Hà Nội che giấu sự xung đột trên Biển Đông?
Trung Điền
Cập nhật ngày: 20/05/2010
http://viettan.org/spip.php?article9824
Ngày 11 tháng 5 vừa qua, nhân khai mạc Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN lần thứ 4 nhóm họp tại Hà Nội, Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng quốc phòng và cả tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng quốc phòng Cộng sản Việt Nam đã phủ nhận tin tức liên quan đến những “xung đột gần đây giữa hải quân Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc” trên biển Đông. Theo bản tin của DPA thì Tướng Thanh cho rằng mối quan hệ giữa Cộng sản Việt
Trong khi đó, Nguyễn Chí Vịnh, một nhân vật thân Trung Quốc và đang nổi lên trong Bộ quốc phòng, thì bác bỏ xác suất có thể xảy ra cuộc xung đột võ trang trên Biển vì cho là sẽ bất lợi cho mọi phía. Đối với những ngư dân Quảng Ngãi bị bắt giữ, Nguyễn Chí Vịnh cho rằng “vì rất khó để phân biệt ranh giới rõ ràng khi đánh bắt cá ở vùng biển Đông nên mới xảy ra vụ tàu ngư dân bị Trung Quốc bắt”. Phát biểu vừa kể của những người đứng đầu bộ máy quân đội là ông Thanh lẫn ông Vịnh, cho thấy là Cộng sản Việt Nam đã không những phủ nhận những “xung đột” gần đây mà còn cố tình đổ cho “các thế lực thù địch bên ngoài” dựng ra những xung đột để kích động hai bên.
Theo tin tức của Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế (International Institute for Strategic Studies – IISS) có văn phòng tại
Lý do Hà Nội phải cho rút khẩn cấp 60 chiếc tàu đang bao vây tàu Ngư Chính 311 là vì Cộng sản Việt Nam nghe tin có một đoàn tàu 10 chiếc thuộc hạm đội Đông Hải của Trung Quốc, trong đó có các tàu khu trục lớn, và hai tàu ngầm tấn công loại Kilo, đi qua eo biển Miyako vào ngày 10 tháng 4 để xuống phía Biển Đông. Mục tiêu của Trung Quốc khi đưa đoàn tàu của Hạm Đội Đông Hải tức tốc đến Biển Đông ngay sau khi đoàn tàu thứ nhất vừa mới trở về vào cuối tháng 3 năm 2010, là nhằm nhắn gởi Hà Nội lời cảnh cáo: không được “giỡn mặt” bao vây tàu Ngư Chính 311. Nếu tiếp tục bao vây thì đoàn tàu chiến Trung Quốc sẽ đến Trường Sa để giải vây tàu Ngư Chính 311, và có thể tấn công một số căn cứ của Cộng sản Việt Nam trên Trường Sa như Trung Quốc đã từng tấn công và chiếm đóng quần đảo Mischief Reef của Phi Luật Tân vào năm 1994, khi hải quân Phi bắt giữ 55 ngư dân Trung Quốc trên vùng biển của đảo này.
Vì Cộng sản Việt Nam ra lệnh chấm dứt bao vây tàu Ngư Chính 311 nên cuộc “xung đột” đã không xảy ra, và đoàn tàu chiến của Trung Quốc ngừng lại ở phía Nam Đài Loan để “tập trận” tại đó. Mười ngày sau khi xảy ra cuộc “xung đột” hụt này, tướng Phùng Quang Thanh dẫn một phái đoàn quân sự sang thăm Bắc Kinh từ ngày 21 đến 28 tháng 4. Phái đoàn viếng thăm rất hùng hậu, gồm đại diện Bộ tư lệnh hải quân, Bộ tư lệnh biên phòng, Bộ tư lệnh phòng không và các Bộ tư lệnh Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3. Phùng Quang Thanh được Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc đón tiếp và sau đó đưa đi gặp Tập Cận Bình, Phó chủ tịch Trung Quốc (người có nhiều tiềm năng thay Hồ Cẩm Đào vào năm 2012) và Từ Tài Hậu, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc.
Tờ Quân đội Nhân dân Cộng sản Việt Nam tường thuật về chuyến đi của Phùng Quang Thanh là cơ hội để hai bên "cùng nhau bàn bạc các giải pháp về quản lý, bảo vệ biên giới; tăng cường tuần tra liên hợp giữa hải quân hai nước, tiến tới phối hợp diễn tập tìm kiếm cứu nạn, rà phá thủy lôi, chống cướp biển...". Riêng Phùng Quang Thanh thì nói với ông Lương Quang Liệt rằng “mối quan hệ Việt-Trung là quan hệ song phương quan trọng nhất hiện nay”.
Trong lúc phái đoàn Phùng Quang Thanh đang có mặt tại Bắc Kinh thì một phái đoàn khác của Cộng sản Việt
Qua những diễn biến của các sự kiện nói trên, thái độ của Trung Quốc vẫn ngang nhiên coi Biển Đông là sân sau của họ, như họ đã từng tuyên bố chủ quyền 80% diện tích Biển Đông trong đạo luật công bố vào năm 1992. Đương nhiên Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia đều không ai công nhận chủ trương này của Trung Quốc. Nhưng riêng Cộng sản Việt Nam thì đã không nhất quán trong hành xử về chủ quyền trên Biển Đông, nên người dân Việt Nam, đặc biệt là những ngư dân miền Trung, đã phải hứng chịu nhiều nghiệt ngã trong những năm vừa qua.
Thứ nhất là từ lâu nay, Cộng sản Việt Nam đã không dám lên tiếng chống lại các hành động bá quyền trên Biển Đông, thậm chí còn ra tay đàn áp và khống chế những ai dám kêu gọi chống lại Trung Quốc. Chính vì sự im lặng này mà Bắc Kinh coi như Hà Nội đã đồng tình với chủ trương của Bắc Kinh đưa ra vào năm 1992.
Thứ hai là do những áp lực chống đối trong nội bộ đảng và dư luận gần đây, Hà Nội phải bắt đầu lên tiếng chỉ trích những hành động ngang ngược của Bắc Kinh đối với ngư dân, nhưng hoàn toàn không có một hành động nào để bảo vệ ngư dân hay bảo vệ chủ quyền như Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương đã quyết liệt chống trả, khiến cho các tàu Hải quân Trung Quốc không dám đến gần vùng biển của các nước này.
Thứ ba là một bộ phận hải quân Cộng sản Việt
Cộng sản Việt
Trung Điền
20/5/2010
.
.
.
No comments:
Post a Comment