Sunday, March 15, 2009

TỪ THỰC DÂN ĐỄN CỘNG SẢN (Phần V) 2

Từ Thực-dân Ðến Cộng-sản
Hoàng-văn-Chí

From Colonialism To Communism
Một Kinh-nghiệm Lịch-sử Của Việt-nam


Bản dịch của Mạc-Định
http://www.vietvungvinh.com/Portal.asp?goto=VietNam/2008/20080603_05.htm

PHẦN 5


CẢI CÁCH RUỘNG ÐẤT

"Muốn chữa một tình trạng bất công thì vượt qua giới-hạn của công-bằng".
Mao-Trạch-Ðông
(Báo-cáo về vụ Nông-dân bạo động tại Hồ-Nam)

Chương 15

CẢI-CÁCH RUỘNG-ÐẤT ÐÍCH THỰC

Mặc dù mức tàn-bạo đã quá sức tưởng tượng, chiến-dịch Giảm Tô chỉ mới là màn khai mào, tương đối ôn hòa đối với chiến-dịch kế-tiếp mệnh danh là Cải-cách Ruộng-đất đích-thực. Như đã nói ở trên, Giảm Tô chỉ nhầm thanh toán một thiểu số địa-chủ, những người giầu nhất, và theo quan-điểm mác-xít, cũng là phản-động nhất. Tiêu-diệt bọn "đầu sỏ" này chỉ là một hành-động "sơ khởi" mở đường cho một cuộc quét sạch, tại nông-thôn, mọi tiềm-lực chống-đối chính-sách mà Ðảng sắp ban hành : tập-thể-hóa nông-nghiệp và thiết lập nền vô-sản chuyên chính.
Cả hai chiến-dịch đều thực-hiện theo chính-sách "vết dầu loang". Ở làng nào cũng vậy, vào khoảng một năm sau chiến-dịch Giảm Tô, thì đến chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất. Sở dĩ có một năm xả hơi là vì cần phải chỉnh-đốn lại làng mạc, cả về kinh-tế lẫn về hành-chính. Trong suốt mấy tháng Giảm-Tô, nông-dân đã mất quá nhiều thì giờ đi họp hành, biểu-tình, đấu-tố nên sao lãng công việc đồng áng. Thực vậy, làng nào mới qua chiến-dịch Giảm Tô cũng tương tự như mới qua một trận bão, ràu dậu đổ nát, nhà cửa siêu vẹo chó, lợn và cả trâu bò đi lang thang không người chăn giắt. Bị thất đởm trong chiến-dịch vừa qua, không mấy ai có bụng dạ làm ăn. Ðã bao đời, họ chịu khó đầu tắt mặt tối để mong có ngày "mát mặt" và bóp chắt để có ít nhiều để lại cho con cháu. Nhưng nay, bỗng nhiên họ nhận thấy hễ có của ăn của để hơn người là đắc tội, nên họ như rời rã chân tay không muốn làm lụng làm gì cho vừa tốn sức vừa nguy hại đến bản thân. Ðể đả phá thái-độ uể oải của nông-dân, Ðảng bèn đề ra chính-sách "Thi đua xã-hội chủ-nghĩa" ; nhưng cải tạo tư tưởng cho nông-dân không phải là việc dễ dàng, một sớm một chiều mà thực-hiện được. Ít nhất cũng phải một năm Ðảng mới làm cho nông-dân hiểu rằng dưới chế-độ mới họ còn phải cặm cụi nhiều hơn trước. Ðảng đốc thúc nông dân sửa nhà sửa cửa, đào kênh đắp đường, chống lụt, chống hạn, cứ liên miên như vậy cho đến ngày họ cảm thấy nếp sống tập-thể đã thay thế cho nếp sống riêng rẽ và từ nay họ chỉ cần tuân theo chỉ thị của Nông-hội, không cần có sáng kiến cá-nhân. Năm xả hơi cũng là năm cải-tổ lại ủy ban hành-chính và chi-bộ xã vì cả hai đều đã bị giải-tán lúc chiến-dịch Giảm-Tô mới bắt đầu. Tất cả các cán-bộ và đảng-viên cũ, dù trước kia có tích-cực và có thành-tích bằng mấy cũng bị gạt ra ngoài, nếu họ có ít nhiều liên quan với giai-cấp địa-chủ. Lần này ủy-ban và chi-bộ gồm toàn bần-cố nông đã có thành-tích trong cuộc đấu-tranh vừa qua, dù có mù chữ cũng không sao. Vì điều kiện kết-nạp vào Tổ Ðảng mới phải là không có mảy may liên-hệ với địa-chủ, nên đa-số đảng-viên cũ bị bỏ rơi và những phần tử được kết nạp phần lớn đều là cốt cán và những người đã "đấu hăng" trong chiến-dịch vừa qua. Vì có phân biệt "mới" "cũ" nên tất nhiên có xung-đột giữa hai loại đảngvi ên, và kết quả là các "đảng-viên mới" có quyền bính trong tay và nhân dịp chiến-dịch Cải-cách Ruộngđất, quy hầu hết các "đảng-viên cũ" là địa-chủ và bắt tống-giam. Vô số đảng-viên cũ bị quy là địa-chủ việt-gian phản-động cường-hào gian ác và bị xử bắn, con số những người còn bị giam, chưa kịp mang ra bắn, và được thoát chết nhân dịp sửa sai lên tới 12 ngàn người (con số do báo Nhân Dân công nhận).
Những người này tuy nhiên Sửa Sai mà thoát chết, nhưng khi được tha về cũng đã mất cửa, mất nhà, có khi mất cả vợ. Chúng tôi sẽ trở lại vấn-đề này trong Chương 16, khi bàn về chiến-dịch Sửa Sai. Một câu hỏi cần được đặt ra là : Tại sao các đảng-viên cũ còn đang được kính-nể trong chiến-dịch thứ nhất lại bị bạc-đãi trong chiến-dịch thứ hai ? Việc Ðảng trở mặt đối với họ hình như có những lý do như sau :

1. Cải-Cách Ruộng-đất là một cuộc thanh-trừng đại-quy-mô, trong toàn-quốc, thực-hiện ngay trong hàng ngũ Ðảng. Các đảng-viên cũng phải thanh-trừng như "quần chúng" không Ðảng, và Ðảng đã ủy-thác cho bần cố nông thực hiện cuộc thanh-trừng này. Sở dĩ kỳ trước đảng-viên được yên thân và kỳ này đảng-viên mới bị là tại Ðảng có một chiến-lược đặc-biệt : quần-chúng trước, đảng-viên sau : bẻ đũa không bẻ cả nắm.
2. Hầu hết các đảng-viên cũ đều thuộc thành-phần phú-nông địa-chủ, nên đến lúc Ðảng cần "vô-sản hóa" hàng ngũ, họ bị loại trừ và quy là địa-chủ thì cũng chẳng có gì là lạ.
3. Sở dỉ có sự xung-đột giữa đảng-viên cũ và đảng viên mới là tại trong mười năm đảng-viên cũ cầm quyền ở nông thôn họ đã trở thành một giai-cấp mới. Họ nói họ có lập trường vô-sản nhưng thực sự thì họ vẫn kỳ-thị vô-sản miệng vẫn nói "Anh chị em nông-dân" nhưng trong thâm tâm vẫn coi bần cố nông là "dân ngu khu đen". Có thể nói rằng hình phạt họ phải chịu trong chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất chỉ là hậu quả của thái-độ hống hách của họ trong mười năm qua (1945-55).
4. Vì trong chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất, Ðảng đã ấn-định cho mỗi xã một con số tối thiểu địa-chủ bị tù đày và bị tử-hình cao quá mức, năm lần nhiều hơn trong chiến dịch Giảm Tô, nên nếu lần này đảng-viên cũ vẫn được ngoại lệ thì không kiếm đâu cho đủ số người mang đi xử tử hoặc cho vào tù. Vì những lý do kể trên nên thế tất phải xảy ra cuộc xung đột giữa hai loại đảng-viên, giữa đảng-viên cũ mà đa số thuộc thành-phần phú-nông địa-chủ, gia nhập Ðảng không phải vì quyền lợi giai-cấp mà chỉ vì bị hấp-dẫn bởi lý thuyết mác-xít hoặc tham vọng nào khác, và những đảng-viên mới gồm bần cố nông và một số bất lương du-đảng. Bọn đảng-viên mới này không có tham vọng gì hơn là lôi tuột tất cả mọi thành-phần xã-hội xuống ngang mức với mình.

