Sunday, November 9, 2008

MIỀN BẮC SAU 1954 (Phần 2)

Miền Bắc sau 1954 (Phần 2)
Nguyễn Văn Lục
08-11-2008
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5672
09-11-2008
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5676

Hệ lụy của chính sách Cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở miền Bắc tháng 5, 1955

Bài viết này không nhẳm trình bày đầy đủ về chính sách cải cách ruộng đất, nhưng chỉ đưa ra một vài nhận xét tiêu biểu về sự sai lầm nghiêm trọng của chính sách này về mặt thực tế, pháp lý vv. Tiêu biểu sai lầm nhất của chính sách CCRĐ là đã không tìm ra được kẻ thù đích thực là: Bọn địa chủ.

Ai là địa chủ?

Chính quyền cộng sản lúc bấy giờ chia ra 6 loại địa chủ: Địa chủ phản bội như phục vụ thực dân Pháp, địa chủ phản động tham gia đảng phái như Quốc Dân Đàng, địa chủ gian ác hà hiếp dân lao động, địa chủ kháng chiến có công với kháng chiến, địa chủ thường có từ 3 đến 5 mẫu ta, không giàu và địa chủ khác là các ông đồ nho có chút dư giả. (Trích Nông dân Bắc Việt những năm 1945-1970, Nguyễn Văn Canh, trang 19)

Phân chia ra như vậy, nhưng lúc thi hành thì lại khác.

Nạn nhân đầu tiên: Bà Nguyễn Thị Năm

Ngay đợt đầu cải cách diễn ra ở Thái Nguyên, đã có việc đánh nhầm đối tượng là bà Nguyễn Thị Năm, một địa chủ có đồn điền, có công với kháng chiến, đã từng nuôi đưỡng chứa chấp những người như Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt. Bà lại có hai con trai tham gia kháng chiến từ đầu, có công với kháng chiến trong việc chống Pháp. Thí điếm cải cách ruộng đất đầu tiên, Pilot land reform, diễn ra ở 6 làng thuộc tỉnh Thái Nguyên từ tháng 12, 1953 đến tháng 3, 1954, Bao gồm 10.792 người trong đó có nạn nhân là bà Năm.

Phim tài liệu lưu trữ của Ba Lan
http://www.youtube.com/watch?v=Qf-dWAAJYFo&eurl=http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5672

Trong một Hồi ký rất nên đọc, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên phó thủ tướng, ông Đoàn Duy Thành viết về vụ bắn bà Năm như sau:
“Đánh một địa chủ ủng hộ kháng chiến, một địa chủ hiến ruộng, địa chủ kiêm công thuơng là ba cái sai lầm. Bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam. Sau này được biết, khi chuẩn bị bắn, bác Hồ can thiệp và nói đại ý: Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao? Nhưng cán bộ thừa hành bá cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là:” Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm”

Theo Thành Tín, theo luận điệu của đội CCRĐ là:
“Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối, nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ Cách Mạng để phá hoại. Hồ Chí Minh sau khi nghe Hoàng Quốc Việt chạy về bá cáo vụ bà Nguyễn Thị Năm nói: Không ổn, không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ sung vào một phụ nữ và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính ủy Trung đoàn quân đội nhân dân đang tại chức”.
Thế nhưng sau đó, không có gì động đậy cả, ông Hồ giữ im lặng, không can thiệp. (Trích Mặt Thật, Thành Tín, trang 38-39) Hồ Chí Minh biết việc đấu tố và tử hình bà Năm, nhưng ông đã không can thiệp gì cả. Theo nhà văn Vũ Thư Hiên trả lời một câu hỏi về trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong chính sách này, ông trả lời: “Hồ Chí Minh phải là người trách nhiệm chính vì ông đã ký sắc lệnh Cải Cách ruộng đất, dù người thực hiện là ông Trường Chinh”.

Theo ông Hoàng Tùng xác nhận, vụ án Bà Nguyễn Thị Năm đã được bộ chính trị họp và quyết định. Riêng ông Nguyễn Minh Cần, Phó chủ tịch Hà Nội than:
“Những người đứng đầu chính phủ đã từng được bà che dấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm chủ tịch nước, Tổng Bí Thư. Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy. Phát súng đầu tiên của CCRĐ đó tự nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản. Nó báo trước những tai họa không lường cho dân tộc”. (Trích Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác nửa thế kỷ trước.)

Tổng kết các đợt CCRĐ theo Hồ Việt Thắng

Hồ Việt Thắng là cánh tay mặt của Trường Chinh, được cho đi học ở Trung Cộng về CCRĐ, về phương pháp đấu tố để đem về áp dụng tại Việt Nam. Có tất cả 5 đợt Cải cách và một đợt thí điểm lúc ban đầu ở Thái Nguyên.

Đợt thí điểm tiến hành trong: 6 xã và 10.792 nhân khẩu

Đợt 1: 53 xã và 109.675 nhân khẩu
Đợt 2: 210 xã và 480.563 nhân khẩu
Đợt 3: 466 xã và 1.207.294 nhân khẩu
Đợt 4: 859 xã và 2.564.105 nhân khẩu
Đợt 5: 1732 xã và 6.140.127 nhân khẩu
(Trích Nhận xét về CCRĐ, đợt 5, Hồ Việt Thắng, Talawas,30/09/2005)

Theo bảng tổng kết trên, các đợt CCRĐ đã thực hiện trên 3267 xã trên toàn miền Bắc và ảnh hưởng tới 9.512.556 người. Tức 2/3 dân số miền Bắc. Và theo Hồ Việt Thắng, có hơn 6 triệu nông dân lao động miền Bắc đã thoát khỏi cảnh lầm than, giành lại được ruộng, để vươn mình và đã thật sự làm chủ nông thôn.

Từ nay, quyền chiếm hữu ruộng đất phong kiến bị xóa bỏ vĩnh viễn.

Cũng kể từ nay, mỗi cố nông có 4 sào ruộng, mỗi bần có 4 sào 2 thưóc và mỗi trung nông có 4 sào 12 thước. (Ở miền Nam, mỗi đồng bào di cư ở vùng Cái Sắn được cấp 30000 mét vuông, tương đương 3 mẫu tây)

Và cũng theo Hồ Việt Thắng viết:
“Những bần cố nông trước đây không tấc đất cắm dùi hoặc thiếu ruộng, quanh năm lĩnh canh, cày thuê cuốc mướn, sống lam lũ tối tăm, luôn luôn bị đói rét, nợ nần, roi vọt và chết chóc đe dọa, ngày nay đã nghiễm nhiên trở thành chủ nhân chính đáng của đồng ruộng”.
Kể từ nay, họ bước vào cuộc đời mới.

Những sai lầm trong CCRĐ

Chúng ta không thể căn cứ trên tài liệu chính thức của cộng sản để nêu ra được những sai lầm trong CCRĐ. Chằng hạn, tài liệu của Trường Chinh với nhan đề: Sửa sai và tiến lên. Hay là những bài tham luận viết trên báo Quân Đội Nhân dân: “Chính trong sai lầm mà nhân dân ta càng vĩ đại, đảng ta càng thêm vĩ đại” Hay bài viết của Trung Anh: Suy nghĩ về vấn đề viết về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, báo Văn Nghệ, 16/11/1956, Lại Nguyên Ân biên soạn)

Phải chịu khó lọc để tìm ra được đôi chút sự thật như các bài viết của Trần Huy Liệu: Xét lại Hồ sơ của giai cấp địa chủ. Hay Thư của Đặng Thái Mai gửi Trường Chinh ngày 19/06/1953

Sai lầm thứ nhất: Về diện tích đất đai

Miền Bắc rộng có 63.000 dậm vuông mà đến 2/3 là núi rừng, phần còn lại là miền Trung du và châu thổ sông Hồng Hà mà trên 90% làm nông nghiệp. Có nghĩa là khoảng 13,5 triệu dân làm nghề nông.
Diện tích đất đai miền Bắc là quá hẹp, thế mà trong đó phân nửa thuộc ruộng công thổ và ruộng của giai cấp Trung nông (Trung nông không là đối tượng truy sát của Cải cách ruộng đất) Phân nửa diện tích còn lại, địa chủ chiếm bao nhiêu diện tích đất? Và trung bình mỗi điạ chủ có bao nhiêu mẫu ruộng để bị đưa ra đấu tố?

Tính số ruộng ở miền Bắc được chính người cộng sản phân phối theo tỉ lệ như sau: Thực dân chiếm 1%. Tôn giáo chiếm 1,5%, Công điền, công thổ chiếm 25%, địa chủ chiếm 24.5 %, Phú nông 7.1%, Trung nông chiếm 29%, Bần nông 10%, Cố nông1%, những người khác 0,8%. (Trích Nông dân miền Bắc, Nguyễn Văn Canh, trang 19)

Như thế, cố nông (nghèo, không ruộng, không nhà cửa, đi làm thuê, bị địa chủ bóc lột) và bần nông (khá hơn, có thể có nhà cửa, có vài sào ruộng, nghèo, phải đi cấy rẽ hoặc cấy thuê cho địa chủ) chiếm 61% dân số, nhưng tỉ lệ chiếm hữu đất đai chỉ là 11.1% trong khi đó 5% phú nông (Có từ vài ba mẫu ruộng, có trâu cầy, nhưng mỗi mùa có thể phải thuê mướn vài người đế giúp cấy, gặt) và địa chủ. (Có nhiều ruộng hơn phú nông, không tự làm lấy đuợc, phải thuê người, hay cho thuê ruộng, cho vay tiền hay thóc, sống bằng sức lao động của người khác) thì chiếm 24.5%%.

Số ruộng của phú nông và địa chủ cộng lại mới đạt 31%. Số ruộng còn lại hơn 50% là thuộc đất công điền và Trung nông. (Trung nông là những người có từ 3 mẫu ta trở xuống, tự canh tác lấy và không thuê mướn người nên không không bóc lột ai cả) Số ruộng hơn phân nửa là ruộng công điền và trung nông, có nghĩa diện tích ruộng này không do địa chủ bóc lột.

Số ruộng còn lại do địa chủ nắm giữ là 24%. Nhưng nếu căn cứ vào thành phần địa chủ ác ôn mới là đối tượng bị đấu tố? Vậy thì số ruộng lấy lại từ địa chủ loại ác ôn là bao nhiêu?

Căn cứ theo bảng thống kê của Hồ Việt Thắng thí mỗi bần cố nông nay được làm chủ vỏn vẹn có 4 sào ruộng. 4 sào ruộng này có đủ để nuôi sống một gia đình nông dân không? Có đáng làm cuộc CCRĐ với đấu tố không?

Sai lầm thứ hai: Quá tả khuynh trong việc đánh địa chủ

Ngay từ tháng 3, 1954, Trần Huy Liệu đã viết một bài về: Xét lại “Hồ sơ” của giai cấp địa chủ gửi cho Hoàng Quốc Việt, một nhân vật chủ chốt trong CCRĐ sau Trường Chinh. Trần Huy Liệu cho rằng khác với Trung Quốc, địa chủ của ta đa số là trung và bậc tiểu mà phần đông lại là thành phần yêu nước, vì vậy cần có sách lược đối xử đúng mức.
Thật vậy, ruộng ít mà đa số ruộng thuộc đất công điền và thuộc trung nông. Tự nhiên, ruộng ít thì địa chủ phải ít.

Trong khi đó, các đội cải cách được lệnh truy lùng bọn địa chủ trong các làng phải đạt chỉ tiêu là 5% địa chủ. Không có thì phảì đi “bắt rễ”, phải tự “đi tìm nghèo, hỏi khổ” cho bằng được, phải đôn, phải kích cả những thành phần phú nông đến trung nông và họ trở thành nạn nhân. Ngay cả trường hợp họ đã chết thì vợ con vẫn bị đưa ra xét sử trước tòa án nhân dân và tịch thu tài sản.

Trong Hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh đưa ra cùng nhận xét: “Bắt oan, giết oan hàng vạn người. Mà thật ngu xuẩn. Làm sao địa chủ lại nhiều thế? 5%? Làm sao mà Quốc Dân Đảng lại có ở khắp mọi nơi. Đúng là rập khuôn theo Trung Quốc một cách cực kỳ ngu xuẩn”. (Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 41)

Đó là trường hợp xã Sơn Trung, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây, một xã có chừng 1500 hộ gia đình với 7000 dân. Xã này có 20 gia đình bị quy vào thành phần địa chủ, cường hào, gian ác (tử hình) và 30 gia đình khác bị tù, 1955. 20 gia đình trong số 1500 gia đình thì chưa đủ tiêu chuẩn 5%. Vì thế, sang 1956, các đội được lệnh phải kích một số gia đình phú nông lên thành địa chủ để đạt được 5% địa chủ (Trích Nông Dân Bắc Việt những năm 1945-1970, Nguyễn Văn Canh, trang 44).

Nguyễn Đăng Mạnh. Nguồn: RFI
http://www.dcvonline.net/php/images/112008/ndmanh.jpg

Cũng lại theo hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh:
“Nhưng riêng xã tôi thì tìm mãi không ra thằng nào gian ác đáng xử bắn. Đoàn ủy liền cử người về chấn chỉnh. Tôi nhớ anh cán bộ đoàn tập hợp toàn đội lại ở một chái nhà dân quanh một cáí cối giã gạo. Anh ta xỉ vả chúng tôi một trận thậm tệ:” Không bắn thằng nào thì quần chúng còn bị nó khống chế, đến bao giờ mới ngóc đầu lên được. Lập trường giai cấp để đâu? Hữu khuynh nghiêm trọng. Đảng nuôi cho các anh ăn để ngồi chơi à? Phải kiểm điểm nghiêm khắc, rồi đi sâu, đi sát, tìm thằng đầu xỏ để bắn.Thế là lãnh đạo đội đêm ngày tìm ra thằng đầu xỏ phản động. Họ nghĩ đến một người tên là Cớt, bí thư chi bộ đảng, và gợi ý mớm lời cho cốt cán phát hiện ra những hoạt động của bọn Quốc Dân Đảng đội lốt cộng sản. Lập tức hồ sơ tội trạng của Cớt ngày càng dày lên, và bí thư chi bộ cộng sản thành bí thư chi bộ Quốc dân đảng. Dĩ nhiên là Cớt bị bắt giam và không tránh khỏi sẽ bị xử bắn. Nhưng phúc đời cho Cớt, cuối đợt cải cách có lệnh sửa sai. Các đội được lệnh triệu tập để nghe ông Hoàng Quốc Việt về nói chuyện. Tất cả các tù nhân ở các trại giam được thả ra hết… (Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 41)

Đây là sự bắt chước thô bạo và thiển cậnTrung Cộng. Các địa chủ ở Trung Quốc không phải chỉ có vài chục mẫu ruộng mà có từ vài trăm lên đến vài ngàn mẫu ruộng. Dưới tay họ, có hàng ngàn nông dân làm quần quật, bị bóc lột, bị đối xử như người nô lệ. Đó là một chế độ phong kiến, địa chủ đủ tầm cỡ, đã “chín mùi” để đáng làm một Cuộc Cách mạng Cải cách ruộng đất.

Ông Nguyễn Đăng Mạnh cũng cùng nhận xét như sau:
“Cải cách ruộng đất đúng là một trường hợp điển hình thô bỉ nhất của vụ cưỡng hiếp của Tàu đối với Việt Nam về chính trị và văn hóa.” (Trích Hồi ký của Nguyẽn Đăng Mạnh, trang 42).

Còn ở Miền Nam, một gia đình trung lưu có từ 10 đến 20, 30 chục mẫu ruộng thường tự canh tác, hoặc thuê mướn người quen, người cùng làng hay họ hàng. Họ tương trợ, đùm bọc nhau mà làm, có ơn nghĩa, có tình xóm làng hoặc tình nghĩa họ hàng.

Cái tương quan thuê mướn đó không thể máy móc xếp vào loại tương quan bóc lột được. Đôi khi còn mang ân nghĩa suốt đời không chả được.

Cho nên không thể mang áp đặt chế độ phong kiến, địa chủ bóc lột bên Trung Quốc áp dụng vào Việt Nam được. Chính vì thế, các đội cải cách chẳng những gặp khó khăn trong việc truy lùng địa chủ, nó còn gặp trở ngại là làm thế nào thuyết phục những nạn nhân chịu đứng ra “đấu tố” những người mà họ coi là ân nhân của mình.

Việc đấu tố trở thành màn kịch giả dối,oan uổng, ép buộc vì nhiều người “chưa đủ tiêu chuẩn” là địa chủ, hay chưa xứng đáng là địa chủ. Đấu tố như thế thí phải bịa đặt, khai gian, bịa ra nhiều điều không có thật nên phải chuẩn bị trước, phải học thuộc lòng, phải tập dượt trước.

Những người được cử ra đấu tố nạn nhân, chính họ lại trở thành nạn nhân của một màn lừa bịp trong đó con nuôi, con dâu, chú cháu, vợ lẽ muối mặt tố cáo người thân thuộc bằng những lời chứng bịa đặt.

Và trích dẫn một số nhận định sau đây đủ thấy tính tàn ác của Hồ Chí Minh như thế nào, ông Hồ tuyên bố:”Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, trang 509)

Ông Nguyễn Văn Trấn, đại biểu Quốc Hội Khóa 1 giải thích “phóng tay” của Hồ Chí Minh là cứ làm mạnh thả cửa. Ông Nguyễn Minh Cần giải thích “phóng tay” là: làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thuơng xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ”.

Một nhận xét nữa của Hồ Chí Minh về CCRĐ như sau: Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giẫy lên trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế. (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, trang, 358, Trích lại trong Nguyễn Quang Duy trong bài: Vai trò của Hồ Chí Minh trong cải cách ruộng đất, Talawas 25.1.2007)

Hay ông Hồ so sánh như thế này: Khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tý và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được,” Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng:” Trời ơi, Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và Quốc Hội, Văn Nghệ, USA, 1997)

Phim Chúng tôi muốn sống
http://www.youtube.com/watch?v=Mf9n5KbUOS4&eurl=http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5672

Trong phim: Chúng tôi muốn sống, sau 1954, được chiếu ở miền Nam, đã gây nên những xúc động mạnh mẻ trong dân chúng về cảnh dã man của việc đấu tố ở miền Bắc. Cuốn phim diễn lại cái cảnh tượng gia đình địa chủ Nguyễn Văn Long đã có công ủng hộ kháng chiến, con trai là đại đội trưởng Vinh lập nhiều thành tích chống Pháp. Họ vẫn bị lôi ra đấu tố. Những kẻ bị ép buộc ra đấu tố ông bà Long là anh Cu Tý, chăn trâu, anh con nuôi, chị láng giềng. Ngay cả Lan, người yêu của Vinh cũng buộc ra đấu tố bố mẹ chồng. Kết quả là ông bà Nguyễn Văn Long bị kết án tử hình. Chính sách này gây ra những hậu quả tai hại là phá vỡ toàn bộ tương quan xã hội và gia đình. Tình nghĩa máu mù, ruột thịt, bà con họ hàng, tình nghĩa xóm làng không còn nữa. Mỗi người trở thành kẻ thù của mọi người. Đó là một xã hội băng hoại và tan rã, bật gốc rễ và mất hết các giá trị cổ truyền, truyền thống trong nếp sống, nếp nghĩ ở đời.

Cuối cùng thì người nông dân vẫn là kẻ chịu thiệt thòi nhất như nhận xét của ông giáo sư Tương Lai viết: ”Nông dân Việt Nam là người chịu trên vai gánh nặng nhất của đất nước. Nhưng về sau, bản thân người nông dân lại phải chịu đựng rất nhiều thiệt thòi và ông đúc kết ra những cái thiệt thòi nhất của người nông dân là: Cống hiến nhiều nhất, hy sinh lớn nhất là thứ hai. Hưởng thụ ít nhất là thứ ba. Thứ tư là họ được giúp kém nhất. Thứ năm là họ bị đè nén thảm nhất. Thứ sáu là họ bị tước đoạt nặng nhất. Thứ bảy, họ cũng là người cam chịu nhất lâu dài nhất. Nhưng thứ tám, họ là người tha thứ cao cả nhất.”

Sau hơn 60 năm, sau cải cách ruộng đất và người cày có ruộng, xem ra Việt Nam vẫn cần tìm ra câu trả lời cho những vấn đề công bằng xã hội ở nông thôn mà quan trọng vẫn là vấn đề ruộng đất. Đất nông nghiệp nay được chuyển thành đất xây cất đô thị và công nghiệp. Người ta lấy hằng trăm hecta ruộng của nông dân và không có đến bù xứng đáng.

Bất công vẫn hoàn bất công. Người cộng sản có thể tự hào về nhiều thứ lắm. Nhưng chỉ có một điều họ không thể tự hào được là người nông dân từ hơn nửa thế kỷ này, chưa có một ngày mà họ cảm thấy mình hạnh phúc. Đến năm 1860, còn ăn độn 20%. Nhưng sang đến năm 1966, đã phải ăn độn tới 60%.

Sau những sai lầm về cải cách ruộng đất đi vào đợt 4 thì đảng quyết định sửa sai xem ra đã trể, vì đã có một số nạn nhận chết qua các các đợt cải cách. Đảng cho lệnh ngưng lại.

Nhưng chỉ không hiểu sao thời ấy cả nước từ trên xuống dưới lại ngu xuẩn đến thế?

Số nạn nhân bị giết trong cải cách ruộng đất

Thật ra không có cách nào để tìm ra con số nạn nhân đã chết trong CCRĐ. Tôi không tìm ra được số liệu đích xác về số người chết là bao nhiêu? Nhưng điều chắc chắn là tôi sẽ không bao giờ tìm ra được.

Cùng lắm, nếu chúng ta căn cứ trên tỉ lệ 5% mà chính quyền cộng sản yêu cầu, rồi căn cứ vào số xã đã được các đội cải cách đến bắt rễ và phát hiện các địa chủ. Con số khiêm tốn nhất theo thống kê nội bộ mà ông Bùi Tín tiết lộ cho biết thì có:

* Số địa chủ thường: 82.777, số bị quy sai là 51.480 người. Tỉ lệ sai là: 62%
* Số địa chủ kháng chiến: 586. Số quy sai là: 290, tỉ lệ sai là: 49%
* Số địa chủ cường hào ác bá là: 26.453. Số bị quy sai là: 20.493, tỷ lệ sai: 77%.

Như vậy là có hơn 80 ngàn gia đình địa chủ bị bắt bớ hành hạ. Mỗi gia đình lại có trung bình 4,5 người liên quan nên số bị nạn lên đến trên 400 ngàn người. Họ mất nhà, mất tiền của… một số tự sát… Nếu còn sống cũng đói khổ, ốm đau, suy kiệt. Nhiều gia đình bị tan vỡ, con cái thất học, bơ vơ. Chưa kể 84.000 đảng viên bị xử trí, bị tù, bị tra tấn. (Trích Bùi Tín, Nhìn lại cuộc cải cách ruộng đất, Talawas1.11.2006).

Món nợ này đảng cộng sản trả bao giờ cho hết?

Và còn phải nói tới mối liên hệ gia đình như vợ con, anh em bà con, dòng họ. Tất cả những người còn sống có mối liên hệ huyết thống với tên địa chủ bị loại trừ khỏi làng xã. Họ không được học hành, bi khinh miệt, tẩy chay trong việc lấy vợ, lấy chồng. Biết bao nỗi khổ và nỗi nhục chồng chất đến đời con cháu. Như lời nhận định của Hồ Việt Thắng:” Đối với các chính sách của Đảng và chính phủ, vì không phổ biến sâu rộng trong nhân dân và địch cố xuyên tạc phá hoại, nên quần chúng cũng có nhiều thắc mắc. Đồng bào công giáo thì lo mất cha, mất đạo. Người trước đi làm ngụy quân, nguỵ quyền hoặc có tên trong các tổ chức khác của địch, thì sợ bị trừng trị. Nhà có người đi Nam sợ “bị liên lụy”. Rất nhiều người sợ bị liên quan với địa chủ, đế quyốc và phản động”. (Trích Hồ Việt Thắng, Nhận xét vế cải cách ruộng đất, đợt 5, trích Talawas,30/09/2005)

Nạn nhân “bất đắc dĩ” của CCRĐ

Anh “Nhân” hay anh “Thận”, bí danh của Trường Chinh là người mông muội, sùng bái “Mặt trời Phương Đông”, đọc thuộc lòng tư tưởng Tri Cửu Chiến hay Tân Dân Chủ Luận của Tàu đến mê muội quá mức. Ông là người đã đứng ra phát động chiến dịch cải cách ruộng đất vào tháng 11, 1953 với phụ tá là Hồ Việt Thắng. Thắng là người được đưa sang Trung cộng học về Cải cách ruộng đất, học phương pháp đấu tố rồi về áp dụng ở Việt Nam. Họ chỉ biết học thuộc lòng, cưỡng hiếp oan uổng thực tế Việt Nam bằng bạo lực duy ý chí sao cho phù hợp với sách vở giáo điều. Trường Chinh trước sau cũng chỉ là con vật tế thần của Hồ Chí Minh. Do những sai lầm quá lớn của CCRĐ cũng như số nạn nhân bị giết trong cải cách đã dẫn đến việc Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí Thư trong kỳ Hội thứ 10 của ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Việt Nam.

Hoàng Quốc Việt Lê Văn Lương bị loại ra khỏi bộ Chính Trị. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban chấp hành Trung Ương.

Tội của bọn họ như thế mà chi bị mất chức thì kể là quá nhẹ.

(Từ phải) Hồ Chí Minh, Nguyễn Chí Thanh, Trường Chinh (học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh), Phạm Văn Đồng tại Việt BắcNguồn: Trích Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Trường Chinh của Ban Tư tưởng - Văn hóa TW
http://www.dcvonline.net/php/images/112008/truongchinh.jpg

Một người không phải địa chủ, không ruộng nương, không bóc lột ai, nhưng trở thành nạn nhân cuối cùng của CCRĐ là một trí thức. Người dám đứng ra sửa sai đảng là luật sư Nguyễn Mạnh Tường trong bài Tham luận đọc tại Hội nghị Mặt Trận Trung Ương ngày 30/10/1956, tại Hà Nội. Bài chỉ đúng 4 trang rưỡi giấy ấy đòi phải đặt pháp lý hoá trong những vụ xử án. Kết quả ông đã không đòi được những điều ông không thể đòi: 40 năm còn lại, ông bị trù dập và “ngồi chơi xơi nước”. Ông bị trù ếm lâu nhất so với bất cứ loại địa chủ nào chỉ vì muốn đứng về phía lẽ phải, pháp luật. Ông chỉ quên một điều: Đảng vĩ đại nhất ngay cả trong những sai lầm của họ.

Người miền Nam có thể không biết, hoặc biết mà không nhớ là vào thời điểm 1955-56, bên bờ phía Nam của sông Bến Hải, chính quyên ông Diệm có căng một tấm biểu ngữ lớn ghi mấy câu cho người phía bên, phía Cửa Tùng, Vĩnh Linh đọc: Ở đâu con tố cha, vợ tố chồng?

Chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp và những hậu quả của nó

Người nông dân như bần cố nông vừa mới được hưởng ân huệ 4 sào ruộng vì người cầy có ruộng thì nay nhà nước đưa ra chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp. Việc sửa sai CCRĐ chưa xong, nhà nước đã ép nông dân đi vào đường tập thể hóa nông nghiệ theo đường hướng của Stalie và Mao Trạch Đông. Nông dân từ nay phải làm việc tập thể. Theo nguyên tắc: có làm mới có ăn, dưới sự lãnh đạo và theo kế hoạch của nhà nước. Nông dân sẽ bị tập thể hóa từ bậc th lên trên, từ xã lên toàn xã theo kiểu công xã nhân dân Trung Quốc.

95% diện tích đất đai từ nay trở thành của HTX, 5% còn lại để cho nông dân tự canh tác lấy.

Mãi cho đến năm 1986, HTX mới bị giải thể. Từ đó nông dân được tự do sản xuất trên ruộng đất của mình. Ngay đó năng xuất gạo tăng vọt đến có thể dư thừa, sau đó, xuất cảng gạo trên thị trường thế giới.

Từ nay, người dân phải làm đơn để hiến số ruộng mình có, hiến nông cụ, trâu bò của mình cho HTX. Sự bồi hoàn tính ra thành những phần hùn, những ngày công được giảm. Nhưng giả dụ có đi ra khỏi HTX thì không được quyền lấy lại.

Việc làm của xã viên được tính theo công điểm. Thóc của Hợp tác xã làm ra được quy định là nghĩa vụ lương thực đối với nhà nước.

Thực tế trước mặt

Tư lợi vẫn là yếu tố thúc đẩy một quá trình sản xuất. Khì không còn tư lợi, sản xuất sẽ bị trì trệ, ít còn trách nhiệm. Làm cho mình thì người ta có thể sẵn sang hy sinh công sức, ngày giờ, tiền Nhưng khôn ai dại gì bỏ công sức ra làm việc cho HTX, vì chẳng được thêm bổng ra ngoài. Người ấy nhất định nhảy xuống ruộng vá bò ruộng làm thoát nước. Nhưng nếu đấy là ruộng HTX thì người ấy có chịu lảm như vậy không? Chắc là không?

Điều đó cắt nghĩa được HTX tại sao ít năng xuất, tại sao thu hoạch kém, tại sao không bao giờ đạt được đúng chỉ tiêu? Và tại sao thất thu, tại sao cả nước vẫn chưa khá lên được?Đất nước vẫn chưa ra khỏi cảnh nghèo túng, lạc hậu, vẫn chưa xoá được đói, giảm được nghèo suốt từ 1954 đến 1985.

Khi có nạn thiếu hụt lương thực thì người nông dân có thói quen dự trữ gạo cho họ. Một thứ Self-protection đồng thời họ còn hy vọng kiếm lợi nhuận qua số lúa gạo dự trữ thặng dư. Phần chính quyền mới, không tận thu được, chỉ thu đạt được 82.2% mục tiêu mà họ đề ra. Nhiều tỉnh còn tệ hơn nữa, chỉ thu được 60% như các tỉnh Kiến An, Quảng Bình, hoặc thu chưa được một nửa như các tỉnh Hải Phòng.

Chính quyền mới nghĩ đến việc ép dân vào các tổ hợp lao động (collective labour) với các Hợp Tác Xã mà mục tiêu nhằm tới là giới nông dân. Nhưng đã hẳn công việc hợp tác hóa đã không đạt được yêu cầu như mong đợi của chính quyền Cộng Sản. Trường Chinh chủ trương phải làm thế nào đưa được 70 đến 75% nông dân vào các Hợp tác xã, nhất là tầng lớp nông dân trung lưu. Theo như nhận xét của Ken Post như sau:
The last point strongly indicates that peasants were not settling easily in to the new organizations. This was bound to become worse as the officially estimated 30 percent of “ordinary” and “upper, middle” were enrolled. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam. Volume 2, Ken Post, trang 258).

Phần những người sống ở thành thị như công chức, bộ đội, công an, cán bộ, nhất là cấp cán bộ lãnh đạo cao cấp vốn không sản xuất ra lúa gạo thì cần tỗ chức sổ gạo, chế độ tem phiếu để có thể phân phối thực phẩm đến tay họ. Xã hội từ nay bị phân hóa ra nhiều thành phần, nhiều cấp bậc như thời phong kiến, măc dầu không còn có vua. Chênh lệch xã hội ngày càng lớn. Kẻ có vây cánh và thần thế chiếm giữ đặc quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân bất mãn với chế độ như trong Ký 54-55 của Trần Dần đã ghi lại.

Chế độ sổ gạo và tem phiếu đã gây ra không biết bao nhiêu bất công, phiền nhiễu, mất thì giờ và cảnh khổ chờ đợi cũng như phẩm chất yếu kém của các món hàng do Hợp Tác Xã bán ra. Dân gian có thói quen gọi XHCN là Xếp hàng cả ngày chắc hẳn là đúng.

Tiêu chuẩn gạo cho quân đội là 18 kí lô/một tháng, người lớn là 13 kílô/tháng. Học sinh 14 ki lô/ tháng. Gạo như thế trở thành món ăn chính. Với số lượng gạo trên, ăn dè mới đủ. Nhiếu nhà, đến ngày 20 mỗi tháng là trong nhà không còn gạo mà ăn nữa. Tiêu chuẩn gạo phân phối như thế đối với một thiếu niên mới lớn thật không cách nào đủ được. Ai cũng phải ăn cả. Không lẽ quân đội thì được ăn nhiều và đầy đủ hơn một người dân thường?

Chưa kể là mua về phải gạo xấu, gạo mốc, gạo mọt, gạo xen cám, xen tấm, xen trấu. Mua về phải sàng lại, phải đãi lọc. Ai trách nhiệm về phẩm chất gạo đây? Kêu ai đây? Trong khi đó, muốn ăn gạo ngon thì cỡ nào cũng có, giá nào cũng có với điều kiện phải mua chợ đen.

Chưa kể là phải chen chúc, cãi cọ, phải chờ đợi, xếp hàng từ 3, 4 giờ sáng để khi cửa hàng mở thì được mua trước. Con cái, vợ chồng phải dạy sớm, thức đêm thức hôm, chầu chực.

Tình cảnh ấy, không thiếu người đã trải qua và cảm nhận được cái vô lý đến phẫn hận của đời sống trong Xã hội chủ nghĩa.

Xin dẫn một chứng từ của ông Nguyễn Đăng Mạnh:
“Ngày 30/04/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là những ngày rất vui. Tuy nhiên về đời sống vật chất thì vẫn khổ, có khi còn khổ hơn cả thời kỳ chiến tranh. Vẫn cơm độn mì hay bo bo. Vẫn xếp hàng chầu chực từ rất sớm để mua gạo mậu dịch. Mì để lâu bị mọt, sinh ra dòi bọ. Tôi đã thấy một lần như thế trong bát cơm của mình. Sợ quá… Làm gì cũng phải xếp hàng, phải chầu chực. Quyền thế nhất lúc bây giờ là bà chủ kho gạo, là cô hàng mậu dịch. Đây là lúc Hoàng Ngọc Hiến từng phát biểu một câu rất tội: Đi đường thấy một xu ai đánh rơi cũng phải nhặt. Kiếm đâu ra một xu bây giờ”. (TríchHồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 55)

Gần đây nhất, tôi có trong tay tờ Công An, thành phố Hồ Chí Minh, bộ mới, số 164, số ra ngày 21/05/2005. ngay trang nhất, tờ báo cho in một câu: Hộ Khẩu. Chưa thể bỏ.

Đã nửa thế kỷ, người dân Việt Nam vẫn còn chịu cảnh sống dưới chế độ Hộ Khẩu.

Có lẽ nhà báo Bùi Tín là người hiểu rõ tất cả guồng máy chính trị cũng như những lắt léo, lạm dụng của cán bộ lãnh đạo cộng sản. Những tiết lộ sau đây của ông Bùi Tín là những tiết lộ “động trời” mà người dân thuờng không bao giờ biết được.

“Gạo cho các vị đã có cửa hàng gạo riêng ở đường Ngô Quyền, cùng đường với tòa nhà Bắc bộ phủ cũ cung cấp. Gạo ở đây là gạo hảo hạng. Thành ủy Hà Nội đã giao cho hai hợp tác xã ờ hai huyện Quốc Oai và huyện Từ Liêm dành riêng ra 100 hedta cấy lúa dự và tám thơm cho các “cụ”. Các thửa ruộng đặc biệt này được được chăm sóc và quản lý đặc biệt, cứ như ruộng để lấy gạo tế trời và để vua “ngự” thời trước vậy.
Các thửa ruộng ấy đều được giữ giống lúa thuần chủng, không xen lẫn với các thứ lúa khác, được chăm sóc đạc biệt, không dung thuốc trừ sâu”.
(Trích Mặt Thật, Thành Tín, trang 265)

Đời sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa là như thế. Người ta nói về nó quá nhiều rồi. Vậy mà nó vẫn tồn tại. Cho nên, muốn giữ cho xã hội khỏi bất mãn, khỏi nổi loạn, nhà nước đã xây dựng một bộ máy công an, một nhà nước chuyên chế và cứ thế, một chính quyền độc đoán đã hình thành. Cho mãi đến bây giờ, bộ máy chính quyền quan liêu phong kiến của chính quyền Hà Nội vẫn lội bì bõm trong ảo tưởng một thứ chủ nghĩa xã hội mà thực tế, họ chưa bao giờ thực hiện được lấy một lần. Đã hơn thế nửa thế kỷ trôi qua kể từ năm 1954, họ vẫn không ngừng hô to tiến lên, tiến lên chủ nghĩa xã hội bất kể bảng chỉ đường của thế giới nói chung tiến về đâu? Và hơn nữa, bất kể phần lớn các nước cộng sản đẵ khước từ nhãn hiệu thế giới đại đồng? Nhưng họ vẫn phải giả dối coi đó như một khúc quanh tạm thời và vẫn không ngừng đem chủ nghĩa Mác ra tuyên truyền và nay cộng thêm tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong thực tế, không một ai trong bọn họ, từ cấp Trung Ương đến địa phương hiểu được tư tưởng đó là tư tưởng gì?

Thay một lời kết

Trung Cộng đã đi trước chính quyền cộng sản miền Bắc trong vấn đề Cải Cách ruộng đất. Họ đã trả giá. Cộng sản VN máy móc, mù quáng làm theo và vẫn chưa một lời xin lỗi các nạn nhân trong vụ CCRĐ.

Cho đến nay, 750 chục triệu người nông dân ở bên Tầu: Ruộng vẫn chưa về tay người cày. Hiện nay, bài toán của Trung Cộng hiện nay vẫn là vấn đề: ĐẤT. Phải triệt để giải quyết theo công bằng và theo pháp lý để quyền lợi đất đai của người nông dân được bảo đảm. Bảo đảm theo nghĩa có quyền sở hữu được canh tác, được cho thuê và được phép bán.

Bài toán nan giải của Việt Nam bây giờ là giải quyết vấn đề đất đai cho người nông dân khỏi bị thiệt thòi và không còn có cảnh đi khiếu kkiện nữa.

Nhìn lại hơn 50 năm miền Bắc dưới chế độ cộng sản, người viết chỉ có thể thở dài và nghĩ mình còn may mắn – May mắn vì đã không phải sống dưới chế độ bạo tàn đó.

Vâng, phải nói là may mắn.

© DCVOnline

No comments: