Xuân Thủy tổng hợp
15:11 | 28/02/2011
TP - Trong khi các nước Đông Nam Á tranh cãi có nên xây đập thủy điện Xayabury trên dòng chính sông Mekong (đoạn qua Lào), thì Trung Quốc đang hứng chịu hậu quả của việc xây đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử - đập thủy điện lớn nhất thế giới - sau hơn bốn năm vận hành.
Nhiều loài sinh vật sẽ tuyệt chủng
Theo các chuyên gia, ảnh hưởng về môi trường từ các đập thủy điện lớn là rất lớn. Đập Tam Hiệp, dài khoảng 2km, không phải là ngoại lệ. Sự hình thành con đập cùng hồ chứa khổng lồ đã tác động ghê gớm tới môi trường thượng và hạ nguồn sông Dương Tử.
Nhiều loài sinh vật trong vùng đều bị ảnh hưởng, một số loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Chất lượng nước biến đổi rõ rệt. Cư dân trong vùng phải đối mặt nguy cơ động đất và sạt lở đất.
Theo báo chí Trung Quốc, lượng nước tăng lên trong vùng hồ thủy điện làm xói lở bờ sông ở 91 phụ lưu của dòng Dương Tử, gây ra những con sóng cao tới 50m. "Các thảm họa địa chất thường trực là mối đe dọa nghiêm trọng đối với người dân sống trong vùng ảnh hưởng của con đập", Hoàng Tuệ Bình, một kỹ sư, nói.
Theo Hạ Bá Vinh, một nhà sinh vật học ở tỉnh Hồ Bắc, trên dòng Dương Tử, xưa nay người ta ghi nhận có tới 300 loài cá. Con đập đã tạo ra một rào chắn khổng lồ mà các loài thủy sinh khó có thể vượt qua. Cá không thể lên thượng nguồn đẻ trứng và số lượng cá thể giảm đi nhanh chóng.
Những loài sinh vật bị ảnh hưởng khác bao gồm cá heo nước ngọt, cá tầm Trung Quốc, hổ, cá sấu, sếu Siberia và gấu trúc khổng lồ. Tại lưu vực sông Dương Tử, nơi xây đập Tam Hiệp, có tổng cộng 47 loài động vật quý hiếm hoặc sắp tuyệt chủng được pháp luật Trung Quốc bảo vệ.
Ông Hạ nói, nơi sinh sống duy nhất của loài cá heo nước ngọt Trung Quốc là sông Dương Tử và số sinh vật đang trên bờ tuyệt chủng ấy chỉ còn chưa tới 100.
Hồ chứa của đập Tam Hiệp chính là nơi sinh sống chính của cá heo. Chính phủ Trung Quốc đã phải lên kế hoạch bảo tồn cá heo và những loài vật khác bằng việc tạo ra các khu dự trữ sinh quyển và hỗ trợ sinh sản nhân tạo. Tuy nhiên, những nỗ lực trước đây về việc chuyển vùng cho cá heo sông Dương Tử đều thất bại.
Một trong những tác dụng phụ của việc xây đập Tam Hiệp là các thị tứ và cánh rừng trong vùng nước ngập phải bị phá bỏ và thu dọn nhằm tạo điều kiện cho tàu bè lưu thông. Tuy nhiên, việc mất rừng và đất nông nghiệp dẫn tới xói lở bờ sông, tạo ra trầm tích ở đáy sông và đáy hồ chứa.
Đồng thời, việc này cũng làm tăng nguy cơ ngập lụt cho vùng thượng nguồn. Trong khi đó, trầm tích và phù sa, những thứ rất cần thiết cho việc trồng trọt, bị chặn lại, khiến đất đai vùng hạ lưu trở nên bạc màu.
Việc phá hủy làng mạc còn dẫn tới tình trạng ô nhiễm môi trường. Sông Dương Tử đã bị ô nhiễm từ việc chuyên chở than, từ các trận mưa a-xít và từ chất thải của nhiều trung tâm công nghiệp của Trung Quốc. Các chất gây ô nhiễm từ những khu vực bị xóa sổ cũng góp phần làm dòng sông thêm bẩn.
Người ta đã gây quỹ để giúp làm sạch vùng lòng hồ, nhưng chỉ thời gian mới cho câu trả lời về hiệu quả. Lưu tốc nước trong vùng lòng hồ thấp dần và người ta lo ngại các chất độc hại sẽ lưu cữu trong nước, khiến chất lượng nước ngày càng xấu đi.
"Những hậu quả khác từ việc xây đập Tam Hiệp là hàm lượng oxy trong nước rất cần thiết cho sự sống của các loài sinh vật đã giảm xuống", ông Hạ cho hay. Theo ông, sự có mặt của con đập ngăn cản quá trình hòa tan oxy vào trong nước, do dòng chính của sông đã bị chặn lại. Nước sông ở phía dưới đập sẽ chảy chậm hơn, lượng oxy trong nước sẽ thấp hơn trước. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái thủy sinh vùng hạ lưu.
Tất nhiên, không thể phủ nhận thủy điện là ngành công nghiệp sạch khi không tạo ra khí nhà kính. Việc vận hành thủy điện Tam Hiệp, khánh thành năm 2006, tiết kiệm 50 triệu tấn than (vận hành các nhà máy nhiệt điện), hạn chế hiện tượng mưa a-xít, giúp làm sạch không khí.
Nhưng cái giá phải trả cũng không nhỏ chút nào, và ngày càng có nhiều người nghi ngại về sự tồn tại của đập thủy điện lớn nhất thế giới này. Tính ra, đã có 140 thị trấn, 1.000 làng mạc, hai thành phố, 100.000 ha đất nông nghiệp màu mỡ đã ngập chìm trong vùng lòng hồ. Khoảng 1,9 triệu người phải di dời.
Và một trong những lợi ích được người ta đề cao khi xây đập Tam Hiệp là điều tiết nước, chống lũ lụt. Nhưng những gì xảy ra trong năm 2010 khiến nhiều người nghĩ tới chiều hướng ngược lại.
Không có tác dụng chống lũ?
Bốn năm sau khi đập Tam Hiệp khánh thành (tháng 5-2006), các tỉnh phía nam Trung Quốc chìm ngập trong một đợt lụt lớn chưa từng có.
Hồi tháng 6 và 7- 2010, các trận lũ lớn ở nhiều tỉnh miền nam làm hơn 700 người thiệt mạng, trên 300 người mất tích, 700.000 nhà cửa bị phá hủy hoàn toàn, 8 triệu ha hoa màu bị hư hại. Hơn 8 triệu người phải sơ tán, trên 29 triệu người bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Thiệt hại ước tính 21 tỷ USD.
Tuy nhiên, trước những đợt lũ hoành hành ở vùng hạ lưu sông Dương Tử, giới chức Trung Quốc không thể đưa ra bằng chứng nào cho thấy đập thủy điện Tam Hiệp có tác dụng trong việc điều tiết nước.
Theo tính toán ban đầu, hồ thủy điện đập Tam Hiệp, dung tích 22 km3 , sẽ có khả năng làm giảm tần suất các đợt ngập lụt lớn từ một lần trong 10 năm xuống một lần trong 100 năm. Nhưng khi đập chuẩn bị hoàn thành, có ý kiến cho rằng, sông Dương Tử sẽ làm tăng trầm tích bùn vào hồ lên khoảng 530 triệu tấn/năm, khiến hệ thống hồ và đập thủy điện này không có khả năng ngăn lũ.
Trong đợt lũ lụt năm 2010, đập Tam Hiệp đã 3 lần xả nước và mỗi lần như vậy đều gây ra những thiệt hại to lớn cho vùng hạ du.
-----------------------
Ý định xây đập Tam Hiệp có từ thời lãnh tụ Tôn Trung Sơn. Năm 1919, người ta bắt đầu nghiên cứu tiền khả thi về công trình thủy điện này, và kéo dài đến năm 1930.
Sau trận lụt lịch sử năm 1949, chính phủ Trung Quốc đẩy mạnh việc nghiên cứu. Sau đó, bị gián đoạn do tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc có nhiều biến động. Mãi tới năm 1980, lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ là Đặng Tiểu Bình mới cho khởi động lại chương trình.
Năm 1994, công trình đập thủy điện Tam Hiệp cao 181m được khởi công tại Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc, và hoàn thành sau đó 12 năm. Ước tính, chi phí xây đập vào khoảng 75 tỷ USD hoặc cao hơn. Công suất phát điện: 18,2 gigawatt.
.
.
.
No comments:
Post a Comment