Sự xung-đột giữa mới và cũ cũng là điều mà Ðảng muốn vì Ðảng quan-niệm có xung-đột, thanh-trừng mới hữu-hiệu, mới có điều kiện để chuyển từ thế "phản đế" sang thế "phản phong". Chứng cớ là mặc dù vô số đảng-viên kỳ cựu bị tù đày hoặc hành quyết mà Ðảng không hề can-thiệp. Mãi đến khi chiến-dịch kết-thúc, ông Võ-nguyên-Giáp mới thay mặt Ðảng, tuyên bố việc chém giết tràn lan là một việc đại sai lầm.
Cũng in hệt Giảm Tô, Cải-cách Ruộng-đất cũng bắt đầu bằng một cuộc quy-định thành-phần, lần nầy là quy định lại, . rồi đến đấu tố và sau đó là xử án và xử bắn. Thủ-đoạn reo rắc khủng-khiếp cũng in hệt chiến dịch trước, chỉ khác ở một điểm là lần này số nạn nhân đông hơn gấp bội. Mỗi xã tối thiểu phải xử tử năm mạng. Số người tự vẫn có phần tăng nhiều hơn vì lẽ những người mới bị "vạch mặt" (phát-hiện là địa-chủ) không chịu nỗi nhục vì trước đây một năm, họ còn "tố hăng" những người bị quy là địa-chủ trong chiến-dịch trước. Số người chết đói vì "cô lập" cũng tăng nhiều hơn vì những phú-nông hoặc trung-nông mới lên chức địa-chủ không có đủ điều-kiện tinh-thần và vật-chất để sống qua thời kỳ cô lập bằng các địa-chủ chính cống. Về tâm-lý, các địa-chủ chính-cống đã chuẩn-bị tinh-thần để chịu "búa rìu" của thời đại. Về vật-chất họ cũng có nhiều thuận lợi. Nhiều gia-đình địa-chủ có con cái kèm theo nghề khác mà theo luật Cải-cách Ruộng-đất không đụng chạm tới, như công-nghệ hoặc buôn bán. Họ lại còn có bà con, bạn bè làm cán-bộ bí mật giúp đỡ. Trái lại, những địa-chủ mới, trước kia là phú-nông, trung-nông, đều là những người chỉ biết trồng cây cuốc đất và suốt đời không ra khỏi làng. Sở dĩ họ "có đủ bát ăn" hơn người khác là chỉ tại họ suốt đời thực-hiện phương-châm "làm rốn ăn ít". Ngày nay, bỗng dưng bị quy là địa-chủ, họ không có chỗ sở cậy nên không tránh khỏi chết đói trong thời gian cô lập.
Về truất-hữu tài sản thì hai chiến dịch chỉ khác nhau ở một điểm : Trong chiến-dịch Giảm Tô tịch-thu tài-sản chỉ là một hình phạt của tòa án nên chỉ có địa-chủ "đầu xỏ" mới bị tịch-thu hoặc một phần, hoặc toàn bộ tài-sản. Trong Cải-cách Ruộng-đất, toàn bộ tài-sản của tất cả mọi địa-chủ đều bị trưng thu nghĩa là xung công mà không được trả tiền, trên thực-tế, không khác tịch-thu gì hết.

Trưng thu tài-sản

Trong chiến-dịch đầu, chỉ có địa-chủ "đầu xỏ" mới bị xử án và bị tòa tuyên-án tịch-thu một phần hoặc toàn bộ tài-sản. Ðấy là một hình-phạt để trị tội những địa-chủ việt gian phản động. Nhưng địa-chủ không bị ra tòa, hoặc có ra tòa nhưng tòa không tuyên án tịch-thu tài-sản thì vẫn giữ quyền sở-hữu nhà cửa ruộng nương của mình. Nhưng đấy chỉ là trên lý-thuyết. Thực tế thì ngay từ hồi mới phát-động chiến-dịch, tất cả đồ đạc trong nhà họ đã bị ghi vào biên-bản. Họ không được phép bán bất cứ thứ gì, dù nhỏ nhặt nhất, và hễ mất mát hoặc hư hỏng, họ sẽ phải chịu trách-nhiệm. Từ ngày ấy trở đi, một thửa vườn của địa-chủ chẳng hạn, vẫn là tài-sản hợp-pháp của địa-chủ nhưng trái cây trong vườn đã bị coi là của "nhân-dân" rồi. Có nhiều địa-chủ bị đánh đập thậm tệ cũng chỉ vì, như ông A-dam và bà Ê-va, họ không cưỡng lại được sự cám dỗ của những "trái cấm" trước mắt họ. Biện-pháp phi-lý nà cũng áp-dụng cho cả lúa ruộng. Trên lý-thuyết, ruộng vẫn còn là của tư hữu của địa-chủ, nhưng tá-điền phải nộp cho Nông-hội. Tình-trạng rắc rối này kéo dài trong một năm cho đến phát-động chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất, chính-quyền mới tuyên bố tịch-thu, trưng mua tất cả ruộng-đất "thừa" của địa-chủ. Theo một đạo-luật (Sắc-lệnh số 197 SL, ban hành ngày 19 tháng 12 năm 1953. Chương 2, Ðiều 4) thì chỉ có ruộng-đất, trâu bò và nông cụ thừa mới bị xung công, còn tất cả mọi thứ khác đều không đụng đến. Nhưng trên thực-tế thì địa-chủ và gia-đình bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Cũng theo sắclệnh này, có ba loại truất hữu khác nhau :
1. Tịch-thu ruộng-đất và tài-sản của "thực-dân, đế-quốc và việt gian phản động". Ðối với thực-dân đế-quốc thì tịch-thu toàn bộ, còn đối với việt-gian phản-động thì tịch thu nhiều ít tùy theo tội trạng.
2. Trưng dụng phần tài-sản của việt-gian phản-động còn lại, sau khi đã tịch-thu một phần. Trưng dụng cũng là lấy không trả tiền, chỉ khác tịch-thu ở chỗ không cần phải đưa ra tòa.
3. Trưng mua tài sản của những địa-chủ không phản-động. Theo sắc-lệnh thì trưng mua nghĩa là truất hữu có bồi-thường. Người bị truất hữu sẽ được trả bằng quốc-trái. Giá ruộng ấn-định bằng số một năm hoa lợi và chính-phủ hứa sau mười năm sẽ trả, và chịu lãi cho người bị truất hữu mỗi năm 1 phân rưỡi. Chính-phủ tỏ vẻ rất sòng-phẳng và pháp-luật rất minh bạch, nhưng trên thực tế thì chẳng địa-chủ nào được "trưng mua" cả vì một lẽ rất giản dị : không có địa-chủ không phản-động. Vì vậy nên biện-pháp trưng mua chỉ có trên giấy tờ. Trên thực-tế, tất cả tài-sản của mọi địa-chủ đều bị trưng-thu, nếu không bị tịch-thu.
Mãi đến chiến-dịch Sửa Sai mới có một số địa-chủ được tha khỏi tù, được hạ xuống làm "địa-chủ thường" hoặc "địa-chủ kháng-chiến" có khi xuống thành trung nông và ngay cả bần-nông. Họ được hoàn lại tài-sản, nhưng thực-sự thì họ chỉ được lấy lại một phần ruộng nương và nhà cửa. Nói là nhà cửa, nhưng chỉ còn mái nhà và mấy hàng cột, vì trước khi giao trả cho họ và dọn đi nơi khác, những bần cố nông được phép chiếm cứ nhà cửa của họ đã tháo cánh cửa và vách ván làm củi đun. Cây cối trong vườn cũng bị chặt mang đi bán và trâu bò cũng bị đánh què làm thịt. Ðồ đạc phân chia cho bần cố nông thì bần cố nông đã bán đi bán lại qua tay nhiều người không còn tìm thấy tung tích. Có thể có một số "nhân sĩ tiến bộ" như ông Phan-Kế-Toại và ông Hồ-Ðắc-Ðiềm được trưng mưa tài-sản và được giao-tờ quốc trái bồi-thường, nhưng tới nay đã đủ 10 năm mà chưa nghe nói . hoặc đăng trên báo chí Hà Nội . là đã có ai được lĩnh tiền bồi-thường cùng với số lãi 15 phần trăm trong 10 năm. Có điều chắc là nếu chính-quyền Bắc Việt làm ngơ thì chẳng có ai to gan dám mở miệng đòi, vì nếu đòi tiền bồi-thường ruộng-đất tức là còn "óc địa-chủ" ; và như vậy tất nhiên không đáng được chức "nhân sĩ tiến bộ" hoặc bất cứ thành-phần nào khác ngoài thành-phần địa-chủ. Như thông cảm lẫn nhau, cả Ðảng lẫn người mất ruộng đều làm ngơ Sắc lệnh số 197 SL, không đả động gì đến cả vốn lẫn lãi.
Như vậy là trên thực-tế cả ba hình-thức truất hữu : tịch-thu, trưng-thu và trưng-mua đều giống hệt nhau. Không kể những ông "nhân sĩ tiến bộ" chỉ mất ruộng không, nhưng được yên trên Việt Bắc còn mọi loại địa-chủ đều bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng và vài mảnh áo rách. Cũng như mọi hành-vi khác của Ðảng, việc truất hữu tài-sản của địa-chủ cũng được cử-hành với hình thức rất uy nghi. Sau đây là một bài báo tả cảnh buổi tịch-thu tài-sản đăng trong báo Cứu Quốc sồ 2741, ngày 1 tháng 1 năm 1956 :
Nông-dân thôn Thượng rùng rùng kéo đến nhà tên Phong (địa-chủ). Cờ phơi phới. Tiếng trống thiếu-nhi rồn rập. Những tiếng hô khẩu-hiệu "Ðả đảo" và "Hoan hô" không ngớt.
Giữa sân lù lù một đống cày cuốc, ô-doa, liềm hái, thúng mủng cho tới nồi ba mươi, nồi mười, mâm đồng, chậu thau... hàng dẫy. Quanh sân những cây hải-đường, cây mẫu-đơn rực rỡ. Ðồng-chí cốt-cán gọi vợ tên Phong ra.1 Ðồng-chí nhân danh Nông-hội tuyên-bố tịch-thu toàn bộ tài sản của nó.
Tiếng đấu-tranh của nông-dân mỗi lúc càng gay gắt, như không thể chấm dứt. Quanh đó đồng-bào đứng hàng trong, hàng ngoài. Ðồng-chí cốt-cán tuyên-bố, vạch rõ cho con mẹ địa chủ thấy đời nó, đời cha, đời ông nó không lao-động, chuyên bóc lột, chiếm đoạt, mới có những của này.
Của này là của nông-dân... Con mẹ địa-chủ mặt tái mét. Cả người nó run run. Ðồng-chí rõng rạc tuyên-bố xóa bỏ hẳn tất cả quyền chiếm-hữu gồm 24 mẫu ruộng và toàn-bộ tài-sản của nó. Tiếng vỗ tay ran lên "Hồ Chủ-tịch muôn năm !", "Hoan-nghênh chính-sách tịch-thu, trưng-thu, trưng mua của Ðảng và của Chính-phủ !"
Hàng đoàn thanh-niên nam nữ quẩy những gánh thóc từ nhà ngang qua sân. Hai con trâu cũng vừa dắt ra. Tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô vang dậy. Bà con thu xếp quẩy đồ đi. Khiêng, vác, gánh lũ lượt. Trống ếch các thiếu-nhi càng ròn rã.

Triển lãm đồ dùng của địa-chủ

Sau lễ tịch-thu, một số vật-dụng riêng của địa-chủ được mang ra triển-lãm trước khi chia cho nông-dân. Ðể làm nổi bật mức-sống "xa hoa" của địa-chủ, đồng thời cũng triển lãm cả vật-dụng của bần cố nông. Một bên phòng triển-lãm bày nào là áo gấm, mũ tây, can, giầy tây, điếu khách, ống nhổ, anbom2 ảnh (trong an-bom nhiều khi có cả ảnh cán-bộ), còn một bên là váy đụp, áo rách, vài chiếc nồi đất để nói lên sự nghèo nàn của nông-dân. Ðôi khi có cả hai mâm cơm. Mâm của địa-chủ thì nào là gà, cá, heo quay, rượu đế, còn mâm cơm của nông-dân thì chỉ có cơm hẩm, cà thâm và một bát tương nặng mùi. Năm 1954, sau khi Cộng-sản tiếp thu Hà-Nội được vài tuần, họ có tổ-chức một cuộc triển-lãm như vậy tại Vườn hoa Hàng Ðậu, ở giữa thủ-đô. Mục-đích tất nhiên là để chứng minh cho dân thành-thị thấy việc đánh đổ giai-cấp địa-chủ là một việc "hợp tình hợp lý", để lôi cuốn họ theo cách mạng vô-sản. Nhưng chẳng bao lâu cuộc triển-lãm bị dẹp ngay vì dư-luận của những người đi xem cho rằng nếu đó là mức sống của địa-chủ nông-thôn (áo gấm đã bạc mầu, mũ tây "phở") thì hãy còn thấp hơn mức sống của một công-nhân Hà-Nội. Sự thực thì bất cứ ở một nước chậm tiến nào cũng có sự khác-biệt rất lớn giữa thành-thị và nông-thôn. Thành-thị đã âu-hóa ít nhiều, còn nông-thôn vẫn ở nguyên tình trạng cổ sơ.

---------------------------------------------------
1 Tên Phong có lẽ bị đi tù, hoặc xử tử rồi.
2 album

---------------------------------------------------
Việtnam đã trải qua chính mười năm chiến-tranh, nên sự chênh-lệch giữa thành-thị và nông-thôn ở Việt-Nam lại càng rõ rệt hơn đâu hết. Các vùng Việt Minh kiểm soát bị cắt đứt liên-lạc với thế-giới bên ngoài, phải chịu bom đạn hàng ngày, còn vùng Pháp kiểm-soát thì đầy ngập hàng-hóa Pháp, hoặc hàng-hóa do Hoa-kỳ viện-trợ. Quân-đội viễn-chinh Pháp cũng tiêu xài nhiều nên mức sống ở Hà-Nội trong thời-kỳ Pháp chiếm đóng cao hơn mức sống ở vùng Việt Minh rất nhiều. Vì thiếu mọi tiện-nghi nên dân-chúng trong vùng kháng-chiến lui dần về nếp sống trung-cổ. Ðịa-chủ trong vùng kháng-chiến, tuy có khá hơn nông dân, nhưng thực quả không có gì khiến dân Hà-Nội phải thèm thuồng. Nhưng mặc dù họ đã bị bần cùng hóa sau chín năm kháng-chiến, địa-chủ vẫn là "giai-cấp bóc-lột", vẫn bị quy là "tay sai của thực-dân" và vẫn bị tịch-thu tất cả những thứ họ hiện có để chia cho nông-dân nghèo hơn.

Phân chia ruộng đất và tài-sản của địa-chủ

Muốn đánh giá đúng mức kết-quả của Cải-cách Ruộng-đất, hai yếu tố cần phải nắm vững. Một là tổng-số ruộng đất bị tịch thu và tổng-số nạn nhân của cuộc tịch-thu, hai là tổng số người được phân phát của tịch-thu và trung bình mỗi người được bao nhiêu. Nhưng việc khó khăn là khó tìm ra mấy con số này. Nhà cầm quyền Bắc-Việt chưa bao giờ công-bố tổng-số địa-chủ bị truất-hữu tài-sản. Có lẽ vì họ sợ nếu họ công-bố con số địa-chủ lên báo-chương thì người đọc sẽ giật mình thấy quá nhiều người đã bị quy là địa-chủ, tỷ lệ những "kẻ thù của nhân-dân" lên quá cao.
Còn về ruộng-đất phân chia cho nông-dân thì không nhất thiết là ruộng-đất của địa-chủ, vì thực ra trong số đó có cả công-điền mà nông-đân vẫn thay phiên cày cấy. Cộng-sản góp cả công-điền lẫn với ruộng-đất truất-hữu của địa-chủ mang chia đều cho nông-dân, và sau này lại gộp lại làm tài-sản tập-thể của hợp-tác-xã. Không có con số nào nói rõ trong số ruộng-đất chia cho nông-dân, bao nhiêu là truất-hữu của địa chủ và bao nhiêu trước kia vốn là công-điền. Tuy nhiên, nên đọc cuốn Xã-thôn Việt-nam do nhà xuất bản Sự Thực ở Hà-Nội xuất bản, chúng ta cũng thấy rõ ở Bắc-kỳ 20 phần trăm tổng số canh điền là ruộng công, và ở Trung-kỳ, tỷ-lệ ruộng công lên đến 25 phần trăm. Ðoạn văn sau đây trích trong cuốn Xã-thôn Việt-nam nói rõ về vấn-đề công-điền :

Ở một vài nơi công-điền chiếm một tỷ-lệ rất cao. Thí dụ ở Xuân-trường (Nam-Ðịnh) 77,5 phần trăm đất đai cày cấy trong huyện là ruộng công. Nhưng ở nơi khác thì tỷ-lệ ruộng công ít hơn : huyện Tiền-Hải (tĩnh Thái-Bình) 59 phần trăm, phủ Khoái-Châu (tỉnh Hưng Yên) 42,5 phần trăm, phủ Lý-Nhân (tỉnh Hà-Nam) 46 phần trăm... Ở Quảng-trị chẳng hạn, công-điền nhiều hơn tư-điền,và ở huyện Triệu-Phong toàn thể ruộng đất trồng trọt đều là công-điền. Ở huyện này, mỗi nông-dân được chia trung bình mỗi người chừng ba mẫu.1
Công-điền ở Việt-Nam có truyền-thống lâu dài và có lẽ di-tích của chế-độ cộng-sản nguyên-thủy. Ngày nay Cộng-sản mang công-điền gộp với ruộng-đất truất-hữu của địa-chủ, chia cho nông-dân để chứng-minh lợi-ích của Cải-cách Ruộng-đất. Thành-thực mà nói thì một nửa lợi-ích đó là của cộng-sản nguyên-thủy để lại ; chỉ có một nửa là của cộng sản mác-xít mà thôi.
Trong cuốn Xã-thôn Việt-nam, tác-giả là Nguyễn-hồng-Phong có công nhận rằng (trang 69) ở Bắc-Kỳ có 240.000 mẫu tây công-điền và ở Trung-kỳ có 200.000 mẫu tây. Vì lãnh thổ Bắc Việt hiện nay gồm có Bắc-kỳ và một phần nửa Trung-kỳ nên chúng ta có thể tạm coi tổng-số công điền thuộc Bắc-việt là 240.000 mẫu tây, cộng với 200.000 mẫu tây chia đôi, tức là 340.000 mẫu tây tất cả.

------------------------------------------------------------------
1 Nguyễn-hồng-phong : Xã Thôn Việt-nam, Hà-Nội, 1959.
------------------------------------------------------------------
Chính-phủ Bắc Việt hình như muốn tránh, không tiết-lộ tổng-số ruộng đất tịch-thu của địa-chủ mà trái lại, chỉ công-bố một vài con số tản mác, ở một số địa-phương. Một phần khác, sau khi đã tịch-thu và chia rồi lại "sửa sai" và trả lại ruộng-đất cho những người bị "quy nhầm là địa-chủ", do đó không thể biết được những con số chính xác về truất hữu ruộng đất của địa-chủ và phân chia cho dân nghèo. Tác giả chỉ thấy một tài-liệu tổng-quát, nhưng quá sơ sài. Ðấy là một bài do một chuyên-viên Nga V. P. Karamichev viết trong tờ EKONIMIKA SEL'KOGO KHOZYAISTVA (Chăn nuôi và kinh-tế Nông-thôn), tập V 1957, trong đó có những con số tổng-kê như sau :
Cải cách Ruộng-đất (ở Bắc Việt) đã tịch-thu 702.000 mẫu tây ruộng đất, 1.846.000 nông cụ, 107.000 gia-súc và 22.000 tấn thực-phẩm. Tất cả đem chia cho 1.500.000 gia-đình công-nhân và bần cố nông.
Ông Karamichev không nói rõ trong 702.000 mẫu tây ruộng đất tịch-thu, có bao nhiêu mẫu là của "thực-dân đế-quốc" tức là đồn-điền chè và cà-phê mà chủ là Pháp kiều đã bỏ hoang từ 1945, và cũng trong số ấy có bao nhiêu công-điền, phải chăng đã có một nửa, tức là 340.000 mẫu tây như chúng ta đã ước lượng ở trên. Tuy nhiên, nếu cứ căn cứ vào những con số của nhà chuyên-viên Nga, chúng ta có thể ước lượng mỗi gia-đình được hưởng vào khoảng 4.000 thước vuông (đất và ruộng), một nông-cụ và 1 phần 13 của một gia-súc. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng dưới đề-mục "nông-cụ" có cả những vật như thúng mủng, nồi-niêu, mâm đồng, chậu thau, v.v... như đã tả trong báo Cứu Quốc số 2741 (đã trích ở trên). Còn "gia-súc" cũng gồm cả chó, mèo, dê, lẫn trâu bò. Một mặt khác, nếu đem con số tổng kê của ông Karamichev so với những con số cục bộ của mỗi vài địa-phương chúng ta thấy những con số của ông Karamichev có vẻ lạc quan hơn nhiều. Tỷ-dụ như theo bản thông-cáo của ủy-ban Cải-cách Ruộng-đất nói về vùng ngoại-ô Hà-Nội là vùng trù phú nhất Bắc Việt thì :
Nông-dân lao-động đã tịch-thu, trưng-thu và trưng mua trong tay giai-cấp địa-chủ 20.482 mẫu (ta) ruộng, 511 trâu bò, 6156 nông cụ các loại, 1.032 nhà cửa và 346.903 cân lương-thực. Nông-dân lao-động đã bắt địa-chủ thoái tô được 155.069 cân thóc và 6.429.950 đồng.1 Tất cả tài sản đó đã chia cho 24,690 gia-đình nông-dân và nhân-dân lao-động gồm có 98.113 nhân-khẩu. Ðổ đồng mỗi cố-nông được 2 sào 9 thước, mỗi bần-nông được 2 sào 8 thước và mỗi trung-nông được 2 Sào 13 thước.
Phân-tích những con số trên đây chúng ta thấy ngoài mảnh đất, mỗi "nhân khẩu" chỉ nhận được 1 phần 17 "nông cụ", 1 phần 95 cái nhà, 1 phần 192 gia-súc, hơn 5 cân thực-phẩm và 65 đồng (Bạc Việt cũ, tương đương với ođ,50 VNCH).

Nếu nghiên cứu kỹ-lưỡng văn-kiện trên, chúng ta có thể đạt tới những kết luận như sau :
1. Theo Sắc-lệnh Cải-cách Ruộng-đất (Mục 2, chương 1 và 2) thì chỉ có "việt-gian phản-động" mới bị tịch-thu nhà-cửa. Như thế ngụ-ý là số 1.032 "nhà cửa" ghi trong bản thông-cáo là của 1.032 "việt-gian phản-động". Mang con số này so với con số 24.690 gia-đình nông-dân và nhân-dân lao-động, ta thấy tỷ-lệ "việt-gian phản-động" lên tới 4 phần trăm dân số ngoại-thành Hà-Nội. Như vậy có nghĩa là toàn thể giai- cấp địa-chủ đã bị quy là việt-gian phản-động và đã bị tịch-thu nhà cửa và cũng có nghĩa là cộng-sản coi 4 phần trăm nhân-dân là "kẻ thù của nhân dân".

---------------------------------------------------------------------------
1 Từ trước tới nay Bắc-việt có tất cả ba thứ tiền. Thời kỳ đầu là "Bạc Tài-chính". Từ 1950 trở đi là "Bạc Ngân hàng" mỗi đồng ăn 100 đồng tài-chính. Cách đây mấy năm, đơn vị chính thức là "Ðồng bạc nặng" mỗi đồng ăn 1000 đồng Ngân hàng. Tiền nói trên là tiền "Ngân-hàng".

-------------------------------------------------------------------------------
2. Nếu ta đem số gia-súc, nông cụ, thực-phẩm cùng với số ruộng đất tịch-thu chia cho số địa-chủ thì trung-bình mỗi địa-chủ chỉ có 7.000 thước vuông đất, nửa con gia-súc, 6 nông cụ, 500 cân thực-phẩm, 6.500 đồng Bạc Việt cũ, tương đương với 50đ VNCH. Như vậy khó mà bảo họ là đại-phú được.
3. Việc trung-nông được 2 sào 13 thước, trong khi cố và bần nông chỉ được 2 sào 9 thước và 2 sào 8 thước (kể ra cũng xuýt-xoát cả) chứng tỏ những danh từ "bần", "cố" và "trung" không có liên-hệ gì trực-tiếp với mức sống vật chất của họ cả. Thực ra cả ba loại này đều nghèo ngang nhau, và đáng lý phải được xếp tất cả vào loại "bần nông", nhưng vì các trung-nông thực-sự đã bị quy là phú nông hoặc địa-chủ cả rồi, nên cũng phải "lấy đại" một số bần-nông để "phong chức" lên trung-nông.
4. Nếu đem tổng số thực-phẩm và tiền thu được chia cho số nhân khẩu thì mỗi nhân khẩu chỉ nhận được 5 cân thực-phẩm (gồm cả lúa lẫn ngô khoai) và 65 đồng Bạc Việt cũ. Cho rằng đổ đồng người lớn và trẻ con mỗi ngày ăn hết 250 gam lương thực thì số tiền và thực-phẩm được chi cũng chỉ đủ nuôi sống họ trong 20 ngày là cùng. Nhưng đó mới chỉ là trên lý thuyết. Thực-tế có hơi khác, vì Nông hội đã xử-dụng một phần lớn "quả thực" (tài-sản tịch thu của địa-chủ) vào việc này nọ, kể cả việc cấp-dưỡng cán-bộ trong sáu tháng và cuộc liên-hoan "mừng thắng lợi chống phong-kiến". Tại một làng mà chúng tôi lưu lại trong thời kỳ "long trời lở đất" này, một bần nông nhận được chừng 2 cân rưỡi lúa, còn một trung-nông được một số tiền vừa đủ để mua một gói thuốc lá nội hóa. Thực vậy, có nhiều người đã bị phê-bình là đã hoang-phí đem cả số "quả thực" mua quà cho con. Ðấy là phần thưởng của sáu tháng trời1 liên-tiếp học-tập, thảo luận, biểu tình, tuần-hành với nửa triệu người thiệt mạng. Kết luận là ngoài 4.000 thước vuông ruộng đất, số "quả thực" mỗi gia-đình nông-dân nhận được thật không đáng kể.

Ruộng-đất ở đồng-bằng Bắc Việt, và nhất là ở ngoại thành Hà-Nội giá rất đắt, và cho mỗi nông-dân bằng ấy ruộng đất quả là một thành-tích. Tất nhiên, người được ruộng rất đỗi vui mừng, nhưng chẳng bao lâu những gì xảy ra sẽ dội cho họ một gáo "nước lạnh". Với số ruộng đất mới được chia, cộng vào số họ vốn có, làm số lợi tức của họ tăng lên, và vì thuế nông-nghiệp tính theo lối lũy-tiến, nên hễ ruộng-đất của họ gấp đôi thì số thuế họ phải đóng có thể lên gấp ba. Một phần khác những ruộng-đất của địa-chủ trước kia bị "bình" một sản-lượng quá cao, với dụng ý là khánh-kiệt giai-cấp địa-chủ cho nhanh, bây giờ đem chia cho dân nghèo, thì dân nghèo . trước kia đã bình con số sản-lượng ấy . bây giờ phải nhận về phần mình. Rút cục họ sẽ phải đóng cho chính-phủ một số thuế nông-nghiệp không kém số tô trước kia đóng cho địa-chủ.2
Vài tháng sau khi chia ruộng, toàn thể ruộng-đất của nông-dân lại bị tập-thể hóa. Họ không còn có ruộng đất riêng, mà phải làm việc đầu tắt mặt tối cho hợp-tác-xã mới lĩnh được mỗi ngày 10 điểm, tức là 1 ký rưỡi gạo. Trong số 20 điểm mà hai vợ chồng nông-dân kiếm được mỗi ngày, họ phải nhượng 2 điểm cho một bà già trong xóm giữ giùm con, và một điểm cho một người khác đi chợ giúp. Chế độ "ăn tiêu bằng điểm" vẫn còn hiện hành và có lẽ sẽ kéo dài cho tới ngày thiết-lập chế-độ công-xã. Như mọi hành-động khác, việc phân phát ruộng đất cho dân nghèo ở Bắc-việt được thực-hiện với rất nhiều nghi-thức : biểu-tình, tuần-hành, diễn-văn, phát-biểu ý-kiến, khẩu-hiệu biểu-ngữ, cờ quạt, trống ếch, v.v... Mỗi nông-dân nhận được một "địa-bạ" và một biển gỗ, ghi rõ tên họ để cắm vào giữa ruộng. Tất nhiên là có sự tranh giành, người tranh thủa nọ người đòi mảnh kia vì tốt xấu, xa gần nhưng chung quy rồi cũng đâu vào đấy, vì được ruộng mà phải đóng thuế ngang với tô thì cũng không ai hào hứng lắm. Nhưng việc phân phát nhà cửa, gia-súc và nhất là đồ đạc của địa-chủ lại là một chuyện khác.

