Nga sẵn lòng gây biến động toàn cầu tới
đâu?
Hanna Notte
- Foreign Affairs
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2025/03/06/nga-san-long-gay-bien-dong-toan-cau-toi-dau/
Bất
chấp sự ủng hộ của Trump, vẫn có giới hạn đối với các xung lực phá hoại của
Moscow.
Việc
Tổng thống Mỹ Donald Trump ủng hộ Nga dường như đang làm gia tăng mối đe dọa đã
gây báo động ở các thủ đô phương Tây suốt năm qua: sự liên kết của một nhóm đối
thủ đáng gờm, bao gồm Trung Quốc, Iran, Triều Tiên, và Nga, trong một “trục biến
động” do Nga đứng đầu. Cả bốn nước đều theo chủ nghĩa xét lại, với ý định lật đổ
trật tự toàn cầu mà họ cho là chống lại mình. Phương Tây lo ngại rằng, ngoài việc
hỗ trợ kinh tế, quân sự, và chính trị cho nhau, các quốc gia này có thể phát động
cuộc xung đột khiến phương Tây phải chật vật kiềm chế những tác động gây bất ổn.
VIDEO :
Nga
sẵn lòng gây biến động toàn cầu tới đâu?
https://www.youtube.com/watch?v=Q8ASDUxAco8
Bằng
cách tách mình khỏi các đồng minh phương Tây và tham gia đàm phán về cuộc chiến
ở Ukraine, Washington đã gợi ý rằng một trong những mục tiêu của họ là gây chia
rẽ giữa Nga và các đối tác. Nhưng kết quả đó là không thực tế. Nga hy vọng sẽ
giành chiến thắng ở Ukraine, dù sớm hay muộn, có hay không có thỏa thuận với Mỹ.
Do đó, họ không có lý do gì để cắt đứt quan hệ với các đối tác có giá trị chỉ để
làm hài lòng Trump – và sẽ đặc biệt không muốn làm đảo lộn quan hệ đáng tin cậy
với Bắc Kinh để theo đuổi quan hệ với Washington, vốn có thể chỉ kéo dài cho đến
kỳ bầu cử tiếp theo của Mỹ. Nếu chính quyền Trump dỡ bỏ áp lực của Mỹ đối với
Moscow, Nga sẽ vừa có quan hệ chặt chẽ hơn với các quốc gia theo chủ nghĩa xét
lại khác, vừa có được mức độ khoan dung chưa từng thấy từ Washington đối với
các chính sách đối ngoại mang tính phá hoại của nước này.
Nhưng
ngay cả trong một môi trường tương đối dễ chịu, tham vọng gây biến động thế giới
của Nga cũng có giới hạn. Những cuộc xung đột mới nổ ra không hẳn sẽ có lợi cho
họ. Xét đến nguồn lực hữu hạn và mối bận tâm với Ukraine, khả năng Moscow có thể
định hình kết quả theo hướng có lợi cho mình ở những nơi khác trên thế giới bị
hạn chế rất nhiều. Chẳng hạn, gần đây, khi bạo lực lan rộng khắp Trung Đông,
người Nga lúc đầu đã lạc quan rằng các hành động thù địch sẽ gây hại cho đối thủ
của mình, nhưng cuộc xung đột đó cuối cùng lại làm suy yếu vị thế của Moscow vì
nó phơi bày điểm yếu của một đối tác của Nga là Iran, rồi lên đến đỉnh điểm là
sự sụp đổ của một đối tác khác, chế độ ở Syria. Sự phụ thuộc của Nga vào các đối
tác khác ngoài Trung Quốc, Iran, và Triều Tiên cũng đã hạn chế khả năng gây rắc
rối của nước này. Nhu cầu duy trì quan hệ ổn định với Ấn Độ và đặc biệt là Ả Rập
Saudi đã làm dịu đi những xung lực hung hăng của họ, và mong muốn tránh làm phật
lòng các quốc gia phương Nam toàn cầu của Moscow đã buộc họ phải tham gia các
diễn đàn ngoại giao đa phương, như BRICS và Liên Hiệp Quốc, với sự thận trọng
nhất định.
Những
hạn chế này sẽ mạnh nhất chừng nào Nga còn tiếp tục tiến hành chiến tranh ở
Ukraine, nhưng chúng cũng sẽ tồn tại dưới một hình thức nào đó sau khi đạt được
thỏa thuận kết thúc cuộc chiến. Nếu họ đủ khả năng kiểm soát hậu quả của hành động
can thiệp, Moscow có thể sẽ tin rằng lợi ích lớn hơn rủi ro. Nhưng khi sự can
thiệp của họ có thể leo thang thành một cuộc xung đột toàn diện đòi hỏi sự tham
gia của quân đội Nga, Moscow có lẽ sẽ kiềm chế hơn. Trên thực tế, điều này có
nghĩa là Nga gần như chắc chắn sẽ đẩy mạnh các chiến dịch thông tin sai lệch và
các hành vi phá hoại (như tấn công mạng và phá hoại cơ sở hạ tầng) ở châu Âu, nhận
ra rằng mong muốn rút lui khỏi lục địa già của Mỹ là cơ hội làm xói mòn thêm sự
gắn kết của NATO. Tuy nhiên, sự chần chừ của Nga đối với việc bị vướng mắc về
quân sự sẽ ngăn cản nước này gây biến động trên Bán đảo Triều Tiên, Trung Đông,
và thậm chí ở các quốc gia châu Phi nơi họ duy trì sự hiện diện về an ninh. Sau
khi phải đối mặt với sự phản đối dành cho chương trình nghị sự xét lại của mình
tại các diễn đàn đa phương, Moscow cũng có thể đánh giá lại chiến lược ngoại
giao của mình, một phần dựa trên mức độ tàn phá mà chính Mỹ sẽ gây ra cho các
thể chế đó.
Nga
đã chấp nhận chơi đường dài, và họ hiểu rằng mình cần phải cân nhắc từng cuộc đối
đầu, nhất là khi sự ủng hộ bất ngờ từ chính quyền Mỹ có thể chỉ là nhất thời hoặc
đầy biến động. Để các quốc gia vẫn quyết tâm chống lại sự gián đoạn từ Nga có
thể hành động hiệu quả trong kỷ nguyên mới đầy bất định này, họ cũng sẽ cần phải
đánh giá cẩn thận nơi nào và khi nào nên tham gia cuộc chiến – bắt đầu với mặt
trận châu Âu ngày càng nguy hiểm.
QUÁ
NHIỀU HỖN LOẠN
Xung
đột xảy ra đồng thời ở nhiều nơi trên thế giới thường được cho là có lợi cho
các cường quốc xét lại và khiến phương Tây phải trả giá. Lý do là nhiều nước
phương Tây vẫn phụ thuộc vào Mỹ để bảo vệ mình: Washington là người duy nhất
gánh trên vai gánh nặng mở rộng khả năng răn đe hạt nhân và các hình thức đảm bảo
an ninh khác cho các đồng minh và đối tác chủ yếu ở Châu Á và Châu Âu. Xét đến
các cam kết nhiều tầng lớp của Mỹ, các nguồn lực chung của phương Tây có thể bị
dàn mỏng nếu Mỹ bị kéo vào nhiều cuộc khủng hoảng cùng một lúc. Giờ đây, khi
thiện chí giúp đỡ của Mỹ bị nghi ngờ, các đối tác của Mỹ có lẽ đang lo lắng hơn
bao giờ hết về việc tăng cường phòng thủ trên nhiều mặt trận. Điều ít được chú
ý hơn là thực tế rằng Nga và các đối tác của họ cũng đối mặt với những hạn chế
của riêng mình, theo đó làm giảm hứng thú của họ đối với việc gây ra xung đột.
Hãy
lấy làn sóng thù địch gần đây ở Trung Đông làm ví dụ. Sau khi Hamas tấn công
Israel vào ngày 07/10/2023, Nga ban đầu đã hoan nghênh sự xao nhãng khỏi cuộc
chiến ở Ukraine. Khi Israel bắt đầu chiến đấu ở Gaza, rồi sau đó bắt đầu tấn
công lực lượng dân quân Hezbollah do Iran hậu thuẫn ở Lebanon và chống trả các
cuộc tấn công từ cả Iran lẫn Houthi ở Yemen, Mỹ đã di chuyển các khẩu đội tên lửa
Patriot và các loại vũ khí khác đến khu vực này. Washington cũng dành nhiều nỗ
lực ngoại giao để thúc đẩy các cuộc đàm phán ngừng bắn ở Gaza và sau đó là
Lebanon. Mặt khác, Moscow lại không làm gì nhiều để cố gắng xoa dịu những căng
thẳng đang lan rộng. Dường như áp lực gia tăng mà các cuộc xung đột gây ra cho
các hệ thống phòng không hữu hạn của phương Tây, cũng như sự phẫn nộ ngày càng
tăng của phần còn lại của thế giới đối với thứ tiêu chuẩn kép mà họ nhận thấy
trong phản ứng của phương Tây đối với các cuộc chiến ở Gaza và Ukraine, sẽ chỉ
có lợi cho Nga.
Tuy
nhiên, tình hình hỗn loạn ở Trung Đông đã chứng tỏ là quá dữ dội và quá khó lường
khiến Moscow không thể dễ dàng tìm ra hướng đi có lợi cho mình. Chứng kiến đối
tác Iran bị suy yếu do các cuộc đối đầu trực tiếp và ủy nhiệm với Israel, Nga
đã không đưa ra bất kỳ sự hỗ trợ có ý nghĩa nào. Các cuộc tấn công của Iran vào
Israel hồi tháng 4 và tháng 10 năm 2024 chỉ gây ra thiệt hại vật chất và thương
vong tối thiểu, qua đó cho thấy khả năng tên lửa của nước này không đáng gờm
như suy nghĩ trước đây. Các cuộc tấn công trả đũa của Israel, đặc biệt là cuộc
tấn công vào tháng 10, đã làm suy yếu khả năng sản xuất tên lửa và phòng không
của Iran. Chiến dịch của Israel chống lại Hezbollah cũng làm suy yếu sức mạnh của
nhóm này, và vào đầu tháng 12, tình hình này đã giúp các lực lượng nổi dậy ở
Syria lật đổ chế độ của Bashar al-Assad, một đồng minh của cả Moscow và Tehran.
Việc
Assad bị lật đổ nói riêng đã phơi bày giới hạn của tham vọng của Nga và khả
năng nước này định hình các sự kiện ở những nơi xa xôi. Trong những tháng ngay
trước khi chế độ Syria sụp đổ, Moscow – bên đã duy trì sự hiện diện quân sự tại
Syria kể từ năm 2015 – đã tăng cường tuần tra gần Cao nguyên Golan do Israel
chiếm đóng ở phía tây nam, cũng như tăng cường các cuộc ném bom ở Tỉnh Idlib ở
phía tây bắc để ngăn chặn phiến quân chống Assad hành động chống lại chế độ, đồng
thời ngăn chặn Israel và Thổ Nhĩ Kỳ lợi dụng tình hình hỗn loạn để thúc đẩy mục
tiêu của riêng họ ở Syria. Nhưng khi phiến quân bắt đầu cuộc tấn công chớp
nhoáng vào cuối tháng 11, lực lượng Nga hầu như đã đứng sang một bên. Bận tâm với
Ukraine, Điện Kremlin không có nguồn lực quân sự và cũng không muốn cứu đồng
minh Syria của mình.
Cuối
cùng, làn sóng xung đột gần đây ở Trung Đông đã làm xói mòn vị thế chiến lược của
Nga. Moscow không thể hoặc không muốn can thiệp quyết liệt thay mặt cho các đối
tác của mình trong khu vực, và kết quả là Nga đã mất đi ảnh hưởng ở đó. Thay vì
hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động phá hoại, Nga và Iran đang tập trung vào
các cuộc chiến của riêng mình, và do đó bị hạn chế, chí ít là trong ngắn hạn, về
khả năng cung cấp hỗ trợ ở những nơi khác.
BẠN
CỦA KẺ THÙ CỦA TÔI
Moscow
cũng buộc phải cân bằng động lực phá hoại trong chính sách đối ngoại của mình với
lợi ích của các đối tác không chấp nhận mục tiêu xét lại mà họ chia sẻ với
Trung Quốc, Iran, và Triều Tiên. Những “nhà cải cách” này bao gồm các quốc gia
phi phương Tây hùng mạnh muốn cập nhật các quy tắc quản trị toàn cầu nhưng vẫn
muốn hệ thống quốc tế hiện tại hoạt động; nhóm này tìm kiếm quan hệ tốt với
phương Tây và ưa thích sự ổn định hơn là sự biến động.
Đối
với Nga, điều đặc biệt quan trọng là duy trì quan hệ tốt đẹp với Ấn Độ và Ả Rập
Saudi. Ấn Độ là nước mua dầu lớn nhất và là nước cung cấp hàng hóa lưỡng dụng lớn
thứ hai cho Nga – những mặt hàng có giá trị cho cả mục đích quân sự và thương mại
– và hai nước cũng duy trì quan hệ quốc phòng-công nghiệp chặt chẽ. Trong khi
đó, Ả Rập Saudi là bên đối thoại chính của Nga trong OPEC, tổ chức có ảnh hưởng
đáng kể đến thị trường dầu mỏ toàn cầu. (Nga tham gia OPEC+, bao gồm các thành
viên OPEC cùng nhiều nước sản xuất dầu khác.) Doanh thu từ dầu khí chiếm khoảng
một phần ba ngân sách nhà nước của Nga và vì thế nó rất quan trọng đối với khả
năng tiến hành chiến tranh ở Ukraine; Moscow khó có thể cầm cự nếu giá dầu giảm
mạnh. Bản thân Ả Rập Saudi có thể không muốn giá dầu giảm, nhưng họ cũng có thể
phải đối mặt với áp lực từ Mỹ: Trump đã gợi ý trong một bài phát biểu tại Diễn
đàn Kinh tế Thế giới vào tháng 1 rằng ông có thể “yêu cầu Ả Rập Saudi và OPEC hạ
giá dầu” để chiến tranh buộc phải chấm dứt. Nếu Điện Kremlin và giới lãnh đạo Ả
Rập Saudi có thể duy trì quan hệ tốt đẹp, thì cả hai đều sẽ củng cố vị thế mặc
cả của mình đối với Washington.
Thủ
tướng Ấn Độ Narendra Modi, Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận Bình tại Kazan, Nga, tháng 10/2024. © Alexander Zemlianichenko /
Reuters
Thay
vì hợp tác toàn diện với “trục biến động,” Nga đã điều chỉnh các chính sách của
mình để tính đến quan ngại của các đối tác cải cách về các thành viên khác của
trục. Chẳng hạn, khi Nga cân nhắc chuyển giao vũ khí cho Houthi do Iran hậu thuẫn
vào mùa hè năm ngoái, Ả Rập Saudi – quốc gia xem Iran là đối thủ – đã gây sức
ép buộc Moscow hủy bỏ kế hoạch. Hồi tháng 12, các phương tiện truyền thông đưa
tin rằng Nga đang thảo luận về một thỏa thuận bán cho Ấn Độ hệ thống radar tiên
tiến Voronezh, có thể giúp quân đội Ấn Độ giám sát không phận phía trên Trung
Quốc, nơi có chung đường biên giới đang tranh chấp với Ấn Độ.
Đáp
ứng các yêu cầu của phe cải cách cũng là điều cốt yếu để Nga thực hiện tham vọng
trở thành một thế lực toàn cầu. Nga tuyên bố rằng mình đang dẫn dắt cái mà họ gọi
là “đa số thế giới” trong nỗ lực vượt qua ảnh hưởng quá lớn của phương Tây
trong các vấn đề toàn cầu. Trong thời gian Moscow giữ vai trò chủ tịch BRICS
năm ngoái, các quan chức Nga đã tổ chức hàng trăm cuộc họp và nhóm làm việc
xoay quanh nhiều vấn đề khác nhau, từ năng lượng hạt nhân đến y tế, để thúc đẩy
chương trình nghị sự này. Tuy nhiên, Brazil và Ấn Độ đã phản đối các nỗ lực của
Nga (và Trung Quốc) nhằm sử dụng BRICS để làm suy yếu phương Tây và các thể chế
liên quan đến phương Tây. Ví dụ, khi phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh BRICS ở
Nga vào tháng 10 năm ngoái, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã cảnh báo rằng khối
này không nên tự xem mình là “một giải pháp thay thế cho các tổ chức toàn cầu.”
Nga sau đó đã dịu giọng hơn tại hội nghị thượng đỉnh, với việc Tổng thống
Vladimir Putin đưa ra lời đảm bảo rằng BRICS sẽ không trở thành một “liên minh
chống phương Tây.”
Khả
năng Nga sử dụng các tổ chức đa phương để gây bất ổn cũng vấp phải những hạn chế
tương tự. Là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Nga
có thể phủ quyết các sáng kiến do các thành viên phương Tây đưa ra, và nước này
đã ngày càng sẵn sàng làm như vậy kể từ năm 2022. Nhưng đôi khi, Moscow đã kiềm
chế hành vi phá hoại của mình để tránh bị phản kháng. Tháng 6 năm ngoái, Nga đã
không tham gia bỏ phiếu tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về kế hoạch ngừng bắn
do Mỹ bảo trợ cho Gaza, vì nhận ra rằng các quốc gia Ả Rập ủng hộ kế hoạch này
và sẽ tức giận nếu Nga phủ quyết. Tuy nhiên, Moscow đã không khéo léo được như
vậy tại Hội nghị Thượng đỉnh về Tương lai của Liên Hiệp Quốc vào tháng 9, khi họ
phải hứng chịu sự chỉ trích từ Mexico và một số quốc gia châu Phi khác. Lý do
là vì các nhà ngoại giao Nga cố gắng làm chệch hướng thỏa thuận cuối cùng của hội
nghị, được gọi là “Hiệp ước Vì Tương lai,” trong khi vẫn tuyên bố rằng mục đích
của họ là bảo vệ “khát vọng của phương Nam toàn cầu” khỏi “phương Tây tập thể.”
Hành vi gây gián đoạn của Nga đã phản tác dụng một cách ngoạn mục; chỉ có sáu
nước khác ủng hộ động thái hoãn thông qua thỏa thuận, trong khi 143 nước bỏ phiếu
chống và 15 nước bỏ phiếu trắng. Một Moscow tỉnh táo hơn có thể sẽ chọn cách
hành xử thận trọng hơn trong các cuộc đàm phán đa phương trong tương lai.
BIẾN
ĐỘNG CÓ KIỂM SOÁT
Được
những đồng minh theo chủ nghĩa xét lại của mình hỗ trợ, Nga sẽ tiếp tục gây bất
ổn toàn cầu. Nhưng không phải tất cả mọi biến động đều là biến động được mong
muốn, vì vậy Moscow sẽ tập trung vào các cơ hội mà họ kỳ vọng sẽ mang lại lợi
ích chiến lược. Ở châu Âu, nơi Nga đã tấn công cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự
và can thiệp vào chính trị trong nước suốt nhiều năm qua, chiến lược của Điện
Kremlin có thể đã tính đến các phản ứng dữ dội tiềm tàng nhắm vào mình. Tệ hơn,
Moscow có thể xem những lời khiển trách thường xuyên của chính quyền Trump đối
với các đồng minh châu Âu và việc chấp nhận các lực lượng phản tự do trên khắp
lục địa là lời mời can thiệp nhiều hơn nữa. Các hoạt động của Nga – vốn được
thiết kế để làm xói mòn dần dần sự thống nhất của châu Âu – sẽ không chỉ tiếp tục
mà thậm chí còn gia tăng. Ở các quốc gia dễ bị tổn thương nằm giữa sườn phía
đông của NATO và Nga, chẳng hạn như Moldova, Moscow cũng có thể nhìn thấy lợi
ích khi gieo rắc hỗn loạn, được khuyến khích bởi sự thờ ơ rõ ràng của Washington
đối với khu vực đó. Hồi tháng 1, Nga đã thử nghiệm bằng cách cắt nguồn cung khí
đốt cho vùng lãnh thổ ly khai Transnistria, với hy vọng tạo ra một cuộc khủng
hoảng cho chính quyền trung ương thân châu Âu của Moldova.
Nhưng
ở những nơi khác trên thế giới, Nga có thể thấy ít lợi ích hơn khi gây ra rắc rối,
vì họ cần phải cân nhắc cả những hạn chế về tài nguyên của mình lẫn sự khó lường
của chính quyền Trump. Chẳng hạn, nếu Iran vượt qua ngưỡng hạt nhân, thì Israel
(và nhiều khả năng là Mỹ) có thể sẽ đáp trả bằng hành động quân sự, dẫn đến một
cuộc chiến có thể phơi bày sự bất lực của Nga – Moscow không thể và không muốn
can thiệp vào việc phòng thủ của Iran, vì sẽ có nguy cơ đối đầu trực tiếp với
Washington – đồng thời làm mất ổn định khu vực Caucasus rộng lớn hơn ở phía
nam. Do đó, Moscow khó có thể giúp Tehran xây dựng kho vũ khí hạt nhân ở mức có
thể hoạt động. Nga đã nâng cao quan hệ đối tác quốc phòng với cả Iran và Triều
Tiên, nhưng họ không muốn bị lôi kéo vào các cuộc chiến của hai nước này –
không phải trong lúc họ vẫn đang chiến đấu ở Ukraine, và có lẽ cũng không phải
sau đó. Ở Dải Sahel, Nga cũng đã hiệu chỉnh lại vai trò quân sự của mình. Quân
đoàn Châu Phi của Nga – lực lượng lính đánh thuê do nhà nước kiểm soát đã thay
thế nhóm bán quân sự Wagner ở hầu hết các quốc gia mà nhóm này từng hoạt động –
chỉ muốn tập trung vào việc huấn luyện quân đội địa phương thay vì tham gia vào
các loại nhiệm vụ rủi ro cao mà lực lượng Wagner từng thực hiện. Moscow đang hướng
tới việc thiết lập các quan hệ đối tác an ninh bổ sung ở Châu Phi, để từ đó
tăng cường vị thế của Nga ở sườn phía nam của NATO. Nhưng xung đột leo thang có
thể gây nguy hiểm cho mục tiêu này vì nó có thể đòi hỏi nhân lực và nguồn lực của
Nga hơn mức Moscow sẵn sàng triển khai.
có
thể sẽ tiếp tục điều chỉnh lập trường của mình trong ngoại giao đa phương. Họ sẽ
ủng hộ BRICS và các diễn đàn phi phương Tây khác, nhưng có lẽ sẽ làm dịu chương
trình nghị sự chống phương Tây của mình để duy trì quan hệ tốt đẹp với Brazil,
chủ tịch BRICS năm nay, và Ấn Độ, nơi Putin đang có kế hoạch đến thăm trong năm
nay. Nga có thể chấp nhận rằng tiến trình về các vấn đề thực tế, chẳng hạn như
tạo ra một hệ thống thanh toán toàn cầu tránh các tổ chức tài chính của Mỹ hoặc
thiết lập các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng tiền tệ địa
phương, sẽ đòi hỏi một cách tiếp cận thận trọng để đảm bảo sự ủng hộ từ Brazil,
Ấn Độ và các bên tham gia chính khác. Tuy nhiên, Moscow cũng có thể nhận ra họ
đang ngày càng có nhiều quyền hạn hơn để phá hoại quản trị toàn cầu trong những
năm tới, vì sự khinh thường công khai của Trump đối với chủ nghĩa đa phương khiến
các hành động đơn phương của Nga có vẻ ít bất thường hơn. Và khuynh hướng liên
kết với Nga của chính quyền Trump – đầu tuần này, Mỹ đã đứng về phía Nga trong
hai cuộc bỏ phiếu tại Liên Hợp Quốc để đánh dấu kỷ niệm ba năm cuộc xâm lược
Ukraine của Nga – có thể tạo cơ hội cho các nhà ngoại giao Nga khai thác những
rạn nứt trong nội bộ phương Tây, nhưng vẫn cẩn trọng không gây hấn với
Washington hoặc các đối tác cải cách của Nga.
CHỌN
TRẬN CHIẾN CỦA RIÊNG MÌNH
Nga
sẽ không đàm phán để từ bỏ mối liên kết với các cường quốc xét lại khác, vì vậy,
châu Âu và các đối tác của mình cần giải quyết cách mà các quan hệ này làm phức
tạp quyết định của họ về việc ưu tiên các mối đe dọa nào và cách phân bổ nguồn
lực ra sao. Có nhiều điểm xung đột tiềm tàng. Nhưng việc cho rằng Nga đang gây
hỗn loạn ở khắp mọi nơi và cùng một lúc là không chính xác và không hữu ích. Một
chiến lược đối phó hiệu quả và bền vững phải nhận ra những hạn chế mà Moscow
đang phải đối mặt và tập trung nỗ lực của phương Tây cho phù hợp.
Ở
châu Âu, có khả năng cao là sự can thiệp của Nga sẽ leo thang. Các làn sóng đốt
phá, ám sát, và thông tin sai lệch sắp tới cần được chú ý ngay lập tức. Các nước
châu Âu không chỉ phải bắt Nga trả giá vì đã thực hiện các chiến dịch kết hợp bằng
cách thắt chặt hệ thống lệnh trừng phạt; họ cũng cần phải có các công cụ để ứng
phó với các cuộc tấn công mạng tương tự. Họ cũng phải chuẩn bị cho tình huống xấu
hơn: Nga cuối cùng có thể sẽ sử dụng một lực lượng quân sự được tính toán cẩn
thận để chống lại một thành viên NATO châu Âu, nếu họ nhận thấy liên minh này
quá yếu về mặt quân sự và quá chia rẽ về mặt chính trị để có thể ứng phó hiệu
quả. Dù các hoạt động của Nga ở châu Phi không phải là mối đe dọa trực tiếp đối
với châu Âu, nhưng các nước châu Âu nên nỗ lực ngăn chặn việc củng cố sự hiện
diện quân sự của Nga ở sườn phía nam của NATO. Đặc biệt, họ nên cố gắng cản trở
kế hoạch của Nga nhằm di chuyển các cấu trúc hậu cần mà nước này đã thiết lập
trước đó ở Syria sang Libya, nơi đóng vai trò là trung tâm mới cho các hoạt động
của Quân đoàn Châu Phi. Những nỗ lực hiện tại nhằm cố gắng gây chia rẽ giữa
Moscow và Chỉ huy Quân đội Quốc gia Libya, Khalifa Haftar, người kiểm soát các
khu vực Libya có tài sản quân sự của Nga, chỉ đơn giản là không đủ. Châu Âu và
các đối tác của mình cũng cần phải quay trở lại với công việc khó khăn và không
mấy hấp dẫn là khuyến khích quản trị toàn diện ở Libya. Để hạn chế sự xâm nhập
của Nga ở những nơi khác, họ nên cung cấp hợp tác an ninh cho các đối tác châu
Phi hoặc, vì những hạn chế về nguồn lực của chính họ, nên khuyến khích các quốc
gia đang có sự hiện diện ngày càng tăng trên lục địa này – như Thổ Nhĩ Kỳ và
các quốc gia vùng Vịnh – đóng một vai trò lớn hơn.
Ngoài
châu Âu và châu Phi, mối đe dọa trực tiếp mà Nga gây ra cho phương Tây là có giới
hạn, chí ít là trong hiện tại. Hợp tác quốc phòng của Nga với Trung Quốc, Iran,
và Triều Tiên chắc chắn là một vấn đề vì nó sẽ tăng cường năng lực quân sự của
cả bốn nước. Nhưng Nga không phải là nguồn gây bất ổn chính ở hầu hết các khu vực
trên thế giới. Tuy nhiên, châu Âu và Mỹ nên tiếp tục hợp tác chặt chẽ để thực
thi các lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu nhằm ngăn chặn Nga và các đối
tác hợp tác phát triển các công nghệ cực kỳ nhạy cảm. Họ cũng phải tiếp tục hợp
tác với các quốc gia có thể giúp ngăn chặn các hình thức hợp tác nguy hiểm – ví
dụ, Ả Rập Saudi có thể ngăn Nga chuyển giao vũ khí tấn công tầm xa cho Iran hoặc
Houthi. Việc xem xét khả năng Nga tham gia vào chiến tranh trên Bán đảo Triều
Tiên hoặc Trung Đông không cấp thiết bằng. Ngoài ra, khả năng liên kết
Trung-Nga dẫn đến các hình thức thông đồng cực đoan trong thời chiến, chẳng hạn
như việc cả hai sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong các cuộc xung đột đồng
thời, có vẻ là một viễn cảnh thậm chí còn xa vời và không thể xảy ra hơn, nhưng
nếu những kịch bản như vậy xảy ra, hậu quả sẽ đủ thảm khốc để các nhà hoạch định
quốc phòng phương Tây phải cân nhắc cách xử lý hành động xâm lược mang tính cơ
hội như vậy.
Trong
các thể chế đa phương, việc làm suy yếu sức mạnh của Nga đòi hỏi các nước
phương Tây phải nỗ lực đáp ứng các yêu cầu chính đáng của các quốc gia phương
Nam toàn cầu đang kêu gọi quản trị toàn cầu toàn diện hơn. Quỹ Tiền tệ Quốc tế,
Ngân hàng Thế giới, và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đều có sự đại diện mất
cân bằng cần phải được giải quyết, bất kể cải cách đó có khó khăn đến đâu. Sự
xa lánh giữa các thành viên BRICS và G-7 chỉ khiến lời kêu gọi của Nga về một
khối chống phương Tây thêm hấp dẫn, vì vậy việc ngăn chặn sự xa lánh sẽ là chìa
khóa. G-20 có thể đóng vai trò là cầu nối giữa hai nhóm quốc gia – điều này khiến
quyết định của chính quyền Trump về việc không tham dự cuộc họp của các bộ trưởng
ngoại giao G-20 tại Nam Phi vào tuần trước càng trở nên nguy hiểm hơn. Chính
quyền Mỹ đã rời khỏi một số cơ quan của Liên Hiệp Quốc và nếu sự thờ ơ của họ đối
với chủ nghĩa đa phương bị kéo dài, các nước châu Âu và các nước cùng chí hướng
như Australia, Canada, và Nhật Bản sẽ phải lấp đầy khoảng trống, cung cấp sự
lãnh đạo chính trị, bù đắp sự thiếu hụt về nguồn lực, và hỗ trợ tổ chức. Nếu họ
không hành động, Nga có thể nắm bắt cơ hội để làm xói mòn thêm sức hấp dẫn của
các thể chế toàn cầu này.
Chính
quyền Trump thứ hai tự nó cũng là nguồn gây ra biến động – trong quản trị toàn
cầu, đối với châu Âu và nhiều đồng minh khác của Mỹ. Đối với Nga, sự tái định
hướng của Mỹ mang lại một vài bất ổn, nhưng nhiều cơ hội hơn. Khả năng Nga lợi
dụng sự bất ổn ở những khu vực xa xôi bị giới hạn về mặt cấu trúc, và điều này
có khả năng sẽ tiếp diễn. Và nếu Trump, trong vai trò tổng thống, thỉnh thoảng
lại áp đặt luật pháp và trật tự theo ý thích của mình, thì kết quả có thể không
phải lúc nào cũng theo ý muốn của Nga. Nhưng sự rút lui rõ ràng của Trump về với
tư duy “phạm vi ảnh hưởng” theo kiểu thế kỷ 19 cũng có thể trao cho Nga nhiều
quyền hạn hơn để tăng cường can thiệp vào châu Âu – và châu Âu cùng các đối tác
của mình phải được trang bị các đánh giá chính xác về cả các mục tiêu tiềm năng
và giới hạn tiềm năng của các nỗ lực phá hoại của Moscow nếu họ muốn vượt qua
tình hình biến động sắp tới.
-------------------------
Hanna
Notte
là giám đốc Chương trình Không phổ biến Vũ khí hạt nhân Á-Âu tại Trung tâm
Nghiên cứu Không phổ biến Vũ khí hạt nhân James Martin và là và cộng tác viên
cao cấp không thường trú của Chương trình Châu Âu, Nga, và Á-Âu tại Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.
Nguồn: Hanna Notte, “How Big Is Russia’s Appetite for
Upheaval?,” Foreign
Affairs, 27/02/2025
No comments:
Post a Comment