Monday, April 25, 2011

NHỮNG NƠI NGƯỜI LÍNH ĐÃ ĐI QUA . . . (Phan Nhật Nam)


Thứ Bảy, 23 Tháng Tư-2011
(QuangTri 1972 /AP Photo-Koichiro Morita)

Huyvà tôi đã rất thành thật luôn khi tự xác nhận và nói với người khác: Chúng tôikhông là “nhà văn” trong nguyên nghĩa tức là những người dùng văn chương như mộtcách thế tiên khởi chính thống. Chúng tôi đã nói như thế vì chữ nghĩa chỉ đếnsau khi cây súng và bộ áo quần lính đã không giải quyết gì được, nếu không nóimột cách khác: Đấy chính là đầu mối của tất cả mọi vấn đề (bế tắc) và cũng lànguyên nhân gây nên nên tình huống không xuôi thuận giữa bản thân với hoàn cảnh.Nhưng cũng khó khăn thay, chúng tôi lại không có cuộc đời nào khác ngoài nhữngtháng năm trong lửa đạn (khác chăng là người chịu dài ngày, người gánh ngắn hạn)với những nơi chốn buộc phải đi qua, sống cùng, chết với. Như con người khôngcó, không còn một nơi nào khác ngoài mặt đất. Cũng bởi không thể ứng xử theo mộtchọn lựa nào khác nên khi nói đến chuyện chữ nghĩa, văn chương thì hình như độngtới một mối đau với cách bỡn cợt, mỉa mai tệ hơn nữa là một sự vô ích. Tôi kể lạinhững nơi chốn đã sống qua thêm một lần như một nén hương để tiễn đưa Huy...

1- Cửa Việt, QuảngTrị...
Mùa Đông năm 1967, hướng 6400 ly giác trên địa bàn, Tiểu Đoàn9 Nhảy Dù rời căn cứ Cửa Việt của Hải Quân Mỹ theo trục chính Bắc lúc trời vừaqua sáng. Trăng lạnh soi lên mặt biển lóng lánh sáng bốc khói sóng mờ đục. Nhữngđợt sóng nhỏ đập vào thành xe M’track của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ chuyển đoànquân đi lầm lũi trong ánh sáng của ngày chưa tới. Vượt khỏi làng Diêm Hà Nam vừachạm tới bờ rừng dương liễu của làng Diêm Hà Trung kịp nhận xa xa sông Bến Hảivạch đường mờ nhạt giữa bãi bờ cát xám thì cùng lúc khám phá thấy những bóng ngườilê lết bò ra từ những khối đụn nâu đen rải rác dọc bãi biển… Đám sinh vật ngườiđưa hai tay lên trời đồng lên tiếng kêu rên thảm thiết.. Bộ đội lính ơi.. Bộ độilính ơi.. Đồng bào mền khôn cả.. Lính cộng hòa ơi.. Tập trung tất cả lại, trờisáng dần giúp anh nhận rõ hầu hết là con trẻ, người già, hoàn toàn không có đànông thanh niên. Và trong số dẫu là những người nữ gầy gò trong độ tuổi trungniên hay trẻ hơn nhưng không ai mặc áo lót mà chỉ với vạt áo dài phủ xuống thânhình luôn ở vị thế bò và quỳ bởi không có chiếc quần che hạ thể. Anh tự nói thầmcâu vô nghĩa: Có người dân nào cùng khốn và đau thương hơn thế nầy khi nhìn vàonhững “căn nhà” mà những con người kia vừa chui ra: Đấy là những mui thuyền úptrên bãi cát, trên mặt cát ẩm ướt trải những manh chiếu tơi tả rách nát.. Mỗigia đình gồm mấy con người ngồi bó gối trên manh chiếu nát như thế từ bao ngàyqua. Nhưng sự bình yên khốn khổ cuối cùng cũng không còn khi pháo từ bên bờ Bắcsông Bến Hải bắt đầu dội xuống! Không phải pháo vài quả, vài tràng nhưng dồn dậpào ạt từ nhiều vị trí với đạn 130 ly đầu nổ công phá.. Lính nhẩy nhanh xuống nhữnghầm hố đào vội. Dân chỉ biết chui vào lại những căn chòi mong manh. Có nhữngmui thuyền bị đạn pháo bắn tung lên như rác vụn với những xác người bay bay.. Bộđội cộng hòa ơi.. Cứu đồng bào bộ đội cộng hòa ơi. Ngồi dưới chiếc hố dã chiếnanh úp nón sắt che kín mặt ủ vào hai gối, thầm nói như một lời thú tội: Ai cứu đượcai trong đạn pháo bây giờ?!
Tháng 1, 1973, Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến của Huy từ HươngĐiền, Thừa Thiên được lệnh lên đường tiến chiếm Cửa Việt, Quảng Trị được đặttên Mục Tiêu T. Ngoài vũ khí đạn dược mỗi người lính phải mang thêm trong ba-lônăm lá cờ để sẵn sàng cắm lên vị trí sẽ chiếm được. Cuộc hành quân có tính cáchthần tốc, thời gian được ấn định thật chi ly chỉ vỏn vẹn hai-mươi bốn giờ từ 7giờ sáng ngày 27 đến 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 – Ngày ký Hiệp Định gọi là TáiLập Hòa Bình Việt Nam ở một nơi xa nửa vòng quả đất. Đúng 7 giờ 58 phút sángngày 28 tháng 1 nghĩa là trước Lệnh Ngưng Bắn có hiệu lực hai phút quân miền Nam làm chủ đựơcchiến địa.. Ngưng bắn! Ngưng bắn! Đ..má.. không bắn nhau nữa.. Bắn làm đ.. gì giờnầy nữa mấy bác!!… Xông lên.. Chạy lên.. Không vũ khí chỉ có những lá cờ cầmtay và bao thuốc lá chìa trước mặt.. Hút đi mấy cha .. Đánh đá cái chó gì mà đánhdữ vậy..Hút đi.. Đây là thuốc quân tiếp vụ đ.. phải là thuốc của đế quốc Mỹ..Không có tẩm thuốc độc đâu.. Tôi hút trước cho mấy cha yên tâm. Lính nói tiếngNam, tiếng Trung, giọng Quảng chen lẫn âm sắc Hà Nội, Nam Định. Có người lính nướcmắt chảy dài nói trong tiếng khóc ghìm xuống..Đ..m giờ trước mà bắn trúng nhauthì thật là khốn nạn. Chết vô duyên, lãng xẹt. Hiệp định Hoà Bình ký ngày 28tháng 1 năm 1973 giúp người lính hai bên biết được điều vô nghĩa tàn nhẫn củachiến tranh. Chết khốn nạn. Chết vô ích. Nhưng “hòa bình” chỉ kéo dài được đếnchiều tối. Khoảng 9 giờ cùng ngày 28, lệnh Không Được Tiếp Xúc phải tuyệt đốithi hành và người lính tiếp tục đào xuống sâu hố cá nhân, giao thông hào để đềphòng bị tấn công sau hòa bình. Phía Bắc quân cũng im bặt, những người lính âmtiếng Bắc, mời thuốc lá ban sáng đã hoàn toàn vắng mặt. Nửa đêm ngày 28 rạng 29chiến tranh lại bắt đầu. Người lính vừa bóp cò vừa chảy nước mắt ghìm tiếngthét căm phẫn.. Đánh nhau làm gì nữa trời ơi?!! Từ dưới hố cá nhân được đào sâuthêm trong những “giờ hòa bình” Huy nhìn lên bầu trời tối đen với những ngôisao lấp lánh trên cao.. Anh cũng muốn gào lên lên câu hỏi tương tự và tuôn tràogiòng nước mắt giận dữ. Cũng chẳng biết giận ai. Anh nói tiếng nhỏ qua máy truyềntin.. Đ.. m không được bắn hoảng, kể từ giờ phút nầy chỉ còn tự túc cá nhân chiếnđấu, không yểm trợ, không tiếp tế, không tải thương để khỏi mang tiếng vi phạmlệnh ngưng bắn, để bảo vệ hòa bình mà hiệp định vừa mang lại. Trên toàn cầu nhiềugiới người gồm những nguyên thủ quốc gia, chính khách, nhà tu, những kẻ vận động,yêu chuộng công lý hòa bình đồng nâng ly chúc mừng thắng lợi của hiệp địnhtrong tiếng chuông nhà thờ ngân vang mừng hòa bình đã đến với con người thế giớinói chung, ba nước Đông Dương, Việt Nam nói riêng! Từ 28 đến 31 tháng 3 Huy đạitiểu tiện một chỗ trong hố cá nhân bởi chiếc cần ăng-ten của máy truyển tin PC25 vừa nhú ra khỏi mặt đất đã bị cắt cụt bởi một tràng thượng liên vô cùngchính xác. Cuối cùng đại đội của Huy rút lui về phía sau theo chiến xa của ThiếtĐoàn 20 mở đưòng máu giữa trùng vây của một trung đoàn lính Bắc Việt mới được tăngcường thay thế đơn vị bộ đội đã hút chung điếu thuốc lá, khóc với lính cộng hòatrong sáng ngày 28. Đại đội Huy phải bỏ lại trận địa nhiều xác chết và thươngbinh - Những đồng đội vừa chết trong trận đánh sau hòa bình. Có người lính chếttrong túi còn nửa điếu thuốc lá hút dở. Điếu thuốc của một bộ đội miền Bắc mờingày hôm kia chưa kịp hút hết thì đã vội nhảy xuống hầm..

2- Huế, Thừa Thiên.
Mùa hè 1972, từ Mang Cá, thành nội Huế bản doanh của Bộ Tư LệnhTiền Phương Quân Đoàn I, cũng là tiền trạmcủa Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù, đơn vị tăng phái cho mặt trận Trị-Thiên đang trong hồinguy ngập, anh đi bộ ra hướng Hồ Tịnh Tâm. Qua khỏi khu hồ vuông vức anh rẽ phảihướng về Đường Mã Khái. Những năm thơ ấu trước 1950, anh thường theo Mẹ đi trênlối nhỏ nầy về nhà Cậu Cả. Lối đi ngày ấy một bên được chắn bởi hàng rào lá chèđan dày và một bên là con rạch nhỏ lác đác những lá tre vàng khô lay lắt chuyểnđộng, thân cây tre theo gió cạ vào nhau gây nên tiếng kĩu kịt rì rầm bí ẩn. Thuởấy dẫu buổi trời đang nắng gắt, con đường luôn xanh um bóng mát làm đậm thêmmùi cây lá mục rã dưới rạch nước sẫm màu rêu. Ngày ấy đứa bé luôn có cảm giácnôn nóng khi đi đến căn nhà thoang thoảng mùi thơm của nhiều loại hoa chưa biếthết tên; vườn nhà cậu trồng nhiều cây nhưng đứa bé chỉ lưu tâm về cây trứng cábên giếng nước sai trái chín đỏ lẫn với quả xanh mọng nứt mùi mật vo ve rì ràonhững con ong nhỏ, và cây khế với chùm trái căng vàng lẫn trong tàng lá lấm chấmnhững cánh hoa trắng. Cây khế là nơi chị Ng bế con mèo đứng chụp hình, tóc xõaxuống trán che dấu sẹo nhỏ, dáng điệu nhu mì hiền thục. Đứa bé rất thương yêungười chị vì chỉ có chị mới che chở cho nó khi bị cậu la rầy.. Thằng R còn nhỏthầy đừng la em tội nghiệp, nó không cha mới vô đây ở với nhà mình.. Chiếc ảnhcủa chị treo nơi căn nhà ngang lợp tranh tường quét vôi trắng xôm xốp ẩm ẩm. Cănnhà trên đứa bé không được phép lên bởi là nơi thờ Phật, nó chỉ được nhìn vào từchỗ đậu xe hơi đến chiếc ghế gỗ lót da nơi cậu ngồi hút thuốc uống trà dưới bứcảnh của anh D. Anh đi học bô-da bên Tây theo ý kiến gợi nên từ mẹ. Chỉ mấy phútcủa chuyến đi ngắn anh sống hết, đủ với cảnh sắc, mùi vị, hương thơm của nhữngngày thơ ấu luôn cho anh nguồn vui, mối an ủi nụ cười bất chợt trong những cảnhhuống khắc nghiệt nhọc nhằn.. Cậu ơi! Con đây.. Nhà có ai không. Cánh cửa gỗkhóa chặt, sân đất ngổn ngang xác lá và những luống hoa tơi tả, trốc gốc, héotàn. Anh nhìn quanh quất nghe ra âm âm gờn gợn điêu tàn của chốn không người, lầnsụp vỡ không khả năng, cơ hội hồi phục. Anh nhảy qua khung cửa gỗ, đi lên lốinhỏ của hơn hai mươi năm trước, đến trước chiếc xe phủ bạt kín, nhìn vào căn hầmđất đắp nổi.. Hình dạng người ngồi bó gối im lặng.. Cậu ơi.. Cậu ơi.. Con đây..Con R, con O Tám.. Hình người chuyển động bò ra.. Những ngón tay rờ rẫm trênchiếc áo lính.. Con hả.. Cả nhà đi hết rồi.. Chỉ còn lại cậu.. Chị Ng và mợ đâucậu. Mợ, chị và hai em đi vào Đà Nẵng, chung quanh ni ai cũng đi hết.. Họ đi vìsợ như Mậu Thân, xóm ni năm đó có mấy người bị giết.. Họ đem lấp dưới mương trướcnhà mình. Mậu Thân con từ Quảng Trị vàoHuế thì bị thương ở Cửa Thượng Tứ nên không về nhà thăm cậu, mợ và chị được.. Cậubiết, có mấy người lính nhảy dù vô ở nhà mình, cậu có hỏi về con.. Con biếtchuyện đó, đó là lính của tiểu đoàn con nhưng khác đại đội. Vì đại đội con kẹt ởCửa Thượng Tứ nên con không về thăm cậu được, đứng trên thượng thành nhìn vềphía nhà mình tưởng cảnh cậu mợ, chị và hai em không ai lo lắng, chăm sóc.. Anhnhắc lại trận đánh như muốn làm nhẹ phần hối hận về một bổn phận thiếu sót. Anhtrở lại ý định sẵn có: Con đưa cậu vô Đà Nẵng ở với chị H.. Ông cậu nói nhỏ nhưngdứt khoát: Hôm nay giỗ bà, cậu làm giỗ bà với bát cơm và chút muối mè. Không hươngđèn, cậu tụng kinh cho Bà không cần lên bàn thờ Phật. Hôm nay Bà đưa con về nhàvới cậu là để nhớ Bà. Cậu không đi đâu nữa. Cậu ở lại với Huế. Một trái hoả tiễnloại địa không 122 ly từ đâu rơi xuống nổ bùng ngay giữa sân.. Anh ngã chụp lênngười ông cậu nghe rõ cơn run rẩy của người già qua da thịt của mình. Anh xa Huếtừ năm đó đến nay. Không rõ cậu, mợ anh đã chết lúc nào, ở đâu sau 1975. Chị Ngvà hai con cũng không biết có còn không sau lần di tản khỏi Huế tháng Ba,1975.
Tháng Ba, 1975. Huy và những người lính Tiểu Đoàn 4 Thủy QuânLục Chiến từ căn cứ An Lỗ trên Quốc Lộ I đường đi Quảng Trị rút về Huế dửng dưng.Qua ngã ba An Hòa, cửa ngõ dẫn về Huế đã gần 12 giờ khuya. Đến cầu Bạch Hổ, tạichòi gác ở gần cầu, Huy thấy một người lính Nghĩa Quân quần áo súng đạn rất chỉnhtề đang đứng gác. Huy ngạc nhiên hỏi với giọng đùa: Giờ này còn đứng gác cái mẹgì ở đó, cha nội? Em không nhận được lệnh gì hết. Lệnh cái con c.. Tiểu đội trưởngmày đâu? Một người lính già tay xách khẩu súng chạy lại. Dạ tôi. Huy nói như gầm:Huế bị bỏ rồi, ông còn gác cái gì nữa. Tôi là trung úy ra lệnh tan hàng, về lomang vợ con đi gấp nghe không! Dạ.
Huy gom lính đi tiếp thấy thêm cảnh tượng.. Một bà già đứng ởcửa một túp lều bên vách tường thành Phú Văn Lâu, một tay cầm đèn dầu, tay cònlại quẹt nước mắt liên hồi, nhìn đám lính khẩn thiết tang thương. Huy hỏi bà cụ:Mệ muốn đi theo tụi con không? Mệ không có tiền! Huy nói nhanh: Tụi con cho mệtiền, hay mệ đi chung với tụi con. Bà già khóc nhỏ, buông xuôi: Chừ hết kịp rồicon ơi! Huế đang là một thành phố chết và đang là một thành phố bị bỏ ngỏ. Cảthành phố chỉ còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái sáng cái tối. Đạn pháo Việt Cộngnã đều vào cầu Trường Tiền (cũ) và khách sạn Hương Giang. Đó đây người ta đang đạpxe ba bánh, xe xích lô đi hôi của. Đi lối cầu mới thì được an toàn, nhưng Huyquyết định dẫn lính đi lên lối cầu Trường Tiền (cũ) mặc dù cầu đang bị pháo. Mộtchút lãng mạn trong người Huy nổi dậy, chẳng gì cũng chỉ còn là lần chót. Ngay đầucầu, một chiếc M-48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ mà không có người. Lên đến giữacầu, Huy nói với mấy người lính đệ tử: Quay lại nhìn Huế lần chót bay, chắc chắnlà mình sẽ không đánh ra tới đây để lấy lại đâu. Một nỗi buồn dâng lên tronglòng, Huy không khóc ra tiếng nhưng nước mắt doanh tròng. Bao nhiêu gian truân,bao nhiêu xương máu, bao nhiêu xác người, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của bạn bè,của anh em đồng đội đã đổ xuống cho vùng địa đầu nghiệt ngã này. Đồ tiếp liệutrong thành Mang Cá dư sức cung cấp cho Lữ đoàn Huy ít nhất là ba tháng, tạisao không cho lính Thủy quân Lục Chiến vào Thành Nội để tử thủ ở đấy? Ờ mà tửthủ làm gì? Tội chó gì lại nghĩ đến chuyện ở lại đánh nhau để chết oan mạng!anh nghĩ lan man trên đường triệt thoái ra khỏi Huế. Qua hết cầu, Huy gặp đạiúy Chiêu, tay cầm chai rượu chát khổng lồ, túi đút chai rượu mạnh. Bao nhiêu tủihờn, căm hận, buồn bực biến mất nhanh như viên đạn ra khỏi nòng súng. Huy và nhữngngười lính ngồi quây tròn giữa ngã tư đầu cầu Trường Tiền nhậu không mồi, khôngnước đá.. Huy đập vỡ cổ chai bia rót từ đầuxuống.. Thích thú vì từ bé đến lớn chưa bao giờ được tắm bằng bia. Đại đội trưởngcủa Huy không biết từ đâu tới cho biết điểm hẹn đã thay đổi vì những kho đạn,kho xăng ở bến phà Thuận An đã bị cháy, không biết vì pháo kích hay vì đặccông. Điểm tập trung mới là bến phà Tân Mỹ. Đến bến phà Tân Mỹ khoảng 6 giờsáng. Người đã tập trung ở đây rất đông nhưng phương tiện qua sông lại không cómột cái. Bao nhiêu ghe, thuyền nằm hết ở bờ bên kia phá Tam giang. Khoảng 11 giờđại đội Huy vượt xong phá Tam Giang. Hơn 12 giờ trưa đơn vị được lệnh di chuyểnra bờ biển. Vừa lên hết đụn cát cạnh làng Huy đã thấy ngay một chiếc tàu thật lớnmang số HQ-801 thừa sức chứa cả lữ đoàn đã đợi sẵn ở gần bờ không biết từ baogiờ.
Nhưng Huy và những người lính thuộc đơn vị thủy quân lục chiến,nhiều người lính của những binh chủng, đơn vị khác không bao giờ lên được chiếctàu hy vọng kia mà phải leo lên một chiếc xà lan khác để hứng chịu hoàn cảnh..Những cái xích sắt nghiến nát những đầu người. Tiếng máy nổ và tiếng nước vỗ đãát đi những tiếng thét tiếng la và có thể, cả tiếng vỡ của những cái đầu, nhưngkhông có gì có thể che lấp được những mảnh quần áo và mầu đỏ của máu cuộn theochiều quay của xích sắt. Màu đỏ của máu và những mảnh vải cuộn theo suốt lộtrình khoảng một trăm thước. Màu đỏ của máu và những mảnh quần áo chắc chắn còndính cả thịt còn trồi lên, trồi lên xen lẫn với bọt nước.. Cuối cùng Huy phải bỏ đường lên tàu thủy đểtrở lại đường bộ.. Nhưng đường bộ phải chạy qua những cái chốt của lính cộng sản,chưa bao giờ bọn người này được bắn sướng tay đến như vậy. Mỗi tràng đạn ít racũng phải trúng vài ba người. Nhưng ai ngã mặc ai những người chạy vẫn cứ chạy..Lại có rất nhiều người tự tử. Bây giờ họ không tự tử từng người, từng cá nhânmà họ tự tử tập thể. Không rủ, không hẹn và hầu như họ đều không quen biết nhautrước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè đi nữa họ cũng không thể nhận ra nhau trướckhi cùng chết với nhau một lúc. Dòng người của đơn vị Huy đang chạy, một ngườitách ra ngồi lại trên cát, một người khác cũng tách dòng người ra ngồi chung,người thứ ba, người thứ tư, người thứ năm nhập bọn, họ ngồi tụm với nhau thànhmột vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ bung ở giữa..

Phần trên đây tôi viết theo trích dẫn trong Tháng Ba Gãy Súng của Huy. Tôi có thể trích dẫn thêm nhiều chi tiết khác.. Nhưng quả tình tôi thấm mệt, kiệt sức. Trong bãi máu bờ biển Thuận An Tháng Ba năm 1975 có nhiềungười tôi quen thân.. Không phải chỉ ở đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ... mà rất đông, rất đông người khác nữa. Có người tôi không gặp lại từ hơn ba mươi-lăm năm nay. Nay lại là một tháng Ba để đủ ba–mươi sáu năm mà vẫn không thể nào quên. Không thể quên được kể cả sau cái chết. Đau hơn cái chết.
Tôi viết những dòng cuối cùng nầy tại nơi mà đã có một thời làm việc chung với Huy, trên màn ảnh máy computer tôi sử dụng vẫn còn Email Address và Icon riêng của Huy.

Phan Nhật Nam
Tháng Ba – 2011
(Đã in trên Hợp Lưu 113, số tháng 3&4-2011)
.
.
.

No comments: