GS
Nguyễn Văn Tuấn
Posted
by adminbasam on
08/08/2014
Hôm
qua đọc được bài phỏng vấn này (1) mà tôi nghĩ là hay, nên sáng
nay có cảm hứng viết vài dòng bình luận. Ông Nguyễn Như Mai (người được phỏng vấn) tỏ ra là người
am hiểu điều kiện làm việc ở nước ngoài, và cũng hiểu nguyện vọng của những du
học sinh muốn ở lại nước ngoài. Hiếm thấy ai ở trong nước có cái nhìn công tâm
như ông. Câu mà ông nói theo tôi là thành thật nhất và đúng nhất là câu
này: “[…] chỉ những người đã học ở nước ngoài mới dám nói: Ở nước ngoài họ được sống
thực với mình, dám nói điều mình nghĩ. Trong khi về nước, lại phải giấu giếm ý
nghĩ của mình, hoặc phải lựa chiều nói dối, không thực lòng. Đâm ra họ sợ.”
Tại
sao người Việt ở nước ngoài dám nói điều mình nghĩ, còn đồng hương trong nước
thì không dám? Tôi nghĩ đến sự khác biệt về những yếu tố liên quan đến tự do tư
tưởng, tự do học thuật, sự tiếp cận thông tin, và thói quen đặt câu hỏi. Những
yếu tố này, theo tôi, giải thích tại sao người Việt ở nước ngoài sống thật với
mình hơn là người Việt ở trong nước. (Khi tôi nói “nước ngoài” tôi đề cập đến
các nước như Tây Âu, Bắc Mĩ, Úc).
Thứ nhất là tự do tư tưởng được luật pháp bảo vệ. Ở nước ngoài, công
dân có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, và các quyền này được luật pháp bảo
vệ. Luật pháp Úc viết rất rõ rằng công dân có quyền có ý kiến, cho dù ý kiến đó
khác với ý kiến của đa số, mà không bị ai can thiệp và ngăn cấm. Ý kiến có thể
là qua nói, viết sách và trên internet, hoạ, điêu khắc, v.v. Do đó, công dân có
quyền phát biểu về bất cứ vấn đề gì mà họ quan tâm. Dĩ nhiên, tự do cũng có giới
hạn, nhưng sự giới hạn đó được luật pháp minh định. Có những chuyện xảy ra làm
tôi ngạc nhiên. Ví dụ như có lần một giáo sĩ Hồi giáo trong một bài giảng đạo
ông một cách gián tiếp ủng hộ những người tham gia khủng bố ở Trung Đông [theo
tôi hiểu]; ấy thế mà khi ra toà, ông được tuyên bố vô tội, vì toà phán ông có
quyền bày tỏ quan điểm! Thật khó hiểu, nhưng sự việc rõ ràng thể hiện một sự tự
do ngôn luận và tự do tư tưởng. Mỗi ngày, mở bất cứ tờ báo nào, bật tivi, mở
radio, công chúng nghe những ý kiến phê bình Chính phủ, phê phán thủ tướng và bộ
trưởng, thậm chí có người làm show hài đễ diễu cợt các chính khách. Đừng nghĩ
các chính khách không theo dõi; họ cũng có xem và nghe, nhưng không làm gì được
người dân vì họ có quyền phát biểu.
Còn
ở Việt Nam tuy rằng hiến pháp có ghi tự do ngôn luận và vài thứ tự do khác,
nhưng hình như chưa đề cập đến tự do tư tưởng. Hiến pháp ghi rằng “Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình.” Nhưng hài hước một điều là ngay sau câu đó thì cũng Hiến pháp thòng theo
một câu “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định”. Vả lại, quyền tự do chỉ
có giá trị trên giấy, vì trong thực tế những gì xảy ra không đẹp như ghi trong
Hiến pháp. Các cá nhân phê phán đường lối chính sách của Nhà nước đều bị sách
nhiễu hay thậm chí nặng hơn là bị bỏ tù. Cán bộ công nhân viên phê bình Nhà nước
thì bị trù dập hoặc kỉ luật. Hai chữ “phản động” được gán ghép một cách tuỳ tiện
cho những ai có suy nghĩ khác với Nhà nước và đảng. Tôi không nghĩ ra được ở
nơi nào trên thế giới mà bỏ tù người yêu nước chống quân xâm lăng, nhưng VN lại
làm chuyện đó!
Thứ hai là tự do học thuật.
Đối với sinh viên và nghiên cứu sinh hay những người làm việc trong môi trường
đại học thì tự do học thuật (academic freedom) là một “ngôi đền” trang trọng.
Theo lí tưởng của tự do học thuật, giảng viên và sinh viên trong đại học có quyền
tự do nghiên cứu, tự do giảng dạy và tự do học hỏi và tìm hiểu mà không bị kiểm
duyệt, đàn áp, hay chi phối bởi các thế lực chính trị và kinh tế. Nhưng ở VN, tự
do học thuật là cái gì còn xa xỉ, nhất là trong khoa học xã hội và nhân văn.
Nhiều giáo sư VN than phiền rằng khoa học xã hội ở VN chỉ có chức năng chính là
minh hoạ cho đường lối của đảng và Nhà nước. Những nghiên cứu với kết quả không
phù hợp với một chủ trương nào đó không được công bố. Có những chủ đề, ví dụ
như Hồ Chí Minh, được xem là cấm kị, nên chẳng ai nghiên cứu. Nhà văn Nhã
Thuyên làm nghiên cứu về nhóm văn chương “Mở Miệng” là bị báo chí chỉ trích y
như thời Nhân văn Giai phẩm, và bằng cao học của chị bị thu hồi. Đó là những
minh hoạ sinh động về sự thiếu tự do học thuật ở VN.
Một
môi trường thiếu tự do học thuật rất khó thu hút nghiên cứu sinh hay các giáo
sư, và khoa học rất khó phát triển. Không ai muốn giam hãm mình trong môi trường
bị ai đó kiểm soát, ngăn cản không cho nghiên cứu cái này, không được công bố
cái kia. Nhà khoa học là người yêu tự do, họ không thích ai “xỏ mũi” họ, họ sẽ
không bao giờ đi giảng dạy hay làm việc cho những đại học thiếu tự do học thuật.
Thiếu tự do học thuật làm ảnh hưởng xấu đến khoa học nước nhà. Chúng ta thấy vấn
đề tranh chấp Biển Đông, VN chẳng có bao nhiêu nghiên cứu, nhưng ở nước ngoài
thì khá nhiều. Hoặc như đời tư và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu
nước ngoài có khi còn có nhiều thông tin hơn các đồng nghiệp trong nước vì họ
có nhiều nghiên cứu hơn và chẳng ai ngăn cấm không cho họ công bố. Trên báo
chí, VN kêu gọi các chuyên gia nước ngoài về làm việc ở VN, nhưng với những hạn
chế về tự do học thuật (chưa nói đến kiểm soát tư tưởng) thì làm sao lời kêu gọi
đó thành hiện thực được.
Thứ ba là người dân nước ngoài được tiếp xúc nhiều nguồn
thông tin. Ở những nước phương
Tây, người dân được tiếp xúc với rất nhiều nguồn thông tin, nhất là qua phương
tiện internet. Bất cứ một vấn đề nào cũng có nhiều cách nhìn, và qua đó, nó
giúp cho người tiếp cận thông tin không cảm thấy mình bị nhồi sọ. Chẳng hạn như
tai nạn máy bay MH17, người dân ở nước ngoài được tiếp cận thông tin từ các nước
như Nga và khối Ả Rập, chứ không chỉ các nước phương Tây. Do đó, người dân có
thể có cái nhìn toàn cảnh, và có thể phân tích ai đúng ai sai.
Ngay
cả các vấn đề VN, nhiều khi ở ngoài này, Việt kiều có nhiều thông tin hơn và
nhanh hơn đồng hương ở trong nước. Vụ bạo động ở Tây nguyên, Việt kiều có thông
tin trước khi báo chí VN đưa tin 2 ngày! Đại đa số người dân trong nước không
biết đến công hàm Phạm Văn Đồng, nhưng Việt kiều đã biết từ 30 năm qua, thậm
chí còn biết một thứ trưởng VN là ông Ung Văn Khiêm
(2) từng tuyên bố với Tàu cộng vào năm 1956 rằng “Theo dữ liệu của Việt Nam, quần
đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.”
Có điều khá buồn cười là khi các quan chức cao cấp từ VN sang đây gặp bà con Việt
kiều, trong các buổi tiếp kiến, họ đọc một tràng dài về những số liệu kinh tế
(nhưng không bao giờ dám nói [hoặc từ chối nói] các vấn đề như biển đảo và quan
hệ với Tàu), và lúc nào cũng kèm theo câu “bà con thiếu thông tin”!
Ở
VN thì thông tin vẫn có nhưng là loại thông tin một chiều và hạn chế. Điều này
dễ hiểu vì toàn bộ hệ thống truyền thông là của đảng và do đảng điều khiển. Nếu
nhìn vào con số như VN có 838 tờ báo in, 95 báo điện tử, 67 đài phát thanh
& truyền hình, v.v. có vẻ rất tốt, nhưng thật ra tất cả chỉ có 1 tổng biên
tập! Phần lớn chỉ truyền đi một số thông tin giống nhau, và mang tính tuyên
truyền. Thông tin bị kiểm duyệt nghiêm trọng. Cứ xem qua những bản tin liên
quan đến tai nạn máy bay MH17 thì rõ VN chỉ cung cấp thông tin một chiều. Bật
truyền hình, chúng ta sẽ thấy những bản tin về lãnh đạo đi thăm nơi này, tiếp
chính khách kia, và những bản tin về kinh tế với những con số chính xác đến
0.01%. Tôi có cảm giác đó là những thông tin dành cho quan chức, chứ không phải
dành cho người dân.
Người
dân có điều kiện thì dùng truyền hình cáp để tiếp cận với thông tin từ các đài
truyền hình nước ngoài. Nhưng ngay cả các đài truyền hình ở nước ngoài cũng bị
kiểm duyệt khi truyền đi ở VN! Còn internet tuy có gần 1/3 dân số nối mạng,
nhưng có rất nhiều trang web và blog bị chận. Đối với người nước ngoài quen với
thông tin mở đến VN là chấp nhận mù thông tin.
Thứ tư là người nước ngoài có thói quen đặt câu hỏi và
tìm vấn đề.
Vì có tự do và thông tin, nên người học ở nước ngoài dám suy nghĩ khác người,
suy nghĩ mà người phương Tây gọi là ngoài cái hộp (thinking outside the box).
Thật ra, ngay từ lúc còn nhỏ ở bậc tiểu học, học trò đã khuyến khích tự mình
tìm hiểu thế giới chung quanh, đặt câu hỏi, và tranh luận trước lớp học. Họ được
khuyến khích đặt câu hỏi, phát hiện vấn đề. Do đó, khi lớn lên, họ nhìn đâu
cũng thấy vấn đề và rất hăng hái giải quyết vấn đề.
Tôi
kể một chuyện cá nhân nhưng có liên quan: có lần tôi chứng kiến cảnh tượng ở một
khách sạn trên đường 3/2 (Sài Gòn), hôm đó mưa ngập đường xá, khách từ khách sạn
muốn ra ngoài phải đi qua một cái cầu tạm bợ. Trong khi chờ xe, tôi thấy một
anh khách người Mĩ độ 35 tuổi, đem máy quay phim và máy tính laptop xuống
lobby. Anh ta với quần short và áo mưa, xông xuống đường, dầm mưa, quay phim,
và khi vào lobby anh dùng đường truyền internet gửi phim về Mĩ. Qua Skype anh
ta mô tả tình trạng ngập nước ở đây cho một người bạn, rồi bàn với người bên Mĩ
về cách giải quyết vấn đề. Anh nói: “I want solve this problem for them” (tao
muốn giải quyết vấn đề này cho họ). Tôi mon men đến hỏi anh ta đến đây lâu
chưa, anh nói mới 3 ngày thôi chưa đi du lịch đâu cả vì mưa quá, và anh ta là
kĩ sự cầu đường. Tôi nghĩ anh này đúng là Mĩ. Họ được huấn luyện phát hiện vấn
đề, và chinh phục vấn đề, dù vấn đề chẳng liên quan gì đến họ. Người Mĩ có cái
nhìn toàn cầu, làm cái gì cũng nghĩ sản phẩm này có bán cho khắp thế giới, vấn
đề này có thể giúp cho thế giới, v.v. Đó là suy nghĩ tích cực, chứ không phải yếm
thế như ở VN.
Nhiều
người ở VN ngạc nhiên không hiểu tại sao Việt kiều có quá nhiều ý kiến, nhận
xét. Đụng đến cái gì ở VN họ đều chê, chỉ trích, và phê phán. Có những vấn đề
mà người trong nước xem là bình thường, nhưng Việt kiều xem là bất bình thường.
Trước thái độ đó, người Việt ở trong nước thường nghĩ rằng “bọn Việt kiều phách
lối, nhiều chuyện”. Nhưng đó là hiểu lầm. Họ không biết rằng sống ở nước ngoài
lâu năm hay được trưởng thành từ hệ thống giáo dục nước ngoài, Việt kiều quen với
cách đặt vấn đề và phê phán (vì ở nước ngoài họ tiếp xúc hàng ngày như thế). Việt
kiều khi về VN nhìn đâu cũng thấy vấn đề (vì quả thật VN có quá nhiều vấn đề)
và có nhiều ý kiến là rất bình thường, và họ cũng chẳng có chống đối hay “phản
động” gì, vì đó là một nét văn hoá của họ.
Nhưng
ở VN, phương pháp giáo dục phổ thông đòi hỏi học sinh phải nhồi nhét một số kiến
thức cơ bản, và giải quyết những vấn đề theo một công thức đã định sẵn, nhưng
không khuyết khích cách đặt vấn đề, phát hiện vấn đề. Sự tôn ti trật tự trong học
thuật đó đòi hỏi người học sinh và sinh viên phải biết mình đang ở vị trí không
có quyền đặt vấn đề, không có quyền tranh luận. Hệ quả là chưa lên tiếng thì đã
bị phê bình ngay “con nít mới học vài ba chữ biết gì mà nói”, hay “không biết
thì dựa cột mà nghe”, hay thậm chí “hỗn với thầy cô”. Thái độ trù dập như thế
làm thui chột khả năng phát hiện vấn đề và làm suy giảm sự tự tin của học sinh.
Khi lớn lên trong một thể chế bán phong kiến bán Mao-Stalin cùng với bóp nghẹt
thông tin làm cho người dân thiếu tự tin và không dám suy nghĩ đến những vấn đề
“quốc gia đại sự” (vì đã có Nhà nước lo!)
Tất cả 4 yếu tố trên đều có chung một cái gốc: tự do. Người nước ngoài có
quyền tự do ngôn luận và quyền đó được pháp luật bảo vệ, còn VN thì không. Đó
chính là lí do tại sao “những người đã học ở nước ngoài […] sống thực với mình,
dám nói điều mình nghĩ. Trong khi về nước, lại phải giấu giếm ý nghĩ của mình,
hoặc phải lựa chiều nói dối, không thực lòng.” Đó là lí do tại sao người dân
thích chọn tự do hơn là môi trường thiếu tự do.
Một
khác biệt rất căn bản và rõ rệt giữa VN và các nước phương Tây (như Úc chẳng hạn)
là mối liên hệ giữa công dân và Nhà nước. VN có điều luật 88 trong Bộ luật hình
sự phạt những ai “tuyên truyền chống Nhà nước”. Nhưng ở Úc thì luật pháp cho
phép người dân có quyền phê phán mang tính chống Nhà nước và chống các chính
khách của Nhà nước. Phê phán có thể bằng tất cả các hình thức từ nói, viết đến
hội hoạ (mà hiểu theo VN là “tuyên truyền”).
Ở
nước ngoài, không có một Nhà nước nào dám nghĩ đến việc kiểm soát tư tưởng,
theo dõi suy nghĩ của người dân. Nhưng Việt Nam có cả một bộ máy từ trung ương
đến địa phương chuyên theo dõi tư tưởng và suy nghĩ của người dân. Bộ máy này
đó thậm chí còn muốn có mặt trong đầu của dân để kiểm soát tư tưởng trước khi
người dân phát biểu. Do đó, không ngạc nhiên khi người dân sống trong lo sợ. Họ
không biết những gì mình phát biểu có sai hay không. Có người còn sợ đến nỗi
không dám bấm nút “like” hay viết nhận xét trong các trang mạng xã hội! Một môi
trường ngột ngạt như thế rất khác với môi trường tự do ở nước ngoài. Do đó,
không khó giải thích tại sao phần lớn các em du học sinh thích ở lại nước ngoài
chứ không muốn về Việt Nam.
Thật
ra, cũng chẳng riêng gì các em du học sinh, đại đa số người dân VN đều trân quí
tự do và đi tìm tự do ở phương Tây. Người có điều kiện thì qua du học hay qua
các hình thức chính thức khác. Người không có điều kiện thì liều mình vượt biên
(cho đến nay vẫn còn hàng ngàn người Việt liều mình trên biển để đi tìm tự do).
Cũng chẳng có gì ngạc nhiên vì con người, như là một qui luật, thích chọn môi
trường tự do để sinh sống.
(1) http://infonet.vn/1213-quan-quan-olympia-khong-ve-nuoc-nhung-nguyen-nhan-chua-xot-post139487.info
Nguồn: FB Nguyen Tuan
-------------------------------
Du học sinh : Về hay ở ?
.
Giáo sư Nguyễn Minh
Thuyết chỉ ra 4 căn nguyên nhân tài đi mà không trở lại (Thùy Linh - GDVN) 13/12/15
.
.
.
No comments:
Post a Comment