xứ. Thảm trạng còn kinh khủng hơn thời quân xâm lược nhà Minh chiếm đóng Đại Việt năm 1407.
Tuy rằng, vùng đất dung thân của các lực lượng quốc gia dân tộc đã bị Dương văn Minh triệt tiêu, nhưng tinh thần quốc gia dân tộc đã được di chuyển sang những vùng đất khác ở bên ngoài đất nước Việt Nam. Và sau 35 năm tinh thần này đã thành công và nở rộ trên toàn thế giới qua những hoạt động đa phương của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Từ các lãnh vực văn hóa, giáo dục, kinh tế, chính trị, khoa học, quân sự v.v… đâu đâu cũng đều ghi nhận sự thành công vượt bực của những người Việt Nam yêu nước chống độc tài cộng sản.
.
Sau ngày 30/04/1975, những thảm họa sau đây đã đến với tộc Việt:
- Sau khi chiếm Sài Gòn quân Bắc xâm Việt cộng đã cướp 16 tấn vàng của Việt Nam Cộng Hòa do phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo trao tay. Rồi đổ cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đem đi ngoại quốc.
- Ngày 10/05/1975, quân Bắc xâm Việt cộng tập trung Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa trong chính sách “tập trung cải tạo” thực tế là đi tù. Hàng trăm ngàn người đã bị đày ải trong các trại tù từ Nam chí Bắc; trong số đó có những người đã bị chết trong các trại tù do bịnh tật, do sự trả thù, do sự vượt thoát không thành và bị hạ sát. Con số có thể lên đến hàng ngàn, hàng chục ngàn người bị chết trong các trại tù trá hình từ Nam chí Bắc.
- Ngày 14/08/1975 Đại tá Hồ Ngọc Cẩn tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện bị Việt cộng hành quyết.
- Từ ngày 02/09 đến 27/12/1975, Việt cộng hành quyết 7 sĩ quan và viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa ở trại tù Suối Máu, tỉnh Đồng Nai.
- Ngày 18/09/1975 đổi tiền lần thứ nhất.
- Ngày 10/11/1975 chiến dịch đánh tư sản mại bản lần đầu do Nguyễn Hữu Thọ cầm đầu.
- Ngày 22/12/1975 Việt cộng tiến hành thống nhất hai miền Nam Bắc và chính thức khai tử Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (một bình phong, con cờ trong âm mưu thôn tính miền Nam) bằng cách chỉ xử dụng lá cờ đảng sao vàng làm “quốc kỳ” cho nước Việt Nam thống nhất.
- Từ 02/01 đến 13/08/1976, quân chiếm đóng Việt cộng xử tử hình 17 sĩ quan và viên chức hành chánh VNCH ở trại tù Suối Máu, tỉnh Đồng Nai.
- Ngày 12/02/1976, Việt cộng tấn công nhà thờ Vinh Sơn ở Sài Gòn và giết 3 vị linh mục. Một số thành viên của tổ chức Liên Tôn bị bắt, trong đó có Linh mục Quang Minh.
- Ngày 12/03/1976, Trần Văn Phác, bộ trưởng thông tin Việt cộng ra lịnh tịch thu, tiêu hủy “sách báo đồi trụy, phản động” ở miền Nam Việt Nam. Đây là lần thứ ba đạo quân Bắc xâm diệt chủng văn hóa của tộc Việt.
- Ngày 05/06/1976, Trần Trọng Tân, trưởng ban khoa giáo thành ủy Sài Gòn ra thông báo tổ chức các khóa học chánh trị cho giới văn nghệ sĩ miền Nam, và sau đó là những đợt truy lùng bắt bớ văn nghệ sĩ trên toàn miền Nam.
- Từ khi sài Gòn bị thất thủ, hàng ngàn, hàng vạn người dân Việt đã liều mạng bỏ xứ ra đi. Họ dùng đủ mọi phương tiện, bằng tàu bè, bằng đường bộ để vượt thoát ra khỏi chế độ Cộng sản Việt Nam. Do đó đã đưa đến cao trào vượt biển vào năm 1979. Có những người may mắn đến được bến bờ tự do, rồi được định cư ở một nước thứ ba; nhưng có những người vượt biển khác đã để xác thân lại dưới lòng biển sâu; và có những người phụ nữ Việt Nam bị hải tặc Thái Lan cưỡng bức, rồi hoặc giết, hoặc bắt đi đem bán cho các nhà “tiếp khách” ở Vọng Các. Con số nạn nhân vượt biển tìm tự do lên đến khoảng 1 triệu 500 ngàn người. Và con số người đến được bến bờ tự do, không dưới 3 triệu người, định cư rải rác trên thế giới từ Mỹ sang Âu.
- Ngày 26/12/1978, quân Bắc xâm Việt cộng xua 200 ngàn quân xâm lăng Cao Miên.
- Ngày 17/02/1979, Tầu cộng xua hơn 500 ngàn quân tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam.
Và 35 năm sau…30/04/2010
Tập đoàn An Nam đô hộ phủ ở Hà Nội, đã và đang từng bước hiến dâng đất nước và tộc Việt cho Tầu cộng để đổi lại ủng hộ cho sự tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam. Từ Hoàng Sa, Trường Sa, Bản Giốc, Ải Nam Quan, Núi Đất, Vịnh Bắc Bộ, Bauxit Tây nguyên vào tay quân Tầu cộng mà họ không phải tốn một viên đạn nào.
Cung cách hành xử “từ bi”, “đầu hàng” của Đại tướng Tổng thống Dương Văn Minh đã không đúng nghĩa với Phật giáo. Núi xương, sông máu và lắm oan hồn vất vưỡng đã diễn ra theo quyết định của vị tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa.
Đại tướng Tổng thống Dương Văn Minh đã hành xử theo cách của một người làm việc lâu năm cho đoàn quân Bắc xâm Việt cộng (*).
Động cơ cộng tác với kẻ thù của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc và Đại tướng Tổng thống Dương Văn Minh có điểm tương đồng lớn là bất mãn đối với vị lãnh đạo đất nước, sau đó manh tâm trả thù bằng cách cộng tác với quân xâm lăng. 35 năm sau khi miền Nam thất thủ, lại có thêm Nguyễn Chí Vịnh tiếp nối con đường của Ích Tắc và Văn Minh.
Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem quân lính đầu hàng nhà Nguyên ngày 15 tháng 3 năm Ất Dậu (1285). Trong quyển sử Toàn Thư cho biết con người của Ích Tắc và sự đầu hàng nhà Nguyên của nhân vật này đã có nhân duyên từ trước, phải nói từ đời trước khi Ích Tắc đầu thai làm con vua Thánh Tông. Ích Tắc là hoàng đệ của vua Trần Nhân Tông, so về tài thì Nhân Tông và Ích Tắc không ai thua kém ai, nhưng về mặt đức độ của người con lớn (Nhân Tông) hơn hẳn đứa con thứ (Ích Tắc). Ích Tắc tự phụ nghĩ rằng mình có tài hơn hẳn Nhân Tông tại sao phụ vương (vua Thánh Tông) không truyền ngôi cho mình lại phân biệt trưởng thứ như thế, nên sanh tâm bất mãn và tìm cách hợp tác với quân thù để cướp ngôi báu về cho bản thân mình. Đoàn quân Mông-cổ của Thoát Hoa bị bại trận dưới tay của quân dân nhà Trần, và mộng làm vua của Ích Tắc cũng tan tành theo mây khói.
Kết quả Trần Ích Tắc bị chết già trong sự hỗ thẹn ở đất Tầu.
Khi Dương Văn Minh bắt được Lê Paul (con ruột của Bảy Viển), khai thác lấy tiền và sau đó là vàng, bạc. Lê Paul về sau bị bắn chết với lý do chạy trốn, nhưng ai cũng biết y bị giết để bịt kín nội vụ .
Số tài sản tiền, vàng bạc nầy Dương Văn Minh không trình lên trên mà giữ làm của riêng, bị An ninh quân Đội phát hiện và báo cáo, phúc trình nầy qua tay ông cố Vấn Ngô đình Nhu, mở cuộc điều tra, Dương Văn Minh được mời đến trình bày sự kiện, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để tránh tiếng ” được chim bẻ ná “…và quân tử nên không trách phạt, nhưng không còn tín nhiệm, cho dù có thăng cấp nhưng Dương Văn Minh chỉ giữ các chức vụ “ngồi chơi xơi nước” mà thôi.
Từ đó Tướng Dương Văn Minh bất mãn chính phủ Ngô Đình Diệm nên xoay qua cộng tác với đoàn quân Bắc xâm Việt cộng để tiêu diệt cả hai nền đệ I và đệ II cộng hòa Việt Nam.
Chỉ vì tự ái cá nhân cũng như thù oán cá nhân mà gây nên những cảnh đau thương cho cả dân tộc, bài học ngày trước và hôm nay nó không có sự khác biệt.
Và Dương Văn Minh cũng chết già ở hải ngoại trong sự tránh né gặp mặt với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản.
Số phận của Nguyễn Chí Vịnh cũng sẽ như Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Dương Văn Minh mà thôi.
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai thì
Điều nêu trên cho chúng ta thấy rằng, nếu biết dẹp bỏ tự ái cũng như thù oán cá nhân để một lòng lo lắng cho việc nước, người nào, vị Tướng nào làm được như thế mới xứng đáng cho ngàn đời sau kính trọng.
Cho nên
Trăm năm nước chảy đá mòn
Ngàn năm sử sách lưu truyền không phai
.
IV. Kết Luận:
Cho dù có nói gì đi nữa, mọi chuyện đã xảy ra rồi, không thể nào trở ngược lại được. Tình hình trước mặt của dân tộc Việt Nam vừa phải chống thù trong (tập đoàn An nam đô hộ phủ ở Hà Nội) và giặc ngoài (Tầu cộng phương Bắc), việc phải làm trước tiên là nhận định rõ ràng kẻ thù của dân tộc sau đó mới có thể tìm cách để đối phó.
Kế đó, tùy theo khả năng, phương tiện, vị trí của mỗi người, hãy kiên trì, bền bĩ, cũng như xử dụng trí tuệ sâu xa đấu tranh từng bước để đẩy thù trong và xua giặc ngoài ra khỏi đất nước Việt Nam.
Điều quan trọng làm thế nào hội tụ được nội lực tiềm tàng của dân tộc để chống quân Tầu cộng xâm lược. Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản, cũng như những người Việt Nam có tinh thần dân tộc ở nội địa đã có lập trường dứt khoát chống Việt cộng bán nước và Tầu cộng xâm lăng.
Riêng đối với những đảng viên cộng sản Việt Nam nào còn tinh thần yêu nước thương dân thật sự hãy mạnh dạn kiến nghị lên trung ương đảng cộng sản để thực thi những điều sau đây:
1/ Hủy bỏ điều 4 hiến pháp về việc độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam.
2/ Ân xá tất cả tù chính trị và bất đồng chính kiến.
3/ Tiến hành tự do ngôn luận, tự do internet, và tự do lập hội.
4/ Trao trả linh quyền cho người chết và nhân quyền cho người sống như Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang đã đề nghị cách đây nhiều năm.
5/ Bỏ hẳn hình tượng của hồ chí minh, không cần phải xưng tụng y nữa, vì con người này là gián điệp Tầu cộng trà trộn vào trong đảng cộng sản Việt Nam để tiến hành cuộc chiến tiêu diệt tộc Việt.
Nếu quý vị (đảng viên cộng sản) nào thấy khó khăn trong việc kiến nghị đối với trung ương đảng, thì hãy tự động thực hiện việc đó nơi địa phương cai quản của mình.
Làm được những điều trên thì sự kêu gọi hóa giải hay hòa giải không còn cần thiết nữa.
Hãy can đảm như Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng “Thà làm ma nước
Và sớm thức tỉnh trước khi quá muộn.
Điểm sau cùng, xin mượn trang giấy này để trung chuyển lời thề “phải đánh” cùng kiên quyết không “đón hàng” kẻ thù của quân dân Đại Việt thời nhà Trần đến mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước còn quan tâm đến vận mệnh dân tộc, và chúng ta hãy cùng nhau một lần nữa
Đoạt sáu chương dương độ
Cầm hồ hàm tử quan
Thái bình tu vĩnh lực
Vạn cổ thử giang sơn
Trúc Lâm Lê An Bình biên khảo, kỷ niệm lần thứ 35 ngày quốc tang, quốc hận của tộc Việt 30/4/1975 – 30/4/2010.
© Trúc Lâm Lê An Bình
-------------------------------------
Thư mục:
- 55 Ngày và 55 Đêm – Chính Đạo, xuất bản năm 1999 Hoa Kỳ.
- Đời Chiến Binh – Gia đình 81 BCDLLĐB, xuất bản tại Hoa Kỳ.
- Sáng 30/4/1975 Những Đơn Vị Nào Tiến Về Giải Cứu Thủ Ðô
- Những Ngày Cuối Cùng Của Việt
- Cuộc phản công chớp nhoáng của Liên Đoàn 3 Kỵ Binh ở Đức Huệ – Chuẩn tướng Trần Quang Khôi.
- Chiến dịch hồ chí minh – vi.wikipedia.
- Tháng ba gãy súng – Cao Xuân Huy.
- Hồi kí 25 Năm Khói Lửa – Thiếu tướng Lý Tòng Bá.
- Nam Việt-Nam 1954-1975 Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới – Hoàng Lạc Hà Mai Việt, xuất bản ở Hoa Kỳ tháng 4 năm 1990.
- Việt Sử Toàn Thư – Đại tá Phạm Văn Sơn.
- Chiến Tranh Việt
- Thiên tài Quân Sự Trần Nhân Tông – Trúc Lâm Lê An Bình biên khảo.
(*) Tiểu sử Dương Văn Minh, tài liệu mật của Việt cộng, được đăng tải trên các trang take2tango.com, haingoaiphiemdan.com…
.
Thân thế và gia đình Ông Dương Văn Minh
Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Thọ Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm)
Ông Dương Văn Huề (gốc Hoa) và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gáị Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là Thiếu tướng Quân đội nhân dân VN. Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là Đại tá Quân đội VNCH .
Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.
- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp.
Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “VNCH”.
Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè một chiến sĩ điệp báo là thiếu tá quân đội VNCH bị tình nghi hoạt động cho “VC” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết cán bộ của ta bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…
- Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30.4.1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dàỵ Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập lại cho quen”.
Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Saigon đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ VN lo rồi”.
Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.
+ Quá trình binh địch vận đối với Tướng Dương Văn Minh
Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1959, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (
1. Ban binh vận Trung Ương Cục miền
Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam) Ông Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động Trung tá Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Trung tá Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty.
Cuối tháng 12.1960, Trung tá Mười Ty lên đường.
Tháng 8.1960, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội VNCH và em thứ tám là Dương Thu Vân.
Thấy tình hình thuận lợi, Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.
Ngày 01.01.1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ TT Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng VNCH lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.
Sau cuộc đảo chính TT Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này, nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.
Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:
+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người VN có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông chạ Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình.
Nhờ quyết định của Tướng Minh, Quân đội cách mạng đã giải phóng 1/3 lãnh thổ VNCH.
+ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.
Tháng 1.1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.
+ Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền
- Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, và gây bất mãn cho các tướng lãnh quân đội VNCH . 30. 01.1964, Tướng Nguyễn Khánh tiến hành chỉnh lý lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa VN bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay CS”.
Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, ( Nhóm Phật giáo của Thượng toạ Thích Trí Quang) nhưng khó điều khiển nên yêu cầu Chính quyền VNCH phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA.
Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp.
Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi chị Dương Thu Vân qua
Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được Tổng bí thư Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, TBT Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…”
Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.
Tháng 3 và 4.1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.
Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28.4.1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Saigon gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Saigon “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.
2. Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”
Tháng 9.1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Saigon – Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc…).
Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền TT Nguyễn Văn Thiệu.
Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).
Ngày 01.3 và cuối tháng 3.1975, Chiến sĩ điệp báo Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các chiến sĩ Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
3. Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh
Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ VNCH. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28.4.1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường Triệu Đà, Saigon, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Saigon. Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.
4. Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị
Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7.1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.
Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí QuốcHương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba. Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6.1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02.1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh[1]. Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.
-Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4.1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế TT Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.”
5. Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân
Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức Nhóm 3 thành phần DVM, đòi thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ, cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Saigon ngày 10.10.1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20.4.1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh… đòi TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.
Sau khi TT Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị phong trào 3 thành phần do Tướng Minh lãnh đạo Saigon đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. TT Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, mãi đến ngày 26.4.1975, lưỡng viện quốc hội đã bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống VN Cộng hòa với 147.151 phiếu.
Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30.4.1975, tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi Tàu can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay CS Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Tàu”.
+ Tướng Dương Văn Minh với 3 ngày làm tổng thống
15 giờ chiều ngày 28.4.1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.
Về Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ trưởng. (Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).
17 giờ ngày 28.4.1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).
Đêm 28.4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).
Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh
+ Ngày 29.4.1975
Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi VN trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở VN.
Đến 16 giờ chiều ngày 29.4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái).
Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29.4.1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.
Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn chính phủ cách mạng lâm thời về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho bên trong biết “Saigon không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29.4.1975).
Từ chiều và tối ngày 29.4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngỏ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”[2].
+ Ngày 30.4.1975
- 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã di tan ) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn).
Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.
- 9 giờ, Tổng thống Dương Van Minh đọc vào máy ghi âm.
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.
- 9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam VN để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.
Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.
Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”.
- 11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập tối ngày 2.5.1975
+ Kết luận
1. Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, giác ngộ cách mạng. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước
2. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với Miển Bắc vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29.4.1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..
3. Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực vào Saigon – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30.4.1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội VNCH .
Hy vọng ban biên tập Take2tango đăng giùm vì sự thật lịch sử cần tôn trọng. Đã đến lúc chúng ta cần biết tại sao có ngày oan nghiệt, nếu chúng ta không nói rõ, chúng ta có tội với dân tộc VN.
Trân trọng
Nguyễn Hùng Kiệt
.
Cung cách làm việc của Tướng Dương Văn Minh:
Vấn đề chính là những gì ông Dương Văn Minh đã làm trong suốt thời gian phục vụ cho Việt Nam Cộng Hòa .
Theo Cựu Đại Tá Thẩm Phán Lê nguyên Phu với tác phẩm “Trong bóng tối Lịch Sử” thì Dương Văn Minh là một con người TÀN ÁC, DÃ MAN, PHẢN PHÚC, NHIỀU THÚ TÍNH và THAM NHŨNG. (từ trang 431 đến 438 dưới đề mục ; DƯƠNG VĂN MINH thiên cổ tội nhân số 1).
- Tàn ác, dã man, phản phúc, nhiều thú tính : Sự sát hại TT. Ngô đình Diệm và Ngô đình Nhu, Ngô đình Cẫn (Phản phúc, đuổi tận, giết tuyệt ), cách loại trừ Đại Tá Hồ tấn Quyền, Lê quang Tung, Lê quang Triệu… một cách hung hản và tàn khốc .
- Tham nhũng: Đặc biệt nhất là vụ “Kho tàng của Bảy Viển ở Rừng Sát” tịch thu chiến lợi phẩm của Bình Xuyên :
+ Theo Đại Tá Nguyễn hữu Duệ (Kho tàng của Bảy Viển ở Rừng Sát – từ trang 213 đến 226) trên chục triệu ( thời điểm 1955-1956 ) toàn giấy 500$ đựng trong ” 2 sac marin ” đầy ắp, no tròn .
+ Theo Huỳnh văn Lang ”Nhân chứng Một Chế Độ” dưới đề mục “Ai lấy 2 thùng “fut” vàng, bạc của Bình Xuyên (từ trang 57 đến 70). Dương Văn Minh bắt được Lê Paul (con ruột của Bảy Viển), khai thác lấy tiền và sau đó là vàng, bạc. Lê Paul về sau bị bắn chết với lý do chạy trốn, nhưng ai cũng biết y bị giết để bịt kín nội vụ .
Số tài sản tiền, vàng bạc nầy Dương Văn Minh không trình lên trên mà giữ làm của riêng, bị An ninh quân Đội phát hiện và báo cáo, phúc trình nầy qua tay ông cố Vấn Ngô đình Nhu, mở cuộc điều tra, Dương Văn Minh được mời đến trình bày sự kiện, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để tránh tiếng ” được chim bẻ ná “…và quân tử nên không trách phạt, nhưng không còn tín nhiệm, từ đó dù có thăng cấp nhưng Dương Văn Minh chỉ giữ các chức vụ “ngồi chơi xơi nước” mà thôi .
+ Theo hai ông Hoàng Lạc và Hà Mai Việt trong quyển ” Nam Việt nam.1954 – 1975 ” trang 249, 2 ngày sau 1/11/1963 Dương Văn Minh lập tức ra lệnh xuất 8 triệu công quỹ xài riêng, và theo Trần văn Đôn trong quyển “Việt nam Nhân Chứng, trang 341, chỉ trong 3 tháng làm Quốc Trưởng, DVM đã chi “mật phí” không giấy tờ chừng minh là 80 triệu.
Số tiền DVM kiếm được đi đâu : giao cho 1 thương gia tên Đoàn Thuận, Giám Đốc hãng dệt Viatexco dẫn con trai y qua Pháp tạo dựng cơ ngơi …. (ngưng trích).
Trên đây chỉ là phần nhỏ những “hoạt động”của Tướng Dương văn Minh chứ chưa đề cập gì đến hành vi chính trị của ông ta, lợi, hại như thế nào với đất nước, dân tộc, mong rằng sẽ trình bày trong 1 dịp khác .
Xung Ho
.
.
.
No comments:
Post a Comment