------------------------------------------------------------------
1 Tính thời-gian cả hai chiến dịch, trong 2 năm liên tiếp.
2 Ðã nói ở Chương6
------------------------------------------------------------------
Trong nhiều trường hợp, cán-bộ Ðảng không thể nào làm hài lòng mọi người và tránh những cuộc xung đột "nẩy lửa". Bài sau đây trích ở báo Nhân Dân số 807, ngày 20-5-1956 tường-thuật một cách linh-động một trường-hợp đã xảy ra.

CÁI TỦ ÐỨNG

Cuộc họp chia của đấu-tranh được ở xóm Ð. M. bắt đầu từ sáng sớm đến chiều, rồi lại từ chập tối đến nửa đêm vẫn chưa xong. Ðến giờ ăn, mọi người chạy về ăn vội vàng rồi lại đến họp ngay. Cả trẻ con cũng theo bố mẹ kéo đến nơi, đêm khuya chúng mệt, ngủ la liệt trên mấy tấm phản. Trâu bò, nông cụ, nhà cửa đã chia ổn thỏa rồi, chỉ còn những tài-sản khác là gay go. Của ít người nhiều, việc phát động tư-tưởng lại làm
kém, nên bà con có rất nhiều thắc mắc. Người nào cũng thiếu thốn, cái gì cũng có nhiều người xin, việc bàn bạc cứ giằng co mãi không xong. Gây gỗ nhất là việc chia cái tủ đứng. Bà Trụ và bà Du dều là bần cố nông thiếu thốn như nhau. Bà nào cũng viện hết lý của mình ra yêu cầu được chia cái tủ đứng. Nhưng lý của ai cũng phải cả, nên rốt cuộc chẳng ai nhường ai. Cuối cùng bà Trụ nói :
. Suốt từ đầu hôm đến giờ, tôi đã nói với bà hết nước hết cái mà bà khăng khăng một mực. Thật chưa thấy ai tham như bà.
Bà Du đỏ mặt tía tai :
. Bà bảo tôi tham, thế dễ nhà bà chê của đấy phỏng ? Nhà bà có buồng, có khóa, bà còn muốn cái tủ nữa mới vừa !
Bà Trụ đứng phắt dậy :
. Nói với bà cũng bằng thừa.
Bà Du cũng đứng lên :
. Muốn gì thì muốn, tôi cũng phải được cái tủ ấy. Họp mấy ngày nữa tôi cũng không nhường cho bà.
Nói đoạn hai bà cùng bỏ ra về. Sau buổi đó, cán-bộ họp với cốt-cán thảo-luận kế-hoạch và giao cho cốt-cán đi phát-động tư-tưởng hai bà.
Chị Bảo tìm đến bà Trụ trước. Vừa thấy mặt chị, bà nói chặn :
. Chị đến đả-thông tôi có phải không ? Mấy thì mấy tôi cũng không thông. Nhưng mụ Du thì tôi không nhường.
Chị Bảo cười :
. Làm gì mà bà nóng như lửa thế ? Thì ai đã dám bảo bà nhường ? Nhường nhịn là do thương yêu lẫn nhau, có ai bắt ai phải nhường ai bao giờ ?
Ba Trụ nói :
. Tôi mười mấy năm trời đi ở với con Xoè1 khổ sở với nó biết là bao. Bây giờ của đấu-tranh được nhiều, tôi có dám tranh giành thứ gì đâu ? Chị xem từ hôm qua tôi đã được cái gì chưa ? thấy ai thiếu hơn là tôi nhường ngay. Duy cái tủ này thì tôi nghĩ nhà tôi ở lẻ ngoài đồng, tối lại đi họp luôn, có cái gì để chỉ sợ nhỡ ra mất mát, nên đi họp mà bụng cứ thấp thỏm. Giá được cái tủ, có gì đi đâu thật là yên tâm.
Chị Bảo nói :
. Hôm qua ai cũng nhận thấy bà rất có tinh-thần nhường nhịn, thấy ai thiếu hơn mình, bà vui lòng nhường ngay. Nhưng đến lượt cái tủ này thì quả là gay go. Nhà bà ở lẻ, bà lại đi vắng luôn, kể bà nói cũng phải.
Bà Trụ thấy chị Bảo đồng ý, như cởi tấm lòng :
. Ðấy chị xem, nhà trống huếch trống hoác thế này, có gì mất biết kêu ai ?
Chị Bảo mỉm cười :
. Khốn nỗi của ít người nhiều, giá có hai cái tủ chia cho hai bà thì tốt bao nhiêu. Vì chỉ có một nên mới rầy rà. Bà Du cũng một mực đòi lấy, chẳng hiểu nhà bà ấy thế nào ? Nhà bà Du ở đầu làng, có ba gian nhà rách nát, cửa ngõ chẳng có. Bà Trụ biết vậy, nhưng nói ra sợ chị Bảo so sánh, nên trả lời !
. Hai vợ chồng khỏe như voi, không chịu làm thì đến chết nhà cũng đến thế mà thôi. Tôi nghĩ, đi ở cho nhà con Xòe, hơn chục năm trời, ngày nào cũng thấy nó mở ra khóa vào cái tủ ấy. Lúc nào tôi cũng cầu sao ngày sau được cái tủ như vậy Nay nhờ ơn Ðảng lãnh-đạo, đấu-tranh thắng-lợi mà tôi không được cái tủ ấy thật tôi không vui lòng.
Chị Bảo thủng thỉnh nói chuyện :
. Vẫn hay là bà (đi) ở nhà nó, ngày ngày trông thấy và ao ước cái tủ ấy. Kể bây giờ được thì rất tốt. Nhưng bà nghĩ lại xem : Cái tủ ấy là mồ-hôi nước mắt của nông-dân, còn đâu là của con Xoè ? Nông-dân đòi lại được ruộng-đất, nhà cửa và các tài-sản của bọn địa-chủ cướp đoạt là do đoàn-kết đấu-tranh. Riêng từng người thì đấu tranh làm sao thắng-lợi ? Nếu ai cũng nghĩ mình (đi) ở nhà địa-chủ nào, mình phải được chia của nhà địa-chủ ấy thì còn nói gì là đoàn-kết dấu-tranh và nhường nhịn lẫn nhau ?
... Tối hôm ấy bà Trụ bắn tin cho bà Du biết là bà đồng ý nhường cái tủ.
Chúng tôi trích gần nguyên-văn bài "Cái Tủ Ðứng" đăng trên mặt tờ báo Nhân-Dân vì chúng tôi thấy bài ấy diễn tả một hình ảnh trung thực của một khía cạnh quan trọng của Cải cách Ruộng-đất. Bài báo bộc-lộ một yếu-tố tâm-lý rất thông thường của quần-chúng nông thôn mà cũng là một yếu tố khiến họ ủng-hộ Cộng-sản. Chỉ có Cộng-sản, chủ trương lấy của nhà giầu chia cho nhà nghèo, mới mang lại cho họ niềm hy-vọng sẽ có ngay tức khắc những thứ họ từng mơ ước lâu ngày. Chỉ một cái tủ đứng cũ kỹ chẳng hạn cũng đủ làm cho họ say mê và xả thân tranh-đấu cho cộng-sản.
---------------------------------------------------------
1 Hễ gọi bằng "ông bà" thì là nông-dân. Hễ gọi bằng "thằng" hoặc "con" thì tức là địa-chủ.
----------------------------------------------------------
(còn tiếp)


Chương 16

SỬA SAI

Chương-trình Cải-cách Ruộng-đất vừa thực-hiện xong (năm 1956) và ngay sau khi thiết lập chế-độ vô-sản chuyên-chính ở nông-thôn thì đột nhiên Ðảng Lao-động tuyên-bố là đã phạm nhiều sai lầm nghiêm-trọng trong hai chiến-dịch vừa qua. Ðảng cũng hứa hẹn sẽ sửa chữa những sai lầm mà, theo lời Ðảng đã làm cho "uy tín của Ðảng và đời sống của nhân dân bị tổn-thương rất nặng nề". Vì vậy nên Ðảng phát-động ngay một chiến-dịch "Sửa Sai", bắt đầu bằng việc "tự ý rút lui" của ông Trường-Chinh, tổng-bí-thư Ðảng và ông Hồ-Viết-Thắng, thứ-trưởng phụ-trách Cải-cách Ruộng-đất.
Tạm thời làm phát-ngôn viên cho Ðảng, ông Võ-Nguyên-Giáp đọc trước hội-nghị thứ 10 của Trưng-ương Ðảng một bản kê khai những "sai lầm". Ông Võ-Nguyên-Giáp thú-nhận bảy sai lầm chính như sau : (nguyên văn)
1. Coi nhẹ yêu-cầu toàn diện của nhiệm-vụ cách-mạng, coi nhẹ yêu-cầu mở rộng mặt trận chống phong-kiến và mặt trận dân tộc thống-nhất. Vì vậy mà trong khi thực-hiện nhiệm-vụ phản phong đã coi nhẹ, thậm chí có nơi cán-bộ đã phủ-nhận những thành-tích của cuộc đấu-tranh phản-đế, tách rời Cải cách Ruộng-đất với kháng-chiến và cách-mạng, thậm chí có nơi làm cho đối lập nhau.1
2. Coi nhẹ đoàn-kết với trung nông, không thực-hiện chính-sách liên-hiệp phú nông, thậm chí đả kích phú nông, coi phú nông như địa-chủ.
3. Ðả kích tràn lan, không thi-hành sách-lược phân hóa, không chiếu-cố gia-đình địa-chủ có công với cách-mạng gia-đình địa-chủ có con em đi bộ-đội hoặc làm cán-bộ, không chiếu-cố địa-chủ kháng-chiến và phân-biệt đối đãi con cái địa-chủ.
4. Không chú-trọng đề-phòng lệch-lạc, không nhấn mạnh phải thận-trọng, tránh xử-trí oan những người ngay, do đó mà đi đến mở rộng diện đả-kỉch, đánh địch tràn lan, dùng những biện-pháp trấn áp một cách phổ-biến.
5. Trong khi thực-hiện Cải-cách Ruộng-đất ở nơi có nhiều đồng-bào tôn-giáo thì làm sai chính-sách tôn-trọng tự-do tín-ngưỡng, tự-do thờ cúng của nhân dân.
6. Trong khi thực-hiện chính-sách Cải-cách Ruộng đất ở vùng thiểu-số thì đả-kích quá rộng vào từng lớp trên : không coi trọng, thậm chí xâm-phạm đến phong-tục tập-quán của địa-phương.
7. Trong công-tác chỉnh-đốn tổ-chức (Ðảng) thì không nắm vững tiêu-chuẩn chính-trị, mà lại phạm vào chủ-nghĩa thành-phần. Không chú-trọng phương-châm lấy giáo-dục làm chính mà đơn-thuần dùng biện-pháp tổ-chức : kỹ-luật, xử-trí, giải-tán các tổ-chức, thậm chí dùng phương-pháp truy bức (tra-tấn) để làm công-tác chỉnh đốn...
(Nhân Dân số 970, xuất bản ở Hà-Nội ngày 31/10/1956).

------------------------------------------------------------------
1 Nghĩa là trước kia càng chống Pháp hăng hái bao nhiêu thì bây giờ càng bị khủng bố bấy nhiêu.
-------------------------------------------------------------------
Khi thấy bản thú-nhận sai lầm kể trên và được tin Trường-Chinh và Hồ-viết-Thắng bị "hạ bệ", nhiều quan sát viên ngoại-quốc tin rằng quả có "sai lầm" và thế tất chính-quyền Hà-Nội sẽ thực tình sửa chữa. Có người quan-niệm phong-trào Cải-cách Ruộng-đất của Cộng-sản đã hoàn toàn thất-bại. Sự thực thì khác hẳn vì chiến-dịch Sửa Sai chỉ là một tấn tuồng diễn tiếp sau những tấn tuồng khác. Sửa Sai là một chiến-dịch, một bộ-phận của chương trình Cải-cách Ruộng-đất. Như vậy có nghĩa là định tâm Sửa Sai đã có từ trước khi phát-động phong-trào Cải-cách Ruộng-đất. Các đọc giả chắc còn nhớ, ngay từ đầu, năm 1953, Cộng-sản đã phát-động một chiến-dịch gọi là "Ðấu-tranh Chính-trị" (trình-bày ở Chương 7) để dọn đường cho chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất, nghĩa là để chuyển dần từ một trạng-thái bình-thường đến một trạng-thái khủng-bố. Bây giờ là lúc cộng-sản làm ngược lại. Sau ba năm khủng-khiếp, Cộng-sản muốn bình-thường hóa tình-hình trở lại. Vì vậy nên mới có chiến-dịch Sửa Sai. Tất nhiên là Ðảng sẽ mất ít nhiều uy-tín, nhưng Ðảng cho rằng đấy là một việc không thể tránh được.
Hồi ông Mao và các lý-thuyết gia Trung-cộng vạch ra chiến-thuật Cải-cách Ruộng-đất, họ đã cố-tình khủng-bố quá mức vì họ cho rằng có khủng-bố quá mức mới chắc chắn thành công. Họ dự-tính sẽ làm cho quần-chúng quên sự quá mức đó bằng một phong-trào Sửa Sai. Bằng cớ là ngay từ năm 1926, Mao-Trạch-Ðông đã viết : "Muốn chữa một tình-trạng bất-công thì phải vượt quá mức của sự công bằng"1. Chấp nhận ý kiến của ông Mao, ông Hồ giải thích về chính-sách căn-bản của Cải-cách Ruộng-đất, trong một khóa chỉnh-huấn, như sau : "Nếu muốn uốn thẳng một cái que cong thì phải bẻ nó quá về phía bên kia và giữ như vậy một lúc lâu. Khi buông tay, cái que sẽ từ từ thẳng trở lại".

Cả ông Hồ lẫn ông Mao đều đoán được trước là thế nào dân chúng cũng phản-đối Cải-cách Ruộng-đất theo kiểu của hai ông, vì muốn đề-phòng mọi phản-ứng chống đối nên hai ông đã chủ-trương khủng-bố quá mức. Muốn hiểu tại sao hai ông lại chủ-trương như vậy, chúng ta cần hiểu rõ mục-đích tối hậu, nhưng giấu kín, của Cải-cách Ruộng-đất.

Trước tiên, Cải-cách Ruộng-đất không phải chỉ nhằm tịch thu ruộng-đất của địa-chủ để phân phát cho dân nghèo, vì nếu mục-đích chỉ có vậy thì chính-quyền cộng-sản chỉ việc ký một đạo sắc lệnh là xong. Trước Cải-cách Rưộng-đất đã có rất nhiều địa-chủ tình-nguyện "hiến điền", nhưng chính-phủ từ-chối không nhận, hoặc trong nhiều trường-hợp, đã nhận rồi lại hoàn lại, nói rằng chính-phủ "không muốn một công-dân nào bỗng dưng bị hao hụt lợi-tức thường xuyên của mình". Sự thực thì Cộng-sản muốn bắt địa-chủ cứ ở thành-phần địa-chủ cho đến ngày "đền tội". Cộng-sản không cần và không muốn địa-chủ hiến-điền vì, toàn quyền trong tay, lúc nào Cộng-sản muốn tịch-thu cũng được. Cải-cách Ruộng-đất có những động-cơ thầm kín như sau :

1. Tịch-thu và phân-chia ruộng-đất chỉ là giai-đoạn chuyển-tiếp, mà tập-thể-hóa ruộng-đất mới là mục-đích tối-hậu. Muốn bắt buộc toàn thể nông-dân phải cam chịu số phận, sống dưới chế-độ tập-thể, các lãnh-tụ Cộng-sản thấy cần phải tiêu-diệt tận gốc "tư-tưởng tư-hữu tài-sản" từ mấy ngàn năm đã chôn sâu trong tiềm thức của mọi người, dù là bần cố nông.uốn đạt tới kết-quả, họ áp-dụng câu cách ngôn : "sát nhất nhân, vạn nhân cụ". Áp dụng vào Cải-cách Ruộng-đất, câu cách ngôn trên có thể đổi thành : "Giết một số địa-chủ để không còn một ai muốn sở-hữu ruộng-đất". Chính vì vậy mà cộng-sản ấn-định cho mỗi xã một số tử hình nhất định, ngay cả ở những xã mà toàn thể ruộng-đất là công-điền. Quả nhiên mọi người mất hồn mất vía ngay tức khắc. Hồi ấy nhân dân miền Bắc đặt ngay câu phương ngôn, truyền khẩu từ người nọ sang người kia : Gạo chợ, nước sông, ốm nằm nhà thương, chết chôn nghĩa-địa". Như vậy có nghĩa là những ai khôn hồn thì từ nay tuyệt-đối không nên có của tư-hữu, vì có của tức là mang họa.
------------------------------------------------------

1 Mao-Trạch-Ðông : "Bá-cáo về cuộc Nông-dân bạo-động tại Hồ-Nam" trong Mao-Trạch-Ðông Tuyển-tập, nhà xuấtbảnLawrence and Wishart, Luân-đôn, 1954-56.
-----------------------------------------------------
2. Ðảng bắt nông-dân phải đấu tố và chém giết địa-chủ để làm bàn tay nông-dân phải dính máu. Một khi tay đẫm máu thì không thể rửa sạch và dù muốn dù không chỉ còn một cách là đi với Ðảng cho đến cùng. Vì không thể nào liên-kết với chủ cũ để chống lại chủ mới, người nông-dân đành phải chấp nhận bất cứ số-phận nào mà Ðảng đã dành cho. Sau khi tàn sát một số người lên tới 5 phần trăm dân số Bắc-Việt, người nông-dân miền Bắc có cảm-giác tội lỗi. Cái cảm-giác ấy được Cộng-sản đề cao là "tinh-thần của anh chị em nông-dân làm chủ lấy vận-mệnh của mình".
3. Về phương-diện chính-trị, Cải-cách Ruộng-đất đánh dấu một bước ngoặc từ lập-trường phản-đế sang lập-trường phản-phong, hay nói một cách khác, từ kháng-chiến chống thực dân Pháp sang chém giết địa-chủ người Việt. Vì mục-tiêu đáu tranh đột nhiên thay đổi nên Ðảng thấy cần-thiết phải thanh-trừng tất cả các phần-tử quốc-gia trong hàng-ngũ kháng-chiến, và ngay cả những đảng-viên mà Ðảng nghi ngờ không hoàn toàn chính-thống. Ðảng cho rằng một cuộc thanh-trừng triệt-để không thể nào thực-hiện được bằng cách ủy-thác cho cấp trên nhiệm-vụ chọn lọc và khai trừ cấp dưới. Vì đầu óc bè phái hãy còn ăn sâu nên, nếu dùng phương-pháp kể trên, sẽ có rất nhiều người "lọt lưới". Theo nhận-thức của Ðảng thì thanh-trừng phải thực-hiện từ dưới lên trên, nghĩa là phải bắt đầu từ cấp-xã "phóng tay" cho bần-cố-nông trong xã thanh trừng "phản-động" vì chỉ có người cùng làng mới biết rõ thái-độ chính-trị của mỗi người trong làng, Ðảng nói : "Nhân-dân rất sáng suốt", và trong nhân-dân, "chỉ có bần-cố-nông là đáng tin cậy hơn cả". Lập-luận này đưa thẳng tới chủ-trương "phóng tay phát-động quần-chúng đấu-tranh". Ðảng thừa biết rằng nếu phóng tay thì quần chúng sẽ đấu tố bừa bãi, nhưng suy đi tính lại, Ðảng cho rằng thà bừa bãi một chút mà "tiệt nọc" còn hơn thận-trọng mà kết quả hời hợt. Theo Luật-sư Nguyễn-mạnh-Tường thì nguyên-tắc thiêng-liêng của Cải-cách Ruộng đất là "Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch".

Ðảng biết trước hể "phóng tay" thì thế tất phải có "Sai lầm", nhưng Ðảng vẫn nhắm mắt làm ngơ để mặc cho "sai lầm" tiếp diễn. Hàng vạn người bị giết oan, bị tù đày, hoặc bị bao vây cho cho đến chết đói, mà Ðảng chẳng hề dơ một ngón tay nhỏ cứu vớt lấy một người. Theo luật-pháp nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa thì người bị lên án tử-hình có quyền ký đơn xin Hồ chủ-tịch ân xá, nhưng thực-tế, ông Hồ không hề ân xá lấy một người gọi là, ngay cả những đảng-viên trung-kiên trước khi bị bắn hô to : "Hồ-Chí-Minh muôn năm !" Tháng 3 năm 1936, ông Hồ có ra lệnh tạm đình-chỉ mọi vụ hành-quyết, nhưng đấy là hậu-quả xa xôi của phong-trào "Hạ bệ Stalin phát-xuất từ Moscou, nhân kỳ Ðại-hội lần thứ 20 của Ðảng cộng-sản Liên-xô. Những người may mắn thoát chết, vì bản án xử tử chưa kịp thi hành, và sau này được trả lại tự-do không hề chịu ơn ông Hồ, mà một cách gián-tiếp, họ đã chịu ơn Khrushchev. Muốn thấy rõ Cộng-sản đã chủ-tâm "đả kích tràn lan" chúng ta còn một cách là mang bản thú-nhận sai lầm của Võ-nguyên-Giáp đối chiếu với bản bá-cáo của Trường-Chinh đã nói tới trong Chương 12 của cuốn sách này. Một điểm nổi bật là những điều mà Giáp gọi là "sai lầm" đều là những điểm then chốt Trường-Chinh đã nêu lên và hứa sẽ tôn-trọng trong khi thực-hiện Cải-cách Ruộng-đất. Sự thực thì Ðảng đã hứa hẹn, nhưng Ðảng "quên" không giữ lời hứa, cho đến khi "sai lầm" đã xảy ra rồi, Ðảng mới nhận là "xơ xuất". Theo tỉ-dụ các que của ông Hồ thì Trường-Chinh chính cái tay uốn ngược que, và Giáp là cái tay buông cái que cho nó thẳng trở lại. Sửa sai tức là bình thường hóa lại đời sống, không khác buông tay để cho que đứng thẳng trở lại.

Biện-pháp đầu tiên của Sửa sai là tha hết địa chủ và đảng-viên ra khỏi nhà tù hoặc trại giam. Tổng số những người được tha chưa hề được tiết lộ, nhưng theo lời ông Võ-nguyên-Giáp, trong số người được tha có 12 ngàn đảng-viên. Tất nhiên trong khi bị giam, đảng-viên cộng-sản là những người đau khổ nhất. Ngô-đức-Mậu (cháu nhà cách mệnh Ngô-đức-Kế), một đảng-viên cộng-sản kỳ-cựu đã từng sống nhiều năm trong ngục Lao-Bảo hồi Pháp thuộc, đã tả nỗi đau khổ trong ngục-thất cộng-sản như sau :
...Những lúc bị giam giữ trong buồng riêng cô quạnh, rét mướt, đau khổ, những anh em thường an ủi nhau: củng-cố lòng tin để chịu đựng ngược đãi, củng cố lòng tin để sống... vì ở tù đế-quốc và ở tù hiện nay (cộng-sản) nó khác nhau xa. Ở tù đế quốc bị hành hạ bằng thể xác nhưng tinh thần lành mạnh được an ủi, khoan khoái... Còn ở đây (tù cộng-sản thì sao ? Chúng tôi bị dày xéo cả thể chất lẫn tinh thần. Chung quanh chúng tôi, ai nấy đều cho chúng tôi là địch, là kẻ bán nướchại dân, thì bảo họ đồng tình với chúng tôi sao được...
Cũng trong bài ấy Ngô-đức-Mậu còn than vãn là đã bị chính các đồng-chí cộng-sản của ông tra tấn, không cho ông tự bào chữa : ...Những việc mà một số anh em cán-bộ ở Hà-Tĩnh dựng đứng lên, hoặc lật ngược lại những thành tích đã qua của tôi (từ thời Ðông-Dương Cộng-sản Ðảng) để truy-bức tôi suốt ngày đêm, để buộc tôi phải nhận những việc tôi chưa hề làm, mà cũng chưa bao giờ nghĩ tới... Cuộc truy bức càng ngày càng nặng, nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một cuộc đấu-tranh về nguyên-tắc. Tôi ỳ ra mãi cũng không được. Nhiều ý nghĩ khác (tự tử chẳng hạn) lại nảy nở ra và xoay quanh trong đầu óc tối như chong chóng.
NHÂN DÂN 30 tháng 10, 1956

Ðảng giải-thích cho các tù nhân biết là chỉ vì sai lầm mà không may họ bị vào tù, và Ðảng hứa không bao lâu nữa họ sẽ được trả lại tự do. Tuy nhiên trước khi được ra về, họ phải ở lại nhà tù một tháng để học lớp "Sửa soạn ra về". Dưới sự chỉ dẫn của một đại diện Ðảng, họ phải học-tập, nghiên cứu những vấn-đề phức-tạp như bản thú nhận sai lầm của ông Võ-nguyên-Giáp, bài nói về thái-độ tự-phê- bình của Ðảng, chủ-nghĩa Mác-xít không bao giờ sai và "thái-độ đứng đắn đối với những người đã tố sai". Ðảng hứa sẽ hồi phục công quyền và hoàn lại tất cả tài-sản mà Ðảng đã tịch-thu của họ. Ðảng khuyên họ nên quên những nỗi đau khổ vừa qua, củng cố lại lòng tin nơi Ðảng và tiếp-tục phục-vụ Ðảng một cách trung-thành như đã phục-vụ từ trước. Ðiều cần nhất là tuyệt-đối không được trả thù những người đã vu oan giá họa cho mình.
Các ủy-ban xã được lệnh cử phái-đoàn đến tận nhà tù đón rước những người bị giam và đưa họ về quê quán. Dĩ-nhiên là họ vui mừng khôn xiết khi họ đặt chân tới làng cũ và gặp lại vợ con. Tờ Nhân Dân đã kể trường-hợp của Tân, một trong số những người cùng cảnh-ngộ.
Gia-đình đồng-chí xưa nay là trung-nông. Từ đời ông, đời cha, đến đời đồng-chí (Tân) vẫn cày sâu, cuốc bẫm. Ðồng-chí tham-gia cách-mạng từ những ngày đầu tổng-khởi-nghĩa. Năm 1947, xã đồng-chí bị địch chiếm đóng cũng là năm đồng-chí được rèn luyện, thử thách nhiều và được kết nạp vào Ðảng. Làm bí-thư chi-bộ và chủ-tịch xã, đồng-chí đã lãnh-đạo nhân-dân anh dũng đánh giặc. Bao nhiêu lần xã bị địch càn quét đồng-chí phải nằm hầm nhịn đói, có lần phải bật ra vùng du-kích, nhưng rồi vẫn tìm cách trở về xây dựng lại cơ sở tiếp-tục chiến-đấu cho đến ngày kháng chiến thắng lợi. Sau ngày hòa-bình lập lại, thi hành chỉ-thị của cấp trên, đồng-chí đã chuẩn-bị cho cuộc đấu-tranh chống phong-kiến (Cải-cách Ruộng-đất). Nhưng chẳng những đồng-chí không được tham-gia cuộc đấu-tranh ấy mà trái lại, đã bị quy là địa-chủ cường-hào gian ác phản-động đầu sỏ và bị đánh đổ (đấu-tố) một cách quyết-liệt. Thật là đau xót ! Mỗi lần nghĩ tới không sao nén nổi phẫn uất.
Nhân dịp Sửa Sai, Tân được tha về, và :
Ðồng-chí (Tân) lẩm nhẩm tính : "Ngót tám tháng bị giam cầm, chờ duyệt án tử hình, hơn một tháng được trả tự do". Thấm thoát đã xa nhà chín tháng. Mai về gặp lại vợ con, họ hàng, làng xóm. Ðồng-chí hồi hộp nghĩ tới những phút sẽ được gần lại vợ, gần lại con, những hơi thở, những bàn tay ấm áp... Ðồng-chí chưa lên nhà ông Lễ (anh Tân) vội, lại rẽ vào gian bếp lụp xụp nơi ở của vợ con đồng-chí sau ngày tất cả tài-sản của gia-đình đồng-chí bị tịch-thu. Ðồng-chí phải khom người mới bước được vào trong bếp. Bồ hóng chằng chịt trên nóc, trên vách. Một chiếc chõng ọp-ẹp kê chật cả nửa bếp. Em gái đồng-chí chạy vào, khóc lóc :
- Sung sướng chưa anh ơi ! Trong khi anh đi tù, người ta bắt chị và các cháu phải sống chui sống rúc thế này !
Ðồng chí thấy đau lòng trước cảnh sống khổ cực của vợ con trong những ngày qua. Ðồng-chí cố trấn tĩnh, xua tay bảo em gái, mà chính cũng là nói với lòng mình :
- Khóc lóc, oán hận chẳng có ích gì mà chỉ gây cho mình thêm đau khổ.
Rồi đồng-chí đi ra thẳng lên nhà ông Lễ.
Nhà ông Lễ tối hôm ấy đông vui hơn cả ngày cưới anh Bái, con trai ông... Hết ấm nước này đến ấm nước khác, câu chuyện đi sâu vào tình cảm gia-đình, họ mạc, xóm giềng.
Bà con nhắc lại những chuyện sai lầm trong Cải-cách Ruộng-đất, những chuyện buộc lòng phải đấu, tố nhau, dứt tình dứt nghĩa. Lòng ai nấy xót xa. Không khí nhiều lúc trầm trầm lặng xuống.
NHÂN DÂN, 14 tháng 11, 1956

Sau khi tha địa-chủ "oan" ra khỏi tù thì biện-pháp thứ hai là hoàn lại những tài-sản đã tịch-thu của họ, nếu còn có để hoàn lại. Ðồ đạc bàn ghế thì dĩ-nhiên chẳng còn vì sau khi phân phát cho bần cố nông họ đã bán tống bán táng đi từ đời nào rồi. Những thức được trả lại phần nhiều chỉ là nhà cửa, vườn tược, nhưng tất cả đều điêu tàn vì những bần cố nông được thụ hưởng không đủ phương-tiện chăm nom. Và như chúng tôi đã kể ở trên, rào rậu và vách gỗ đã bị rỡ làm củi đun, con trâu bò đã bị làm thịt mang ra chợ bán.
Nhưng mặc dầu của cải hoàn lại chẳng còn được là bao, những người được trả lại cũng hết sức hoan hỷ. Ý nghĩ sẽ được trở về nơi chôn rau cắt rốn và sống dưới mái nhà tổ-tiên xây cất cũng đủ làm cho họ vui lòng. Chỉ có những bần cố nông được ở trong nhà của địa-chủ trong mấy năm, bây giờ phải cuốn gói đi chỗ khác mới thật là đau lòng.
thứ ba là trả lại vợ cho những người đã bị "tịch thu" mất vợ. Có trường-hợp người vợ tự ý bỏ vì sợ bị "liên-hệ", hoặc vì hai bên thông-gia đã "tố" nhau nên gây thù oán. Nhưng trường-hợp thông thường là người vợ còn trẻ và duyên dáng, nên một đảng-viên "mới" nào đó ép phải lấy hắn trong khi chồng phải đi tù. Một số đông những phụ-nữ bất hạnh này đã sống với chồng mới tới hai ba năm nên khi chồng cũ tha về thì đã có con với chồng mới, thành ra vấn-đề hoàn lại cho chồng cũ là một vấn-đề nan giải. Vấn-đề này đã được giải-quyết bằng một Thông-tư của Bộ Tư-Pháp ban hành ngày 19 tháng 4 năm 1957. Vì bản Thông-tư này quả là "vô tiền khoáng hậu" và nói lên sự nghiêm-trọng của tình-trạng lúc bấy giờ nên chúng tôi xin cứ nguyên văn lai cảo để cho các bạn đọc có dịp nhàn lãm.


BỘ-TƯ-PHÁP VIỆT-NAM DÂN-CHỦ CỘNG-HÒA
Ðộc-lập . Tự-do . Hạnh-phúc

THÔNG-TƯ VỀ VIỆC GlẢI-QUYẾT NHỮNG VỤ
VỢ CHỒNG BỎ NHAU TRONG GIẢM TÔ
VÀ CẢI-CÁCH RUỘNG-ÐẤT

Gần đây trong Giảm Tô, Cải-cách Ruộng-đất có những việc vợ chồng bỏ nhau do những nguyên nhân chính như sau đây :
Bản thân hoặc gia-đình một bên lên thành phần, hoặc bị kích lên thành phần hay bị quy sai là phản động.
Có sự đấu tố giữa vợ chồng, đấu tố bà con gia-đình của nhau.
Những trường hợp bỏ nhau vì liên quan, vì đấu tố, v.v... xẩy ra ở nhiều nơi đã phần nào làm thương tổn đến đoàn kết nông thôn. Vấn-đề này là do sai lầm chung trong Giảm Tô và Cải-cách Ruộng-đất. Vì vậy, cần quan niệm rằng việc giải quyết loại việc này là một công tác nằm trong công tác sửa sai chung. Vì vậy Bộ đề ra chủ trương như sau :
a) Ðối với vợ chồng bỏ nhau đã có con hoặc chưa có con, nhưng vợ chưa lấy chồng khác, chồng chưa lấy vợ khác, thì phương châm là kiên trì giải quyết tư tưởng cho hai bên thông cảm nhau là do sai lầm chung mà vợ chồng bỏ nhau, vậy nên về đoàn tụ với nhau như cũ, nhất là khi hai bên đã có con còn bé.
b) Ðối với những vợ chồng bỏ nhau mà một bên đã lấy người khác rồi, có hai trường hợp :
Nếu vợ đã đi lấy chồng mới mà chưa có con, nay vợ muốn trở về với chồng cũ và chồng cũ muốn đoàn tụ thì cho đoàn tụ và giải quyết cho người chồng mới thông. Nếu người vợ một mực ở với chồng mới dù chưa có con với người này thì nên giải thích cho người chồng cũ thỏa thuận ly hôn với người vợ.1 Trường hợp người vợ đã có con với chồng cũ, nhất là khi con còn bé thì cẩn thận trong việc cho ly hôn. Trường hợp chồng đã lấy vợ mới, có con hay chưa có con, nay muốn về với vợ cũ nhưng vợ cũ không muốn trở lại thì cần cho ly dị ; trường hợp vợ cũ còn muốn trở lại với chồng thì nên căn cứ vào tình cảm của ba người đối với nhau và tùy tập quán địa-phương mà giải quyết cho ổn thỏa.2 c) Trường hợp hai bên đều lấy vợ lấy chồng khác rồi thì nên cho họ ly hôn để họ chính thức lập gia-đình mới.

-------------------------------------------------------------------
1 Nên chú ý, Bộ Tư-Pháp còn tỏ ý thiên vị đối với chồng mới.
2 Ðiều này có nghĩa là nếu không phải là công-giáo thì cho phép lấy hai vợ.
-------------------------------------------------------------------
d) Trường hợp đa thê, nhân vì đầu tố mà vợ lẽ bỏ chồng thì nói chung nên giải quyết cho ly hôn, nhưng có trường hợp vì sinh kế, vì con cái hay vì tình cảm, người vợ lẽ muốn đoàn tụ thì giải quyết cho đoàn tụ.Hà-Nội, ngày 19 tháng 4, năm 1956

K. T. Bộ-Truởng Bộ Tư-Pháp
Thứ-Truởng TRẦN-CÔNG-TƯỜNG
(Trích Hà-Nội Hàng Ngày, ngày 16 tháng 6, 1957)

Chính quyền Cộng-sản không hề công-bố con số những cặp vợ chồng bị chia rẽ vì Cải-cách Ruộng-đất nhưng việc cần thiết phải giải-quyết vấn đề bằng một thông-tư đặc biệt của Bộ Tư-Pháp cũng đủ cho ta thấy tầm quan trọng của vấn-đề và ước-đoán một con số khá lớn lao. Bản Thông-tư không nói đến trường hợp những người vợ góa, vì chồng bị xử tử, và sau đó bị cán-bộ ức-hiếp phải lấy, cũng không nói tới trường hợp con gái địa-chủ bị ép lấy bần cố nông, vì đối với Ðảng, đấy chẳng phải là một sai lầm. Một điều đáng chú ý là trong mấy năm liền, Ðảng không hề chú ý tới sự đau khổ và nhục nhã mà những phụ nữ kể trên phải chịu đựng. Nó chứng tỏ thái-độ thực-sự của Cộng-sản đối với phụ-nữ và vạch trần sự giả dối trong những lời tuyên-bố đường mật của Cộng-sản về vấn-đề phụ-nữ. In hệt ruộng-đất, nhà cửa, đồ đạc phụ-nữ cũng chỉ là một thứ tài-sản mà Ðảng tự cho mình quyền phân phối theo ý muốn.
Các lãnh-tụ Ðảng yên trí rằng bấy nhiêu biện pháp phóng thích khỏi trại giam, hồi-phục danh-dự những đảng viên bị giết oan, trả lại tài sản và vợ bị tịch thu . là đủ xoa dịu lòng uất hận của nhân-dân đối với Ðảng và bình-thường hóa lại đời sống. Ðảng cũng tin tưởng ở thế lực của Ðảng có thể ngăn chặn mọi cuộc chống đối và, một phần khác, Ðảng tin rằng dân-chúng bị khủng-bố nên đã mất hết tinh-thần, không bao giờ dám nổi loạn. Nhưng các lãnh-tụ Cộng-sản không để ý tới mấy yếu-tố khác, đã gây nên mấy cuộc khởi loạn sau này. Trở lại hình ảnh cái que tre, chúng ta có thể nói khi Ðảng thả tay thì que tre bật ngay trở lại với một sức mạnh mà Ðảng không dự tính đúng mức. Nông dân ở nhiều nơi và trí thức ở thủ-đô nổi dậy chống lại chế-độ.

(còn tiếp)




No comments: